Truyện Cổ Phật Giáo
Tập 5
Thích Minh Chiếu
Sưu tập
---o0o---
Bất diệt trong sanh diệt
^
Có một
hôm, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
- Bạch
Ðức Thế Tôn! Ngày trước khi chưa gặp Ngài, tôi thường nghe các ngoại đạo
nói thân này chết rồi mất hẳn. Và như thế gọi là Niết Bàn. Ðến nay tuy gặp
Phật, đối với vấn đề ấy tôi vẫn chưa thể giải quyết cách nào cho khỏi phải
trái với tâm tánh bất sanh bất diệt?
Phật dạy:
- Nhân
giả! Cái thân thể của ông đó có thường còn không tiêu diệt không?
- Bạch
Ðức Thế Tôn! Phải tiêu diệt?
Vì thân
tôi tuy chưa chết nhưng tôi xét thấy nó thay đổi mãi mãi, như lửa đốt củi
thành than, than tiêu ra tro, cho đến tan mất.
- Chính
vậy, nhân giả! Nhưng ông già yếu như thế dáng mạo hiện giờ có giống lúc
còn nhỏ không?
- Bạch
Ðức Thế Tôn! Giống thế nào được? Khi nhỏ tôi tươi trẻ mà nay già cả thì
tóc bạc mặt nhăn...
- Nhưng
đột nhiên thay đổi như thế chăng?
- Bạch
Ðức Thế Tôn! Nó ngấm ngầm thay đổi, tôi không hề biết. Khi hai mươi khác
lúc mười tuổi, khi ba mươi lại suy hơn hai mươi, đến bây giờ sáu hai tuổi,
ngó lại lúc năm mươi thì lúc ấy cường tráng nhiều. Nhưng đó là kể trong
chừng chục năm, chứ thật suy xét kỹ càng thì nó thay đổi trong từng phút,
từng giây và rồi đây sẽ điêu tàn.
- Nhân
giả! Ông xét thân thể ông biến hóa không ngừng và sẽ tiêu diệt như thế,
nhưng ông có biết trong cái thân sanh diệt ấy có cái gì bất sinh bất diệt
không?
- Bạch
Ðức Thế Tôn! Thật tôi không biết.
- Nhân
giả! Ông bắt đầu thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?
Bạch Ðức
Thế Tôn! Khi ba tuổi mẫu thân tôi dắt tôi đi bái yết đền trời Kỳ Bà, bấy
giờ đi ngang qua sông Hằng tôi đã trông thấy nước sông ấy.
- Ông vừa
nói thân thể ông thay đổi rõ ràng nhất là trong hàng chục năm. Vậy khi ba
tuổi ông thấy nước sông Hằng với mười ba tuổi thấy nước sông ấy, hai cái
thấy đó có gì khác nhau không?
- Bạch
không! Cho đến nay sáu mươi hai tuổi rồi mà sự thấy vẫn cũng như thế.
- Nhân
giả! Ông lấy làm lo lắng khi thấy thân thể ông tóc bạc mặt nhăn, khi già
khác lúc trẻ. Nhưng cái thấy nước sông Hằng đó có trẻ già thay đổi như
thân thể ông không?
- Bạch
không! Cái thấy ấy lúc nhỏ cho đến bây giờ đây không sai biệt gì cả.
Phật dạy:
- Nhân
giả! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy (kiến tánh) chưa khi nào nhăn. Hễ cái
gì nhăn thì quyết phải biến đổi, còn cái gì không nhăn thì cái ấy quyết
định bất biến. Cái gì biến đổi thì phải tiêu diệt, còn cái gì không biến
đổi thì vốn bất sinh diệt. Cái đã không sinh diệt thì đâu có bị sinh tử
lưu chuyển. Sao ông không tự giác bản tánh bất sinh diệt ấy mà dẫn câu
chết rồi mất hẳn của bọn đoạn kiến ngoại đạo để tự nghi hoặc.
Vua Ba Tư
Nặc nghe Phật khai thị như thế liền giác ngộ bỏ thân thì thọ thân, chứ
không khi nào mất hẳn.
Như một
người ngồi trên chiếc đò, đò đi thì thấy là bờ chạy. Cũng như thế, người
ta chỉ nhìn mình hoàn toàn với con mắt sanh diệt. Người ta đã tự phủ nhận
giá trị của mình vậy.
Ðạo Phật
trái lại, lại phát huy cho ta thấy, trong cái thân thể sinh diệt vô thường
có cái bản tánh vô thường bất sinh diệt. Ðạo Phật đã phát huy bản tánh ấy
bằng cách căn cứ ngay với các giác quan thô cạn chứ không xa xôi đâu khác.
Và khi nói đến bản tánh, bất sanh diệt ấy, thì đạo Phật đã dùng vô số danh
từ rất cao đẹp.
Thật ra,
chúng ta bất lực, tư tưởng hành động bị “Vô minh” chi phối. Là vì chúng ta
không tự ngộ bản tánh ấy. Nếu giác ngộ tánh bất diệt trong sanh diệt thì
toàn thể sanh diệt là bất diệt vậy.
Và cuộc
đời chúng ta sẽ hiện thân của Từ Bi, sẽ rạng ngời ánh Trí Tuệ, nếu chúng
ta luôn luôn sống với bản tánh bất diệt trong cuộc đời sanh diệt.
Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh
Một đời sinh tử tánh thường như
Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở
Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.
Thích Trí Ðức
Bảy bước thăng trầm
^
Một hôm,
thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ
Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo
những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc
biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:
- Bạch
Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?
- Ồ thanh
niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!
Thanh
niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường
anh ta suy nghĩ: “Mình lao đồng suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức
thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ.
Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.
Nghĩ thế,
thanh niên bèn cạo đầu đắp ca sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của
đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên
chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ
hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với
khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để
lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục,
Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ. Một hôm gặp con voi khó luyện,
chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế
Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán,
xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến
khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định
làm là cưới một chị vợ để thay đổi không khí, họa may đời chàng có một
chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng, và
muốn thay đổi lần chót, do đó chàng cưới vợ.
Đời sống
hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm
kia, chàng trằn trọc không ngủ được, dòm qua thấy chị vợ đang ngủ say, mép
tiết ra một đống nước bọt trên gối, bụng mang bầu lớn trướng như một con
cá “bong mú” sắp tới kỳ sinh nở, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế khốn nạn
của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi
hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa.
Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc,
bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy
một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi
trên đường.
Trong lúc
ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn
tán về chàng:
- Tên đó
lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh
đồng ý không?
- Đồng ý!
Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài,
làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.
- Phải
đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu
hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!
- Chúng
ta hãy chờ xem!
Đúng lúc
ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn
tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin
được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.
Lần thứ
sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội
tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan, và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh
quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta
cũng tham dự, không ngớt ngắt lời vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:
- Này
Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát
biểu ý kiến của mình.
Vài vị Tỳ
Kheo bênh vực Citta:
- Bạch
Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực
chứng. Xin chớ khiển trách y.
- Ta biết
y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại.
Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn,
nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ
Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm
cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và
hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và
trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể
tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả. Khi y hoan hỷ về chúng, tham
đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những
cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ
không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng
trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng
những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ
trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như
thường.
Về sau,
quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo
hỏi Trưởng lão:
- Có phải
Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?
- Cả hai.
Họ đi đến
Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:
- Không
sao, Citta sẽ trở lại.
Một hôm,
Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để
hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài
lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật
bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.
Đức Thế
Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới
chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một
người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ
hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi
giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này
Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…
Người xuất gia có hai ước vọng:
- Ước vọng gần gũi nhất là:
Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất
nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.
- Và ước vọng cao xa là:
Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
Như Thủy
(Theo Wheel Pub – 115)
Chim Cú
Mèo ^
Xưa có
con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy.
Một hôm,
Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:
- Bác đi
đâu thế?
- Tôi dời
nhà sang phương Tây.
- Sao
thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng,
mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
Cú Mèo
buồn rầu đáp:
- Dân cư
vùng này không ưa tôi.
Chim Gáy
dịu dàng bảo:
- Này bác
ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa
bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì
người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì
cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.
Cú Mèo
nghe nói, giận giữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy.
Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào
thâm sơn cùng cốc, lánh xa loàn người, loài vật, mắt trời, mặt trăng...
Vui lên thiên hạ đồng tình
Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.
Như Thủy
Phất Già Sa Vương với pháp
vô thường ^
Khi Thế
Tôn còn ở đời, có hai ông vua kết bạn thân, một ông tên là Phất Già Sa
Vương, một ông là Bình Sa Vương.
Phất Già
Sa Vương chưa biết đạo, làm một cây bông bằng thất bảo, đem biếu bạn Bình
Sa Vương. Bình Sa Vương đem bông ấy cúng Phật, cầu người cho bạn ông được
thấy Phật nghe Pháp và gặp chúng Tăng, mau biết tu hành. Ông cầu nguyện
xong bạch Phật rằng: “Con không biết lấy gì đặng tặng lại bạn con cho
xứng.”
Phật dạy:
“Ông nên viết một quyển kinh “Thập Nhị Nhơn Duyên” mà tặng. Bạn ông được
kinh ấy sẽ đọc tụng, hiểu biết tin đạo”. Bình Sa Vương vâng lời Phật dạy,
về viết một quyển kinh và thơ riêng gởi cho bạn. Trong thơ ông nói: “Anh
có lòng tốt cho tôi cây hoa báu, tôi xin biếu anh quyển Thập Nhị Nhân
Duyên, anh nên đọc tụng tìm hiểu nghĩa lý, anh sẽ được hưởng pháp vị và
quả báo tốt đẹp, rồi chúng ta dắt tay nhau đến chỗ đồng đạo”.
Phất Già
Sa Vương được thơ và sách, đêm ngày đọc tụng suy nghiệm đạo lý, hiểu thấu
đạo mầu, ông nhận thấy ngũ dục là gốc rễ khổ não, đã nhiều kiếp mê man vì
nó, nay tỉnh ngộ, ngó lại quyền quí danh lợi càng thêm ghê sợ.
Vua bèn
mời các quan đại thần giao phó việc nước, nhường ngôi cho Thái tử, rồi
xuất gia cạo đầu, mặc áo cà sa, bưng bình bát làm vị Sa Môn, một mình đi
đến La Diệt, tìm đến chỗ Phật cầu thọ giới pháp; mới đến ngoài thành vừa
trời tối, đến nhà người thợ gốm xin ngủ nhờ một đêm, mai sẽ đi hầu Phật.
Thế Tôn
ngự ở tịnh xá, Ngài biết Phất Già Sa Vương sáng ngày mai sẽ bỏ mạng. Phật
thương xót cho ông từ xa xôi đến cầu thọ giới nghe kinh mà không kịp, đã
bị quỷ vô thường bắt giữ. Phật liền hóa làm một vị Sa Môn cũng đến xin
nghỉ nhờ nhà người thợ gốm. Thợ gốm mời hai vị Sa Môn ở chung một phòng.
Vào phòng vị hóa Sa Môn trải tọa cụ ngồi, hỏi ông Phất Già Sa: Ông ở đâu
đến đây? Thầy ông là ai? Vì nhân duyên gì ông xuất gia? Ông đã thấy Phật
chưa?
Ông Phất
Già Sa thưa: Tôi chưa được thấy Phật, tôi nghe pháp Thập Nhị Nhân Duyên
nên tôi đi xuất gia. Ngày mai tôi sẽ vào thành hầu Phật cầu nghe giới
pháp.
Vị hóa Sa
Môn bảo: “Mạng người vô thường, nay còn mai mất, nó không hẹn trước với
người, không biết ngày nào giờ nào mà định; chỉ nên quán thân này do bốn
đại mà thành, chết đi sẽ trả về đất, nước, gió, lửa. Phải giác ngộ thân
này tuy có rồi sẽ hoàn không, giả dối hòa hợp sẽ bị tan rã.
Ông nên
chuyên cần niệm ngôi Tam Bảo, niệm đức bố thí trì giới, hiểu biết các pháp
đều vô thường. Nếu ông tưởng niệm luôn như thế thì được lợi lạc, cũng như
thấy Phật vậy. Nếu ông cứ nghĩ ngày mai sẽ đến hầu Phật thì không kịp
đâu.”
Vị hóa Sa
Môn nói pháp như vậy cho ông Phất Già Sa nghe, ông định ý suy nghĩ, liền
chứng quả A Na Hàm.
Phật hiện
toàn thân ba mươi hai tướng tốt, phóng hào quang, ông Phất Già Sa vui mừng
đảnh lễ. Phật lại dặn dò: Sự vô thường đến ông đừng hoảng sợ.
Ông thưa:
Con xin vâng lời Phật dạy.
Vị hóa Sa
Môn sáng mai biến mất.
Ông Phất
Già Sa một mình đi vào thành tìm đến hầu Phật. Ði giữa đường có con bò mới
sinh, nó sợ người ta bắt con, chạy lại húc ông Phất Già Sa vỡ bụng chết.
Ông được sanh về cõi trời.
Phật dạy
các đệ tử đem xác ông thiêu và xây tháp.
Ngài bảo:
Tội ác đã tạo ra đối đầu phải trả. Các ông phải cẩn thận!...
Thích Nữ Ðàm Minh
Quả phụ buồn khăn trắng tiễn chồng đi
Người lặng im như chẳng nói năng gì
Theo vết bánh xe tang vào nghĩa địa
Những cô nữ đang xuân tình tươi trẻ
khóc dở dang số phận nửa chừng xuân.
Oán
thù vay trả ^
Phất Già
Sa Vương đi vào thành La Duyệt, giữa đường bị con bò mới sanh, sợ người ta
bắt mất con, chạy lại húc ông vỡ bụng chết ngay. Người chủ bò thấy thế sợ
quá, vội bán bò cho người khác. Người kia mua bò dắt về định nuôi lấy sữa,
vừa dắt về đến nhà lại bị bò húc, người chủ chết luôn. Con người chủ bò
nổi giận, giết bò đem thịt bán. Người nhà quê mua đầu bò gánh về, đi được
nửa đường mệt, treo đầu bò lên cây rồi nghĩ mát. Bỗng nhiên đầu bò đứt dây
rơi trúng anh nhà quê, sừng bò trúng vào bụng anh chết ngay. Trong một
ngày ba người bị chết vì một đầu bò.
Bình Sa
Vương cho là điềm quái gở. Lo sợ, vội vàng cùng quần thần đi đến hầu Phật.
Ðến nơi, vua cung kính đảnh lễ rồi đứng hầu một bên:
- Bạch
Thế Tôn, một đầu bò làm chết ba người, việc đó không biết duyên do vì sao?
Xin Ngài chỉ dạy cho.
Phật bảo:
- Ðại
Vương này, các tội lỗi đã tạo ra, có nguyên nhân rồi phải trả báo, không
phải tình cờ mà có.
Vua thưa:
- Xin
Ngài dạy cho con biết để tránh điều tội ác.
Phật dạy:
- Trước
kia có ba người lái buôn, cùng nhau thuê chung cái nhà của một bà già. Ở
được mấy tháng ba người thấy bà già có một mình đau yếu, chờ khi bà đi
vắng, ba người rủ nhau lén đi, không trả tiền thuê nhà cho bà. Bà đi chơi
về, thấy nhà vắng không có ai, hỏi người hàng xóm mới biết ba người đã
trốn đi rồi. Bà vừa giận vừa tiếc tiền, hấp tấp chạy theo cho kịp ba
người, khi gặp, bà đòi tiền thuê nhà mấy tháng nay. Ba người xúm nhau mắng
thậm tệ, nói tiền nhà đã trả rồi còn đòi chi nữa, ai công nợ chi mụ... Bà
cô đơn yếu đuối cãi không lại giận hờn buồn tủi khóc lóc, kêu trời vang
đất, rồi bà nguyền rủa thề rằng: “Trời đất quỷ thần làm chứng cho tôi cùng
cực vô lộ bị ba người này khinh khi lường gạt, lại mắng nhiếc sĩ nhục. Tôi
nguyện đời sau sanh ra chỗ nào, gặp ba người này tôi sẽ trả oán, làm cho
mất mạng, ví dầu đặng đạo cũng phải trả nợ này đã.
Phật bảo
Bình Sa Vương: Bà già khi ấy là con bò ngày nay, ba người lái buôn thuê
nhà xưa là ba người bị bò húc chết ngày nay vậy.
Bình Sa
Vương và các vị đại thần nghe Phật dạy ai nấy đều sợ hãi, cung kính đảnh
lễ phát nguyện từ nay về sau không dám lường gạt dối trá, gây thù kết oán
nữa.
Một lời
thề nguyện, không có hình tướng mà không mất, cứ tìm nhau đòi oán trả thù
rất đáng ghê sợ, chúng ta cần phải giữ gìn lời nói và hành động vậy.
Thích Nữ Ðàm Minh
Không có một Quả nào mà không có Nhân, cũng như
không có một Nhân nào mà không có Quả.
---o0o---
Mục Lục tập 5 |
01|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08
---o0o---
Tập 01 |
Tập 02 | Tập
03 | Tập 04 |
Tập 5
---o0o---
Vi Tính: Tịnh Tâm, Tịnh Hương
Cập
nhật : 01-3-2004