Phật Giáo,
nền tảng của Khoa học
Hòa thượng
Prayudh Payutto
Tỳ kheo
Thích Tâm Quang
dịch
---o0o---
III.
KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO: CUỘC GẶP GỠ HAY PHÂN LY?
Giống
tôn giáo, nhưng ...
NÓI VỀ PHẬT GIÁO, điều
trước hết là phải nói về nguồn gốc. Tôi đã nói nguồn
gốc tôn giáo là do sợ hãi nguy hiểm, nhưng nguồn gốc của
Phật Giáo không phải là như vậy mà là do sộ hãi khổ
đau. Xin hãy lưu ý đến sự khác biệt này. Trong phần
nói về tôn giáo, tôi có đề cập đến nguy hiểm, nhưng riêng
Phật Giáo lại nói về khổ đau với một ý nghĩa rộng lớn.
Cụ thể là sự sợ hãi nguy hiểm không những nhằm vào
các yếu tố bên ngoài, như lụt lội, động đất, vân vân
.. mà khổ đau là tình trạng tinh thần bị căng thẳng, mâu
thuẫn.Khổ đau là gì? Khổ đau là trường hợp
tinh thần bị căng thẳng, mâu thuẫn, nói ngắn gọn là cái
khó khăn nan giải của nhân loại. Ðơn giản chúng ta có thể
nói khổ đau là khó khăn, vì sự khó khăn là nguyên nhân của
tình trạng căng thẳng và nản lòng.
Các tôn giáo khác cũng
đi tìm ngồn gốc của nguy hiểm. Theo như người ta biết, bất
cú lúc nào, có điều gì xẩy ra trong xã hội loài người
thì đều phải có người nào đó tạo nên hay điều khiển.
Trong xã hội loài người, con người là người kiểm soát,
nhưng thế giới thiên nhiên lại vượt qua sự kiểm soát của
con người. Con người vẫn nghĩ rằng có một người nào đó
điều khiển muôn việc, cho nên con người đi tìm người nào
đó này, và tìm thấy người điều khiển, một hay các vị
thần, sức mạnh siêu nhiên, nguồn gốc của mọi thiên tai.
Những lực lượng này sinh ra mây, bão, lụt, cháy vân
vân...Ðó là sự nổi lên của tôn giáo.
Người thuở xưa coi có
tình trạng đó là do sự thưởng phạt. Nay muốn tránh khỏi
nguy hiểm là phải tìm nguyên nhân gây ra nó. Nhìn vào xã hội
loài người, có những nhà lãnh đạo nắm quyền lực, nên
họ cũng áp dụng mô hình này cho các thế lực đứng sau các
hiện tượng thiên nhiên, do đó cho ra đời thuyết thần
linh. Cho nên một số nhà tâm lý hiện đại nói con người
tạo ra Thượng Ðế theo hình ảnh của mình, ngược lại với
các điều dạy của Cơ Ðốc giáo cho rằng Thượng Ðế tạo
ra con người theo hình ảnh của Thượng Ðế.
Nhân loại coi những thần
thánh đó là nguồn gốc của các nguy hiểm, do đó họ lý
luận họ cần phải làm vừa lòng các thần thánh ấy, cũng
giống như vừa lòng người lãnh đạo. Kết quả sinh ra nhiều
thứ pháp kỹ thuật và các cuộc hành lễ để tỏ bày
lòng tôn trọng và tôn kính, các lễ hiến tế cúng thần, cầu
nguyện vân vân.....
Yếu tố căn bản quyết
định những việc xẩy ra trên thế gian, theo như các tôn
giáo cổ, là do ý muốn của thần thánh.
Yếu tố ràng buộc
nhân loại vào các thần thánh hay sức mạnh siêu nhiên ấy
là niềm tin.
Niềm tin vào thần
thánh hay các vị thánh thần được biểu hiện qua các lễ
hiến tế, cầu nguyện, lễ bái, vân vân...
Cho nên, nơi đây ta có
một bức tranh toàn bộ về vị chủ tể các biến cố đó
- ý muốn của Thượng Ðế; chúng ta thấy sự liên hệ
chung của nhân loại - niềm tin, và chúng ta thấy phương pháp
tác động - lễ hiến tế, cầu nguyện, vân vân...Ðó là
hình ảnh phổ biến về vai trò của niềm tin trong hầu hết
các tôn giáo.
Bây giờ, hãy nhìn vào
các yếu tố liên quan đến Phật Giáo. Như tôi đã nói, Phật
Giáo căn cứ vào sự mong muốn thoát khỏi khổ đau. Phương
pháp thích hợp nào được thực hành để giải thoát khỏi
khổ đau? Muốn như vậy, bạn phải xem khổ đau phát xuất
từ đâu. Nguồn gốc của khổ đau ở nơi đâu? Trong khi
các tôn giáo khác dạy ngồn gốc của hiểm nguy là ở sức
mạnh siêu nhiên, Phật Giáo nói nguyên nhân khổ đau là một
tiến trình tự nhiên cần phải hiểu.
Khổ đau có một nguồn
gốc hành hoạt tùy theo tiến trình tự nhiên, gọi là nhân
và quả. Việc không hiểu tiến trình nhân quả tự nhiên
là nguyên nhân khổ đau. Phật Giáo đào sâu vào nguồn gốc
của khổ đau bằng cách nhìn vào vô minh, sự không hiểu biết
về nhân và quả, hay sự ngu si không hiểu Qui Luật Tự
Nhiên.
Tới điểm này, chúng
ta vào trọng tâm của Phật Giáo. Vừa rồi tôi đã nói, nguồn
gốc của các tôn giáo là do ý thức về sự nguy hiểm, nguồn
gốc của nguy hiểm là ý muốn của đấng tối cao hay các lực
lượng tối cao; nhưng nguồn gốc của Phật Giáo là do ý thức
được khổ đau, mà nguồn gốc khổ đau là vô minh (ngu si)
không hiểu tiến trình tự nhiên của khổ đau, tức ngu si
không hiểu Luật Tự Nhiên.
Bây giờ chúng tôi đặt
lại vấn đề. Ðặt lại vấn đề ra sao? Khi ngu si không hiểu
Qui Luật Tự Nhiên là nguyên nhân thì cách sửa chữa là
làm ngược lại, đó là kiến thức và hiểu biết điều mà
chúng ta gọi là trí tuệ.
Trước đây, tôn giáo
dựa vào niềm tin vì mối liên hệ giữa người và nguồn gốc
nguy hiểm. Phật Giáo thay đổi sự liên hệ của con người
này thành trí tuệ. Ở đoạn này, xin nhấn mạnh là chuyển
niềm tin thành trí tuệ, và đó là sự khác biệt chủ yếu
của Phật Giáo. Theo Phật Giáo, con người phải biết và hiểu
luật nhân quả, cùng giải quyết các vấn đề sao cho phù hợp.
Cuối cùng (x) việc tu
sửa các yếu tố gây khổ đau là trách nhiệm con người, và
trong phạm vi tiềm lực của con người. Do đó đặt tầm
quan trọng cho việc giải quyết vấn đề đã chuyển từ ý
muốn của sức mạnh siêu nhân thành nỗ lực của con người.
(x) sự ám chỉ tại
đây và trong bốn đoạn văn trước đây, là Tứ Diệu Ðế:
Khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổ và con đường dẫn
đến diệt khổ là trọng tâm của giáo lý Phật Giáo.
Ba điều sau đây rất có ý nghĩa:
1. Hầu hết các tôn
giáo đều lo lắng về nguồn gốc nguy hiểm, cho rằng tại
thần thánh, nhưng Phật Giáo lại quan tâm đến nguồn gốc
của khổ đau và cho rằng do vô minh.
2. Sự ràng buộc vào
nguồn gốc đó trong hầu hết các tôn giáo là thần thánh
tức quyền lực siêu nhiên, nhưng trong Phật Giáo là trí
tuệ.
3. Chủ yếu của hầu
hết các tôn giáo cho là do thần thánh hay sức mạnh siêu
nhân, nhưng trong Phật Giáo trách nhiệm đặt trong tay con
người, nhất là vào hành động của con người.
Nét nổi bật trong Phật
Giáo là chuyển niềm tin thành trí tuệ, và đó là một sự
thay đổi toàn diện mang tính cách mạng. Loại trí tuệ như
thế bắt đầu với sự ham thích muốn biết, tức muốn có
kiến thức trước khi đạt đến trí tuệ thông thái, và phải
có khát vọng. Nhưng khát vọng có kiến thức này khác với
khát vọng của khoa học, và tôi sẽ trình bày sau này.
Một chuyển đổi quan
trọng khác trong nét nổi bật của Phật Giáo là chuyển niềm
tin vào thần thánh thành nỗ lực của con người. Ðây là một
trong những nền tảng của Phật Giáo. Dù Phật Giáo lan
tràn tới đâu, dù giáo lý có bị bóp méo thế nào đi nữa,
nguyên tắc nhấn mạnh vào nỗ lực của con người không
bao giờ thay đổi. Chỉ cần nguyên tắc này thay đổi, chúng
ta có thể tin tưởng mà nói rằng nguyên tắc đó không phải
là Phật Giáo.
Nguyên tắc về nỗ lực
của con người được sáng tỏ trong phạm vi Phật Giáo là
Ðịnh Luật về Nghiệp. Người ta có thể hiểu sai Nghiệp,
có nhiều hiểu lầm về Nghiệp, ngay trong giới Phật Giáo,
nhưng dù điều đó có thể thay đổi thế nào đi nữa, Nghiệp
bao giờ cũng liên quan với nỗ lực con người.
Sự phối hợp gắn bó
của Phật Giáo với Qui Luật Tự Nhiên, tuyên bố trạng
thái độc lập của con người, đặt trí tuệ trước niềm
tin, là một sự kiện độc đáo vô song trong lịch sử tôn
giáo. Việc này đã làm cho một số các nhà phân tích Tây
Phương nghĩ rằng Phật Giáo không phải là một tôn giáo.
Sách vở về Phật Giáo của Tây Phương thường nói Phật
Giáo không phải là một tôn giáo, có nghĩa không phải là một
tôn giáo như một tôn giáo trong văn hóa Tây Phương.
Cho nên chúng tôi có ba
nguyên tắc quan trọng:
1. Qui Luật Tự
Nhiên;
2. Con người hoàn toàn độc lập;
3. Sự thay thế niềm tin bằng trí tuệ.
Tôn
giáo thiên nhiên: hiểu biết thiên nhiên bằng trí tuệ
Bây giờ để làm sáng
tỏ vấn đề, chúng tôi dùng chút ít thì giờ nói về vài
đặc tính căn bản của Phật Giáo. Trước nhất, chúng tôi
đề cập đến một số giáo lý do đích thân Ðức Phật chỉ
dạy, và bàn rộng hơn về giáo lý này, xem chúng liên quan
đến khoa học ra sao.
1. Sự gắn bó với qui
luật tự nhiên: Chân lý
là Qui Luật Tự Nhiên, tồn tại một cách tự nhiên. Ðức
Phật là người duy nhất tìm ra chân lý này. Chắc Quý Vị
đã nghe các thầy tu tụng kinh Dhammaniyãma trong tang lễ, nhưng
đa số nguời không hiểu nghĩa lý của kinh này, đó là
chân lý thiên nhiên hiện hữu, là đi?u kiện bình thường.
Ðức Phật xuất hiện hay không, chân lý vẫn ở đó.
Cái gì là Dhammaniyãma,
hay Qui Luật Tự Nhiên là gì? Các thầy tu tụng Uppãdã
vã bhikhave tathãgatãnam, anuppãdã vã tathãgatãnam:
"Các Ðức Phật xuất hiện hay không xuất hiện, chân
lý vẫn tự nhiên, không thay đổi, và mọi sự vật duyên hợp
đều vô thường, khổ đau và vô ngã"
Vô thường
có nghĩa là tất cả sự vật do duyên hợp sanh ra rồi chết
đi không ngừng, xuất hiện và mất đi.
Khổ đau
ý muốn nói chúng luôn luôn là điều kiện của những xung
lực và đối lực, không thể giữ nguyên được sự bất
biến.
Vô Ngã
có nghĩa chúng không phải là Ngã (Ta), một thực thể nội
tại, chúng chỉ là những yếu tố hỗ trợ, không thực chất.
Bất cứ chúng ở dạng thức nào chúng cũng đều phải theo
sự điều khiển của các yếu tố hỗ trợ (Không có Ngã Sở
Hữu). Ðó là nguyên tắc của sự phát sinh có điều kiện,
giá trị căn bản nhất của chân lý.
Ðức Phật đã giác ngộ
các chân lý ấy, Ngài đã tuyên bố và giải thích chúng. Do
đó bài tụng có nghĩa như thế nào. Nguyên tắc đầu tiên
rất quan trọng, và là nguyên tắc căn bản nhất trong Phật
Giáo. Phật Giáo coi những qui luật tự nhiên ấy như chân
lý căn bản.
2. Sự tương quan và phụ
thuộc lẫn nhau của mọi sự: Phật
Giáo dạy Lý Nhân Duyên (Qui Luật về Sự Phát Sinh phụ thuộc-Lý
Duyên Khởi). Tóm lại, cốt lõi của luật này là:
Imasmim sati idam hoti
Imasmimasati Idamna hoti
Imassuppãdã idam uppajjati
Imassa nidrdhãidam nirujjhati
Câu trên có nghĩa:
'Khi có cái này thì
có cái kia
Khi không có cái này thì cái kia cũng không có
Vì lẽ cái này sinh thì cái kia sinh;
Vì cái này diệt thì cái kia cũng diệt.'
Ðó là chân lý, một
qui luật tự nhiên, được phát triển đầy đủ trong việc
ứng dụng thực tế. Nói một cách đơn giản, đó là luật
tự nhiên về nhân quả ở mức độ căn bản nhất.
Ðiều đáng ghi nhớ
là Phật Giáo hay dùng từ ngữ nhân quả hơn là ' nguyên
nhân và hậu quả'. Nhân quả nói đến mối quan hệ luyến
tính và cụ thể. Phật Giáo tin những kết quả không chỉ
do nguyên nhân mà còn do nhiều yếu tố phụ thuộc khác. Khi
những điều kiện hội đủ, kết quả đến ngay.
Thí dụ, chúng ta trồng
một hạt xoài, mầm của cây soài nẩy nở. Cây xoài là quả,
nhưng nguyên nhân của cây xoài là gì? Bạn có thể nói hạt
giống là nguyên nhân, nhưng nếu chỉ có hạt giống không
thôi, cây soài không mọc lên được. Cần nhiều yếu tố
khác như đất, nước, dưỡng khí, thời tiết, phân bón
vân vân...Chỉ khi nào các yếu tố hội đủ, kết quả sẽ
nẩy sinh. Nguyên tắc này giải thích tại sao một số người
cảm thấy họ tạo nhiều nhân nhưng không thấy quả mong muốn.
Họ nên tự hỏi là họ đã tạo các điều kiện đầy
đủ chưa.
Xin nhớ là mối quan hệ
nhân quả không hẳn diễn tiến đúng theo tuyến chiều dài.
Chúng ta có khuynh hưóng nghĩ rằng sự việc sẽ tuần tự
vi tiến cái này rồi đến cái kia - điều này xuất hiện
trước, và kết quả phải theo liền sau đó. Nhưng sự việc
chưa hẳn là như vậy.
Thí dụ chúng ta có
cái bảng đen, tôi lấy phấn viết mấy chữ A, B và C lên bảng.
Những chữ này xuất hiện là kết quả. Bây giờ cái gì
là nguyên nhân của các chữ ấy xuất hiện trên bảng đen?
Thông thường chúng ta có thể trả lời nguyên nhân là người
viết. Nếu nhìn vào sự tương quan của các nét phấn trắng,
chúng ta có thể trả lời nguyên nhân là phấn. Bất cứ một
yếu tố nào ta lấy cũng có thể là nguyên nhân, nhưng chỉ
một nguyên nhân không đủ cho kết quả nẩy sinh. Muốn có
chữ A trên bảng, phải có sự tụ hội của nhiều yếu tố
- người viết, phấn, bảng mầu thích hợp - chỉ một cái
bảng chưa đủ, bảng phải có mầu sắc tương phản với
phấn - độ ẩm thích hợp, bề mặt không bị quá ẩm - Phải
hội đủ mọi yếu tố mới sinh ra kết quả
Giờ đây, sự xuất hiện
của chữ A có cần thiết để tất cả các yếu tố phải
lần lượt xuất hiện? Chúng ta thấy một số các yếu tố
phải có cùng một lúc, là những yếu tố phụ thuộc lẫn
nhau ở nhiều phương diện, không nhất thiết phải xuất hiện
lần lượt cái này rồi mới đến cái kia. Ðó là giáo lý
của Phật Giáo về nhân duyên.
3. Nguyên tắc về niềm
tin:Tôi vừa nói Phật Giáo
đã chuyển tầm quan trọng từ niềm tin thành trí tuệ trong
tôn giáo, nay chúng tôi lại nói về niềm tin là làm sao? Ðiều
này, nên hiểu niềm tin vẫn đóng một vai trò quan trọng
trong Ðạo Phật, nhưng tầm quan trọng có thay đổi.
Trên hết, chúng ta hãy
xem niềm tin liên quan ra sao trong Phật Giáo đến sự kiểm
chứng qua kinh nghiệm hiện tại. Giáo lý về khía cạnh này
được trích dẫn trong Kinh Kalama với đoạn sau đây:
Này các người
Kalama,
Ðừng tin vì bạn đã nghe thấy như thế.
Ðừng tin vì bạn đã biết như thế
Ðừng tin vì bạn đã thực hành như thế lâu rồi
Ðừng tin vì điều đó được đồn đại
Ðừng tin vì điều đó nói trong kinh
Ðừng tin vì chỉ dựa vào lý luận, biện luận
Ðừng tin vì suy luận, lập luận
Ðừng tin vì lý luận
Ðừng tin vì điều đó phù hợp với lý thuyết của bạn
Ðừng tin vì điều đó có vẻ đáng tin
Ðừng tin vì điều đó vị thầy của bạn tin
Giáo lý này khiến người
Tây Phương hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên nghe thấy
giáo lý này, giáo lý này là một trong những giáo lý rất
đại chúng, vì trong thời gian đó văn hóa Tây Phương mới
bước vào ngưỡng cửa khoa học. Ý kiến không nên dễ
dàng tin ngay vào một điều gì mà chỉ tin sau khi kiểm chứng
là rất phổ biến. Kinh Kalama được khá nhiều người Tây
Phương quen thuộc với Ðạo Phật biết đến, nhưng người
Thái lại ít biết đến.
Trong Kinh Kalama, Ðức
Phật dạy rằng ta phải biết và hiểu rõ bằng kinh nghiệm
những điều nào là những điều nên theo và những điều nào
là những điều không nên theo. Hiểu biết điều nào không
nên áp dụng và có hại, không đem lợi ích mà đem đau khổ,
ta phải từ bỏ. Hiểu biết điều nào đáng kể, hữu ích,
đem hạnh phúc, ta nên theo. Ðó là vấn đề về kiến thức
trong sáng, sự nhận thức trực diện, kinh nghiệm bản
thân. Ðó là sự chuyển đổi từ niềm tin thành trí tuệ.
Ngoài ra, Ðức Phật cũng
dạy một số nguyên tắc rất rõ ràng để khảo sát kinh
nghiệm bản thân. Ngài nói " Ðộc lập về niềm tin, độc
lập về sự tán thành, độc lập về học hỏi, độc lập
về tư duy, độc lập theo lý thuyết của mình, người đó
thấy rõ ràng khi tâm tham, khi tâm không tham; khi tâm sân, khi
tâm không sân; khi tâm bị ảo tưởng ám ảnh, khi tâm không
ảo tưởng ngay trong hiện tại".Ðây là kinh nghiệm bản
thân đứng đắn, tâm ý của chúng ta tự chúng ta có thể
nhận biết rõ ràng ngay trong hiện tại. Ðó là nguyên tắc
xác minh qua kinh nghiệm bản thân.
4. Tuyên bố độc lập
của nhân loại:
Phật Giáo nảy sinh ra
trong niềm tin vào Phạm Thiên hiện hữu. Niềm tin này cho rằng
Phạm Thiên là người sáng tạo ra thế giới. Phạm Thiên
(Thượng Ðế) là người tạo mọi sự việc, và nhân loại
phải làm lễ hiến tế, lễ cầu nguyện do người ta nghĩ
ra để làm vừa lòng Phạm Thiên (Thuợng Ðế). Họ rất hậu
hĩ trong các cuộc lễ để được thiện cảm của Phạm thiên
(Thượng Ðế) hầu được ban thưởng. Phạm Thiên Vệ Ðà
nói rằng Ðại Phạm Thiên phân chia nhân loại thành bốn đẳng
cấp. Nếu sanh ra trong đẳng cấp nào thì người đó phải
mang đẳng cấp đó suốt đời. Không có cách nào để có
thể biến đổi tình trạng này, vì đó là những chỉ thị
của Phạm Thiên (Thượng Ðế).
Khi Thái Tử Tất Ðạt
Ða, Bồ Tát tức Ðức Phật tương lai, đản sanh, điều
trước nhất người ta quy cho Ngài về lời tuyên bố về sự
độc lập của nhân loại. Quý bạn thấy trong tiểu sử của
Ðức Phật, khi Ngài thị hiện Ngài đi tượng trưng bẩy
bước trên hoa sen và tuyên bố: "Ta là người vĩ đại
nhất trong thiên hạ, Ta là người cao cả nhất trong thiên hạ,
Ta là người cao quý nhất trong thiên hạ", Thiên thượng,
thiên hạ, duy ngã độc tôn. (Ta nơi đây có nghĩa là con
người độc lập chứ không phải cái Ngã sở hữu)
Câu tuyên bố trên đây
rất dễ bị hiểu lầm. Người ta có thể hỏi: "Tại
sao Thái Tử Tất Ðạt Ða lại cao ngạo đến như thế?"
Câu này phải được hiểu là Ðức Phật tuyên bố sự độc
lập của con người. Trong suốt cuộc đời của Ngài Ngài
đã dẫn giải những nguyên tắc, tất cả đều nhằm vào
tiềm năng của con người để mở mang tâm thiện tối thượng.
Ngư?i phát triển toàn bích là người đẹp nhất trên thế
gian này. Ðức Phật là đài gương của chúng ta, và Ngài
là đại biểu của chúng ta trong sự kiện này. Việc đạt
Phật Quả của Ngài chứng minh tiềm năng của con người. Với
tiềm năng ấy con người không cần đến sự giúp đỡ từ
các thế lực bên ngoài. Thay vì cầu cạnh, ỷ lại, con người
tin vào chính mình để trở thành Phật, cho nên ngay cả các
thần thánh cũng phải tôn kính.
Có nhiều thí dụ trong giáo lý Phật Giáo. Thí
dụ như câu sau đây:
Manussabhũtam sambuddham
attadantam samãhitam
devã'pi namassan'ti
Câu trên có nghĩa:
"Là một chúng sinh như mọi người Ðức Phật đã tự
mình tu tập, trở nên toàn bích... Cả đến các thánh thần
cũng tôn kính Ngài."
Với nguyên tắc trên,
vị thế của con người thay đổi. Thái độ ỷ lại bên
ngoài, nương tựa nơi thượng đế, thánh thần, đã bị dứt
khóat chối bỏ, con người được dạy hãy quay về và nhìn
vào chính mình, nhìn vào khả năng của chính mình để phát
triển hầu đi đến thành tựu tốt đẹp nhất. Chẳng cần
phải đem số phận mình nương nhờ vào thánh thần hay thượng
đế. Nếu nhận thức được tiềm năng của mình, ngay cả
các thánh thần cũng phải công nhận sự ưu tú và cũng phải
tôn kính mình.
Nguyên tắc ấy đưa đến
sự tin tưởng hay niềm tin nơi tiềm năng con người có thể
phát triển đến mức tối đa. Ðức Phật là tấm gương mẫu
mực của một con người phát triển toàn bích.
5. Nguyên tắc nượng tựa
được căn cứ vào việc thực hành và hành động hợp lý
hơn là tùy thuộc vào thế lực bên ngoài.
Nguyên tắc đó được
làm sáng tỏ trong Kinh Pháp Cú. Bài kệ bắt đầu với câu
"Bahum ve saranam tanti.." " Nhân loại, bị đe dọa
bởi nguy cơ.." Ðiều này nói lên con người trước thời
Phật tồn tại như thế nào, chẳng khác gì sự nảy sanh
các tôn giáo như đã nói trước đây. Bài kệ tiếp...
Con người, thấy mình
bị đe dọa bởi nguy cơ, tìm nơi nương tựa ở thánh thần,
miếu mạo, và cây thiêng. Nhưng những thứ trên không phải
thục sự là nơi nương tựa. Nương tựa với những thứ
ấy, không đem lại an ninh.
Những ai tìm nơi
nương tựa ở Ðức Phật, Pháp và Tăng, hiểu biết Tứ Diệu
Ðế, hiểu các khó khăn và các nguyên nhân gây khó khăn, tự
tại trước khó khăn, và áp dụng phương sách dẫn đến giải
thoát khỏi khó khăn mới có thể vượt qua hiểm nguy.
Ðó là bước ngoặt,
không đặt tầm quan trọng vào việc cầu xin thần thánh mà
đặt nó vào các hành động có trách nhiệm. Ngay cả một
s? Phật Tử, không ý thức nguyên tắc này, nhầm lẫn sùng
kính Tam Bảo như điều gì thần thánh giống như các tôn
giáo khác.
Tam Bảo bắt đầu với
Ðức Phật, một tấm gương mẫu mực về con người toàn hảo.
Ðiều này nhắc nhở cho chúng ta về tiềm năng của con người,cũng
như khuyến khích chúng ta suy nghĩ sâu xa về trách nhiệm của
mình trong việc phát triển tiềm năng đó. Nương tựa nơi
Ðức Phật là để chúng ta đừng quên và phải nhớ tới
Ngài như tấm gương sáng soi đường. Ngay khi nghĩ đến Tam
Bảo và Ðức Phật, chúng ta phản ảnh về trách nhiệm
dùng trí tuệ để giải quyết những khó khăn của đời sống
và mở mang tâm ý cho chính mình.
Khi nghĩ về Pháp,
chúng ta nghĩ về việc phát triển tiềm năng phải được
thực thi bằng những phương tiện phù hợp với Qui Luật Tự
Nhiên, hành hoạt theo nhân duyên.
Khi nghĩ đến Tăng (Già),
chúng ta nghĩ đến những người đã sử dụng Giáo Pháp
thành thạo, phát triển và nhận thức thực sự tiềm năng
của mình. Các vị này sống cuộc đời gương mẫu, đạt
chân lý, nhắc nhở, giúp chúng ta tu tập đúng cách hầu bảo
đảm tư cách của mình.
Trên đây là Ba Nơi
Nương Tựa. Khi tin tưởng và có niềm tin vào ba nơi nương
tựa ấy, chúng ta phải cố gắng giải quyết mọi vấn đề
như những người khôn ngoan sáng suốt. Giáo lý ấy bắt
chúng ta dùng trí tuệ. Phương cách giải quyết khó khăn nhờ
trí tuệ là:
(1) Khổ:
Chúng ta bắt đầu với sự công nhận là có khổ
(2) Tập
(Nguyên Nhân của Khổ - tham ái vì vô minh): Chúng ta tìm
nguyên nhân của vấn đề đó.
(3) Diệt
: Chúng ta nhắm vào mục tiêu (Niết Bàn) diệt khổ
(4) Ðạo:
(Con đường chấm dứt Khổ - Niết Bàn ): Chúng ta tu tập
theo mục tiêu ấy (x).
Ðó là nguyên tắc giải
quyết khó khăn nhờ trí tuệ và nỗ lực của con người.
(x) Chúng là Tứ Diệu
Ðế, trọng tâm của Phật Giáo cô đọng tất cả lời dạy
của Ðức Phật. Nói một cách đơn giản chúng là:
1. Nguyên tắc chịu
khổ đau
2. Ðịnh luật về nguyên nhân của khổ đau
3. Ðịnh luật về chấm dứt khổ đau
4. Kế hoạch hay con đường dẫn đến chấm dứt khổ
đau.
6. Chỉ dạy chân lý
có lợi ích. Có nhiều loại
chân lý khác nhau, nhưng một số không hữu ích, không liên
quan tới việc giải quyết các khó khăn của đời sống. Ðức
Phật không dạy chân lý như thế và cũng không nghiên cứu
các chân lý vô bổ này. Ngài tập trung vào những chân lý
đem lợi ích thực tiễn. Nguyên tắc trên đây được minh họa
trong việc so sánh các lá cây trong lúc Ngài ở trong rừng Sĩsapã.
Vào lúc đó Ngài đang
quây quần với các thầy tu. Một ngày nọ, Ngài cầm một nắm
lá cây trong tay và hỏi các thầy: "Này các thầy, lá
trong tay Như Lai nhiều hay lá trên các cây kia nhiều?"
Câu hỏi quá dễ dàng, các thầy liền trả lời. Lá trong
tay Như Lai ít và lá trên cây nhiều".
Ðức Phật liền nới:
"Cũng giống vậy đó về những gì mà ta dạy cho các thầy.
Có rất nhiều chân lý mà ta biết, những chân lý này cũng
nhiều như lá cây trong rừng mà ta không dạy cho các thầy.
Ta chỉ dạy chân lý cho các thầy giống như số lá cầm
trong tay mà thôi. Tại sao ta không dạy cho các thầy những
chân lý nhiều như lá cây trong rừng? Vì chúng không đưa đến
trí tuệ tối thượng, đến sự hiểu biết thực tướng của
sự vật, hay chỉnh đốn được vấn đề cho đứng đắn và
thoát khỏi khổ đau. Chúng không dẫn đến việc đạt được
mục tiêu, Niết Bàn."
Ngài nói Ngài chỉ dạy
những điều mà chính Ngài đã kinh nghiệm và vì những điều
này rất hữu ích dẫn đến giải quyết mọi vấn đề, đến
đời sống đạo đức. Nói tóm lại những điều này dẫn
đến thoát khỏi khổ đau.
Một so sánh quan trọng
khác được Ngài nói đến vào dịp khi trả lời những câu
hỏi về triết lý cao siêu. Những câu hỏi mà khoa học
đang còn vật lộn như Vũ Trụ này hữu hạn hay không hữu
hạn? Vũ trụ có từ bao giờ? Kinh điển có ghi mười xấp
các câu hỏi triết lý đã có từ thời trước Ðức Phật.
Một thầy chú ý đến những câu hỏi đó liền đem hỏi Ðức
Phật. Ðức Phật đã không trả lời câu hỏi mà kể một
câu chuyện sau:
Một người bị một
mũi tên độc. Mũi tên vẫn cắm trong người hắn, và thân
quyến vội vã chạy kiếm lương y. Trong khi vị luơng y sửa
soạn rút mũi tên ra thì người bị thương nói: Hãy khoan,
trước khi rút mũi tên ra,ông hãy cho tôi biết ai là người
đã bắn tôi? Người đó sống ở đâu? thuộc đẳng cấp nào?
Mũi tên thuộc loại nào? Cung hay nỏ? Mũi tên làm bằng gì?
Cung làm bằng gì? Dây cung làm bằng gì? Loại lông chim gì
được gắn vào đuôi mũi tên? Nếu không được trả lời
về các câu hỏi trên tôi không để ông rút mũi tên
ra."
Rõ ràng người đó sẽ
chết trước khi được nghe trả lời những câu hỏi đó.
Người đó không những không tìm được câu trả lời mong
muốn mà đã chết một cách vô ích. Ðường lối thích hợp
ở đây là gì? Trước tiên là phải rút ngay mũi tên ra. Rồi
nếu muốn có câu trả lời thì sẽ tìm sau.
Cũng như vậy, điều
Ðức Phật muốn dạy là cái khổ đau của con người và phương
cách để thoát khỏi khổ đau. Những câu hỏi triết lý
không thích đáng thì không cần thiết. Dù cho Ðức Phật
có trả lời thì cũng không thể kiểm chứng được. Ngài dạy
những điều phải làm ngay, đừng phí phạm thời giờ vào
sự theo đuổi hão huyền và tranh luận vô ích. Cho nên Ðức
Phật không trả lời những câu hỏi như vậy, chỉ dạy những
điều mang lợi lạc thực tiễn.
Ðây là một số đặc
tính thông thuờng trong Ðạo Phật. Khi nghe thấy những điều
này, chớ nên vội vã kết luận về sự so sánh trong Phật
Giáo là tương tự hoặc ngược lại khác với khoa học. Có
thể có một số điểm hình như rất tương đồng, nhưng
trong tương đồng ấy, vẫn có khác biệt.
Thiện
và ác
Như tôi dã trình bày,
hầu hết các tôn giáo nhìn những biến chuyển trên thế giới
là do hành động của thánh thần hay lực lượng siêu
nhiên. Nếu nhân loại không muốn những bất hạnh này, mong
muốn được tưởng thưởng, thì hãy để thánh thần chứng
kiến một số dạng thức sùng bái và tôn kính.
Việc đó không chỉ
áp dụng cho các biến cố thiên nhiên bên ngoài. Ngay cả đến
đời sống cá nhân cũng chịu sự kiểm soát của thánh thần.
Thánh thần, Thượng Ðế là Ðấng Tạo Hóa của Vũ Trụ, tạo
tất cả hạnh phúc và khổ đau. Ðấng Tạo Hóa giám sát
các hành vi của con người để xác định xem điều đó có
làm Ngài hài lòng hay không, và con người luôn luôn phải cảnh
giác đề phòng để tránh những hành động có thể làm mất
lòng Thượng Ðế.
Theo tiêu chuẩn này,
cách cư xử của nhân loại được chia thành hai loại: những
hành động làm vừa lòng thánh thần (Thượng Ðế), được
thưởng gọi là "thiện"; và những hành động không
làm vừa lòng thánh thần, bị phạt gọi là "ác".
Ðôi khi những đặc tính này được coi như chỉ thị của
thánh thần. Bất cứ điều gì được chấp thuận bởi thánh
thần là "thiện", bất cứ điều gì bị thánh thần
cấm đoán là "ác". Các tu sĩ, đại diện cho tôn
giáo là người trung gian báo cho nhân loại biết những hành
động nào là thiện và ác theo tiêu chuẩn đặt ra bởi thánh
thần. Những tiêu chuẩn phân định thiện ác trở thành
tiêu chuẩn 'đạo đức' hay 'luân lý'.
Luân lý hay đạo đức
là phần rất quan trọng của một tôn giáo. Bạn có thể
nói đó là cốt lõi của tôn giáo. Luân lý của người Tây
Phương tự tiến triển như tôi đã trình bày trên.
Khoa học từ lúc tách
khỏi tôn giáo, chỉ chú trọng đến thế giới vật chất bên
ngoài và không mảy may lưu ý đến tính cách trừu tượng của
sự vật. Khoa học không quan tâm gì đến luân lý hay đạo
đức, coi như thuộc phạm vi lo lắng cho thánh thần, không
có cơ sở thực tế, và bỏ mặc chúng. Dân chúng ở các quốc
gia Tây Phuơng hay các quốc gia kỹ thuật phát triển, đều
bị lôi cuốn bởi những tiến bộ của khoa học. Hầu như,
những giáo lý về thần thánh và các lực lượng siêu
nhiên coi như vô căn cứ. Cho nên họ xa rời tôn giáo. Luân
lý và đạo đức giờ đây không còn có ý nghĩa. Khi Thuợng
Ðế không còn quan trọng, luân lý hay đạo đức, bộ luật
của Thượng Ðế cũng không còn quan trọng nữa. Ngày nay
nhiều người ngay cả trong giới khoa học coi đạo đức chỉ
là mệnh lệnh độc đoán của một nhóm người như các thầy
tu hay các đại diện tôn giáo, thiết lập để duy trì trật
tự xã hội, ngoài ra không có thực chất tý nào cả.
Những ngành khoa học
nghiên cứu sự phát triển văn minh nhân loại, nhất là về
xã hội học, và một số ngành về nhân chủng học, thấy
sự thành công của khoa học tự nhiên, cố gắng phát triển
bằng cách nghiên cứu tuơng tự, sử dụng nguyên tắc và phương
pháp như khoa học tự nhiên. Xã hội học có khuynh hướng
coi giá trị đạo đức hay luân lý không có nền móng khoa học.
Ngành này cố tránh những đề tài đạo đức để chứng tỏ
chính mình cũng là khoa học thuần túy không có hệ thống
giá trị. Ngay cả khi nghiên cứu về vấn đề đạo đức,
nó cũng coi vấn đề này là những con số có thể đo đếm
được về các hành vi xã hội.
Khoa học vật lý, khoa
học xã hội, và dân chúng trong thời đại tiên tiến,
thông thường coi đạo đức chỉ là những sáng tạo thuần
túy có tính cách quy ước. Nhận định này không đủ khả
năng để phân biệt đạo đức với những biểu hiện thông
thường, nó còn đi sai hướng dù cố gắng tránh những điều
tin tưởng sai lầm, nhưng cuối cùng vẫn bị lạc lối càng
xa vời chân lý.
Giờ đây xin quay lại
với chủ đề Phật Giáo. Về đạo đức, cả khoa học và
Phật Giáo đều khác biệt với đại bộ phận các tôn
giáo. Trong khi khoa học tự cắt đứt hẳn không dính líu
gì đến tôn giáo, không mảy may chú trọng đến đạo đức
hay giá trị của đạo đức thì Phật Giáo lại chú tâm
vào việc nghiên cứu và giảng dạy vai trò của đạo đức
trong tiến trình thiên nhiên.
Trong khi hầu hết các
tôn giáo nhìn vào các biến chuyển thiên nhiên, cả bên
trong lẫn bên ngoài con người, cho rằng tất cả đều do thánh
thần chỉ huy thì Phật Giáo nhìn những biến chuyển đó
là thuờng tình và cho là do tiến trình tự nhiên, bình thường
của nguyên nhân và các điều kiện. Ðối với con người và
các điều kiện trừu tượng, hay các giá trị, các qui luật
này cũng được áp dụng như đối với sự vận hành vật
chất của thiên nhiên. Chúng là một phần của dòng chuyển
động chứa nguyên nhân và các điều kiện, vận hành hoàn
toàn theo qui luật tự nhiên. Tình trạng khác biệt về chất
lượng được quyết định bởi sự thay đổi của các yếu
tố trong dòng chảy ấy.
Ðể dễ hiểu về những
tiến trình trên, Phật Giáo chia định luật thiên nhiên
thành năm loại:
1. Utuniyãma (luật
vật lý): Ðề cập đến những biến chuyển trong thế giới
tự nhiên, tức môi trường vật chất.
2. Bijaniyãma (luật
sinh học): nói về động vật và thực vật, đặc biệt về
tính di truyền.
3. Cittaniyãma
(luật tâm linh): nói về hoạt động của tâm và sự suy
nghĩ.
4. Kammaniyãma
(nghiệp luật hay luật luân lý): nói về nhân cách, đặc
biệt về ý định và các hành động do ý định mà có.
5. Dhammanayãma
(luật nhân quả chung): nói về mối quan hệ và sự phụ
thuộc lẫn nhau của mọi sự, biết trạng thái - điều kiện
của mọi sự.
Bằng sự phân chia
thành năm loại của định luật thiên nhiên, chúng ta thấy
khoa học tin hoàn toàn vào luật nhân quả (Dhammanayãna), nhưng
bị hạn chế trong lãnh vực luật vật lý (Utinitãma), và luật
sinh học (Bijaniyama). Nói một cách thực tiễn, Phật Giáo nhấn
mạnh nghiệp luật (luật hành động đạo đức - giới luật)
dù rằng có một nhánh của Phật Giáo, Vi Diệu Pháp (x), nhấn
mạnh việc nghiên cứu luật tâm linh (Cittaniyãma) liên quan
đến luật về nghiệp và nhân quả.
(x) Vi Diệu Pháp hay
Chân Lý Tối Thượng là Tạng Thứ Ba trong Tam Tạng Kinh
Ðiển Phật Giáo. Vi Diệu Pháp trích yếu Giáo Lý Phật
Giáo trong một thuật ngữ thuần khiết phân tích, vô tư.
Nghiệp
Luật - Luân lý khoa học
Không hiểu rõ sự thực
nếu không hiểu rõ luật thiên nhiên, sự tương quan phụ
thuộc lẫn nhau và tính đồng nhất của chúng. Sự hiểu biết
trên gồm có yếu tố con người, nhân tố tinh thần và các
giá trị trong đó của những nguời nghiên cứu các định
luật ấy. Các khoa học gia nghiên cứu luật tự nhiên, nhưng
lại không hiểu chính mình, những người nghiên cứu định
luật ấy, nên họ sẽ chẳng bao giờ có thể nhìn thấy sự
thật- ngay cả về khoa học vật lý.
Về căn bản, con người
sống trong thế giới tự nhiên trên bình diện vật chất,
nhưng bên trong thế giới vật chất này là thế giới tinh
thần. Trong phạm vi của tâm thì con người đang sống trong
thế giới người, và thế giới người này có ý nghĩa quan
trọng sống còn, ảnh hưởng của thế giới người trên cuộc
sống của chúng ta còn rõ ràng hơn ảnh hưởng của môi trường
tự nhiên.
Trong đời sống hàng
ngày, tư tưởng, nhân cách và hành động, sự giao tiếp và
truyền thống cùng những cơ sở xã hội của chúng ta hoàn
toàn là sản phẩm từ những hành động có chủ tâm của
con người, mà Phật Giáo gọi là Nghiệp. Ý định là khả
năng duy nhất khiến con người tiến tới ngày nay. Thế giới
con người chính là thế giới của ý định, đi theo chỉ dẫn
của ý định. Trong Phật Giáo có câu: Thế giới bị Nghiệp
tác động. Ðể hiểu thế giới con người, tức hoàn cảnh
con người, việc hiểu Qui Luật Tự Nhiên tức Nghiệp Luật
là rất cần thiết.
Ý định, nghiệp, nhân
cách, đạo đức, đặc tính trừu tượng, giá trị, bản
tính, tức tâm con người- tất cả hoàn toàn bẩm sinh.
Chúng hiện hữu theo các Qui Luật Tự Nhiên, không theo sự
dìu dắt của thánh thần. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà
chúng có. Chúng là những tiến trình tự nhiên nằm trong khả
năng con người nhằm hiểu biết và phát triển.
Xin ghi nhận là Phật
Giáo phân biệt Nghiệp Luật và Luật về tâm linh. Ðiều
này cho thấy tâm và ý không phải là một, và có thể
nghiên cứu như hai sự việc riêng rẽ. Tuy nhiên hai sự việc
có thật này lại hết sức gắn bó khắng khít với nhau. Ðơn
giản giống như một người lái chiếc thuyền máy. Tâm giống
như con thuyền và máy của nó, trong khi ý là người lái, người
lái tự quyết sẽ đi đâu và sẽ phải làm gì.
Gần như là một biến
chuyển thiên nhiên tương tự có thể nảy sinh từ các định
luật khác nhau trong những tình trạng khác nhau, trong khi một
số biến chuyển lại là sản phẩm của hai hoặc nhiều định
luật tự nhiên vận hành phối hợp. Một người bị chảy
nước mắt có thể do khói (luật vật lý) vì quá vui hay
quá buồn (luật tâm linh) cũng có thể do kết quả về các
hành động ở quá khứ (nghiệp luật). Nhức đầu có thể
do bệnh (luật sinh học), cũng có thể do không khí ngột ngạt,
phòng quá nóng (luật vật lý), hay cũng có thể do phiền muộn
và lo lắng (nghiệp luật).
Vấn
đề tự
do ý chí
Khi người Phương Tây
bắt đầu nghiên cứu về nghiệp hay ý, họ thường bối rối
trước vấn đề tự do ý chí. Có tự do ý chí không? Thực
ra không có tự do ý chí trong nghĩa 'tự do tuyệt đối', vì
ý định chỉ là một trong muôn ngàn nguyên nhân quan hệ lẫn
nhau trong tiến trình nhân quả. Tuy nhiên, ý chí có thể coi
như tự do một cách tương đối. Chúng ta có thể nói 'tương
đối tự do' vì thực ra nó chỉ là một trong các nhân tố
trong toàn bộ tiến trình tự nhiên. Trong đạo Phật điều
này gọi là purisakãra. (manliness - nhân tính). Mọi
người đều có khả năng khai triển tư duy và ý đồ của
mình, đúng ra là việc này trở thành nhân tố chủ mưu
trong tiến trình nguyên nhân và hậu quả, hay Nghiệp, do đó
mà chúng ta nói mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm.
Hiểu nhầm, hay thiếu
hiểu biết trong sự liên quan đến vấn đề tự do ý chí,
xuất phát từ một số quan niệm sai rất sâu xa, đặc biệt
là về cái "ta". Quan niệm này gây ra rất nhiều bối
rối khi ta nhìn vào thực tại như là điều kiện có thật,
nhưng bị mắc vào lối suy nghĩ theo thói quen bám víu ngay
vào quan niệm. Hai quan niệm bất đồng sâu sắc. Theo thói
quen người ta nhận thức có kẻ hành động và có kẻ nhận
kết quả. Trong khi kì thực chỉ có sự cảm thấy, nhưng do
nhận thức nên thấy có người cảm thấy. (Trong sách có
câu: Có sự chứng nghiệm của cảm thấy, nhưng không có người
cảm thấy). Lý do có sự bối rối này là sự không hiểu
biết đặc tính của vô ngã.
Phật Giáo không đơn
giản ngừng tại tự do ý chí, mà cố gắng đạt đến tình
trạng ý được tự do về ý chí, vượt lên sức mạnh của
ý chí, sự siêu việt này chỉ có thể đạt được nhờ sự
phát triển đầy đủ tiềm năng của con người qua trí tuệ.
Cũng nên lưu ý rằng
trong tiến trình phát triển con người, lãnh vực tâm ý và
trí tuệ khác nhau. Trí tuệ đuợc hoàn toàn mở mang thì giải
thoát khỏi tâm ý. Cho nên chúng ta có tâm với ý định, và
tâm với trí tuệ. Tuy nhiên, đó là mối bận tâm thực tiễn,
một đề tài rộng lớn chúng ta sẽ nói đến trong một dịp
khác sau này.
Ðơn giản tôi chỉ muốn
trình bày việc đạt được kiến thức hoàn hảo, tức sự
thật chân lý, phải xuất phát từ sự hiểu biết về con
người và vị trí của họ trong trật tự tự nhiên, kể cả
những điều kiện cùng giá trị trừu tượng mà họ có.
-ooOoo-
|
Mục lục |
Chương I |
Chương
II |
Chương III |
Chương
IV |
Chương V |
Chương
VI|
Chương
VII
---o0o---
Chân
thành cám ơn Đạo Hữu Bình Anson
đã gửi tặng phiên bản điện tử tập sách này .
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 1-4-2002
|