Phật Giáo,
nền tảng của Khoa học
Hòa thượng
Prayudh Payutto
Tỳ kheo
Thích Tâm Quang
dịch
---o0o---
I.
KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
MỘT
TIẾN BỘ ÐÁNG NGỜ
Ðầu tiên, chúng ta phải
công nhận vô số điều tốt lành tặng cho chúng ta bởi
khoa học. Không một ai không công nhận giá trị to lớn của
khoa học hiện có. Ðể có thể đến thuyết trình, chúng
tôi đi từ Bangkok đến Chiang Mai mà chỉ mất có một giờ.
Quay về thời đại của Hoàng Ðế Rama, muốn đi như vậy,
chúng tôi phải mất ba tháng mới đến được, và do đó
có lẽ chúng tôi không đến nếu ở vào thời đại ấy. Chúng
ta phải công nhận sự đóng góp của khoa học vào phương
tiện di chuyển như máy bay, xe lửa hay xe hơi.
Nhìn vào hệ thống
truyền thông hiện đại, chúng ta thấy nào vô tuyến truyền
thanh, điện thoại, điện thư, truyền hình, băng hình, vệ
tinh vân vân..., tất cả những thứ trên đều do sự tiến
bộ của khoa học và kỹ thuật.
Những lãnh vực phát
triển khác như y tế trên thế giới, rất nhiều các bệnh
truyền nhiễm đã được thực sự ngăn ngừa. Bệnh dịch tả
hầu như không xuất hiện, tại Á Châu, bệnh này không còn
thấy nữa. Bệnh dịch hạch không còn thấy xẩy ra. Bệnh
đậu mùa tại khắp nơi cũng được tiêu diệt. Ngày nay
chúng ta không còn sợ hãi các bệnh truyền nhiễm này. Thời
cổ, một người bị chết dễ dàng khi ruột thừa bị nhiễm
trùng, nhưng ngày nay mổ ruột dư chỉ là một cuộc giải
phẫu tầm thường. Phẫu thuật nào cũng thành dễ dàng hơn
Ngay cả đến giải phẫu óc cũng không thành vấn đề. Những
dụng cụ tinh vi được sử dụng để khám bệnh và chẩn bệnh
ngày càng sẵn có. Máy Quang Tuyến X được thay thế bằng các
máy quang tuyến điện tử, máy siêu âm và cả máy MRI. Chẳng
bao lâu nữa sẽ không cần đến bác sĩ để khám bệnh,
các máy móc sẽ thay thế họ. Những thí dụ điển hình
trên đây cho thấy giá trị cực kỳ to lớn của tiến bộ
kỹ thuật.
Rồi thì, chúng ta có
điện và hằng hà sa số các máy móc để tiết giảm sức
lao động. Ấn loát và phát hành hết sức là tiến bộ. Những
máy móc như đồng hồ, truớc đây có vẻ phức tạp nhưng
nay trở nên tầm thường. Những đồng hồ xưa, quá to, nặng
nề rất khó sử dụng. Bạn phải hàng ngày điều chỉnh và
lên dây cót. Ngày nay chúng ta có đồng hồ quartz (thạch
anh). Ðồng hồ ngày nay đơn giản, rẻ và chính xác hơn
xưa. Những dụng cụ để viết ngày nay rất nhiều và rẻ,
20 năm về trước chúng ta phải gìn giữ cây bút viết, nhưng
nay, bút viết rất rẻ, chúng ta chỉ việc quẳng đi khi dùng
hết mực. Mọi thứ đều đầy rẫy và tiện lợi. Ngày
nay, con người đi vào không gian, phát triển máy điện toán,
đó là mặt lợi của kỹ thuật.
Trong lãnh vực sinh học,
chúng ta được chứng kiến sự phát triển 'gien' di truyền,
nó có thể tạo ra các loài động thực vật mới hoặc các
biến thái đặc biệt. Không thể ghi hết tất cả những tiến
bộ kỹ thuật chúng ta có ngày nay.
Nhưng mặt khác, khi
nhìn vào các tiến bộ đó, chúng ta thấy khoa học, và đặc
biệt là kỹ thuật, cũng tạo ra nhiều khó khăn cho nhân loại.
Ngày nay, tại những nước phát triển, người ta e sợ là
loài người tức toàn thể thế giới có thể bị hủy diệt
trong bàn tay của tiến bộ kỹ thuật. Sự hủy diệt có thể
trong khoảnh khắc, chỉ cần bấm nút, ấy là nói vậy, hoặc
một loại hủy diệt kéo dài do sự phá hoại môi trường
gia tăng, một vấn đề hết sức nguy ngập đúng vào lúc
này.
Ngay trong phạm vi thực
tại đời sống hàng ngày, chúng ta cũng bị đe dọa bởi
nguy cơ đó. Không thể chắc chắn được thức ăn của chúng
ta có bị nhiễm các hóa chất hay không chẳng hạn cây cối,
súc vật, thực phẩm cung ứng cho chúng ta, được chăm sóc
bằng các chất tăng trưởng cho mau lớn. Heo được nuôi bằng
các chất kích thích đặc biệt để thịt chúng trở thành
đỏ tươi. Các chất độc đôi khi được dùng để giữ
cho thực phẩm lâu hư, tăng mùi vị, hay giữ được mầu sắc,
đó là chưa kể đến sự lạm dụng các loại thuốc trừ
sâu (x). Chính một số những người bán những thực phẩm
ấy cũng không dám ăn!
(x) Tất cả những việc
làm này đã xẩy ra tại Thái Lan trong những năm vừa qua.
Sự
rời bỏ khoa học và thiên nhiên
Trên phương diện đó,
khoa học hình như đã xâm nhập vào thế giới thiên nhiên.
Chúng ta nhận thức khoa học và thiên nhiên là hai thực thể
riêng biệt, mặc dù khoa học nghiên cứu thiên nhiên và bao
giờ cũng tồn tại kề cận với thiên nhiên. Về cơ bản
khoa học với thiên nhiên là một, nhưng ngày nay đa số cảm
thấy cái mà ta gọi là khoa học không phải là thiên nhiên.
Sản phẩm của kỹ thuật tạo ra thường được gọi là
'nhân tạo': chúng ta có 'phổi nhân tạo', 'thận nhân tạo'
vân vân...Khoa học dường như là kẻ xâm phạm thiên nhiên.
'Sự thao túng thiên
nhiên' trên ngụ ý thế giới của thiên nhiên sau này có thể
trở thành thế giới của khoa học. Khi khoa học đã hoàn
toàn xâm chiếm thế giới thiên nhiên, chúng ta chỉ còn lại
một thế giới khoa học hay 'nhân tạo'. Con người là một
sinh vật tự nhiên, sống trong thế giới thiên nhiên., nhưng
trong tuơng lai chúng ta sẽ thấy chúng ta sống trong một thế
giới nhân tạo. Nếu chúng ta muốn con người sống hòa hợp
với thế giới nhân tạo, có thể cần thiết là phải làm
cho xác thân của chúng ta thích ứng, trở thành một con người
nhân tạo để sống trong thế giới nhân tạo. Hiện nay,
tình hình chưa phải là như vậy, chúng ta không hòa hợp
được với môi sinh của chúng ta. Khi không còn tiếp xúc với
thiên nhiên, chúng ta nhất định sẽ gặp khó khăn.
Quan niệm như vậy, sự
tiến bộ của khoa học hình như không mấy hòa hợp. Khoa học,
trên đà cố gắng 'cải thiện' môi trường của loài người,
dường như biến nó thành thế giới khoa học. Nhiều phát
minh mới, khích lệ đã được thấy nhưng khoa học không
điều chỉnh được đời sống con người cho thích ứng. Tiến
bộ của khoa học đã biến đổi môi trường vật chất
chung quanh thành thế giới khoa học, hay thế giới nhân tạo.
Với con người có cả
xác thân và tâm trí, phần thích ứng với thế giới bên
ngoài là xác thân. Nhưng cái mà chúng ta khám phá ra, không
phải là xác thân mà là tâm trí đã thích ứng. Khoa học biến
tâm trí con người thành tâm trí nhân tạo: yêu thích khoa học,
mong muốn các vật nhân tạo, tâm trí xa lìa thiên nhiên. Nơi
đây có sự mâu thuẫn cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên
trong, tâm trí và xác thân xung đột lẫn nhau, trong khi bên
ngoài cái thân sinh vật, vật chất xung đột với thế giới
khoa học. Trong khi còn là một cơ thể tự nhiên thuần túy,
cần phải có không khí trong lành, nước sạch và đồ ăn hợp
vệ sinh, thân thể gặp khó khăn với những vấn đề trên.
Vấn đề không khí, nước và an toàn vệ sinh thực phẩm
đang trở nên tồi tệ, bị biến đổi bởi khoa học.
Vào thời điểm này,
có lẽ nhân loại cần quyết định một con đường để
con người thiên nhiên sống trong một thế giới thiên
nhiên, hay cố gắng tạo ra 'con người khoa học' để sống
trong một thế giới khoa học.
Hai
loại kỹ thuật
Việc áp dụng khoa học
đã ảnh hưởng, và thay đổi thế giới thiên nhiên, thay đổi
thành cái gọi là thế giới nhân tạo, ta gọi là 'kỹ thuật'.
Tuy nhiên, để tồn tại, kỹ thuật phải dựa vào kiến thức
do khoa học giành được. Kỹ thuật là công cụ, là nguồn
khai thác mà nhân loại dùng để lôi kéo thiên nhiên vào sự
mưu cầu tiện nghi, nhưng đồng thời nhân loại cũng bị
đe dọa bởi các nguy cơ liên quan đến kỹ thuật ấy. Kỹ
thuật vừa là một dụng cụ để tìm kiếm hạnh phúc, vừa
là chất xúc tác gây nguy hiểm.
Bây giờ để trả lời
tất cả các điều trên, các khoa học gia có thể phản ứng
lại nói rằng thế giới 'Khoa Học' có nghĩa là Khoa Học
Thuần Túy. Khoa Học Thuần Túy khám phá, nói lên sự thật,
và chỉ nghiên cứu kiến thức. Bất cứ ai cũng có thể sử
dụng kiến thức ấy vào công việc của mình, không liên
quan gì đến khoa học. Khoa Học Thuần Túy có chiều hướng
rũ bỏ trách nhiệm này.
Khoa học có khuynh hướng
kết tội kỹ thuật sử dụng kiến thức đạt được do
khoa học, vì mục đích riêng của mình, nhưng thực ra nó
không sử dụng kiến thức khoa học chỉ riêng cho mục đích
của mình. Kỹ thuật ban đầu nhằm đem lợi ích cho nhân loại,
nhưng ngày nay chúng ta có hai loại kỹ thuật. Một loại kỹ
thuật vị nhân sinh (để phục vụ nhân quần xã hội), một
loại kỹ thuật vụ lợi(vì quyền lợi riêng tư). Cái mà
chúng ta cần là kỹ thuật vị nhân sinh, nhưng những khó khăn
mà chúng ta gặp phải ngày nay là do kỹ thuật hiện đại
thuộc loại kỹ thuật vụ lợi.
Nếu chúng ta biết hạn
chế trong việc tạo ra những cái có lợi trong công nghệ
thì hậu quả kéo theo là nhỏ và xa xôi. Nhưng bất cứ lúc
nào kỹ thuật được sử dụng để tìm kiếm mối lợi
thì khó khăn xuất hiện như chúng ta mục kích ngày nay. Cho
nên phải phân biệt rõ ràng kỹ thuật tạo lợi ích để
phục vụ tha nhân với kỹ thuật dùng để tìm lợi ích vì
quyền lợi riêng tư..
Vị
thế của đạo đức
Ðây là vấn đề sử
dụng, sẽ là cách sử dụng sai lầm kiến thức khoa học, kỹ
thuật để tìm mối lợi, thậm chí phá hoại trái đất. Những
vấn đề do kỹ thuật gây ra hoàn toàn là do cách sử dụng
của con người. Vì khó khăn gây nên do nơi con người, nên
vấn đề đạo đức, hay luân lý được nêu lên.
Những khó khăn này có
thể giải quyết trực tiếp dễ dàng, dứt khoát chỉ khi người
ta có luân lý. Chỉ như vậy, khoa học và kỹ thuật mới
được dùng vào mục đích xây dựng. Tuy vậy, vẫn có thể
có những hậu quả tai hại, gây nên do sự thiếu thận trọng
hay thiếu hiểu biết, thì dù sao đó cũng là cách ngăn ngừa
và sửa đổi có hiệu quả nhất.
Nhân loại trông chờ
khoa học và kỹ thuật mang lợi ích cho xã hội loài người,
nhưng khoa học và kỹ thuật không bảo đảm đem lại điều
mà nhân loại mong muốn. Những điều này hoàn toàn trong tay
người sử dụng, gây tai hại hay tạo lợi ích, tùy thuộc
cách thức sử dụng.
Nếu chúng ta không lưu
tâm đến đạo đức hay luân lý, thay vì tạo lợi ích, khoa
học và kỹ thuật hầu hết chỉ gây khó khăn, căng thẳng
do thả lỏng sản xuất và tiêu thụ hàng hóa chỉ nhằm
vào thỏa mãn giác quan, nuôi dưỡng dục vọng và tham lam
(tham dục); dẫn đến leo thang dùng sức mạnh để phá hoại
(sân hận), làm gia tăng các phương tiện và cường độ của
các ảnh hưởng đó khiến người dân thiếu sáng suốt, thiếu
suy nghĩ (si mê). Như vậy, kỹ thuật làm nhơ nhuốc phẩm chất
đời sống, ô uế môi sinh. Chỉ đạo đức đích thực mới
có thể giảm bớt các ảnh hưởng phá hoại này.
Không có đạo đức,
tiến bộ kỹ thuật, dù là loại lợi ích, vẫn có khuynh hướng
gia tăng đưa đến phá hoại. Khoa học và kỹ thuật càng tiến
bộ bao nhiêu, thì nhân loại lại càng bị đe dọa mạnh bấy
nhiêu. Khoa học và kỹ thuật càng phát triển, thì đạo đức
càng cần thiết, sự ổn định và hạnh phúc của nhân loại
càng tùy thuộc vào điều đó.
Bất luận ra sao, đề
tài về đạo đức, tuy là tầm thường, chân thật nhưng hầu
như không được thời đại tiền tiến này lưu ý tới. Ða
số dân chúng muốn sống yên ổn không có vấn đề gì, nhưng
lại không muốn giải quyết các vấn đề đó. Chừng nào
mà họ không muốn giải quyết, hay lưu tâm đến đạo đức,
họ phải chuẩn bị chịu đựng nhiều khó khăn trở ngại.
Khoa
học và kỹ thuật không thể rời nhau
Khoa học và kỹ thuật
lúc nào cũng hỗ trợ lẫn nhau. Không phải chỉ có khoa học
nuôi dưỡng kỹ thuật lớn mạnh - kỹ thuật cũng là một
yếu tố quyết định trong việc phát triển khoa học. Cái
gì đã khiến khoa học tiến bộ đến mức độ bây giờ?
Phương pháp khoa học. Phần chủ yếu của phương pháp khoa
học là quan sát và thử nghiệm. Hình thức quan sát và thử
nghiệm sớm nhất được thực hiện thông qua năm giác quan
- mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, đặc biệt là mắt để nhìn,
tai để nghe và tay để sờ mó.
Tuy nhiên giác quan con
người rất hữu hạn. Với mắt thường, chúng ta chỉ có
thể nhìn thấy một số các vì sao và một phần giới hạn
của vũ trụ. Do kỹ thuật phát triển, viễn vọng kính được
sáng chế. Việc sáng chế viễn vọng kính giúp cho khoa học
đạt được một Bước Nhẩy Vọt. Những vật li ti không
thể nhìn bằng mắt thường, nay có thể thấy do sự sáng
chế kính hiển vi. Khoa học đạt được những bước tiến.
Như ta đã thấy, Khoa Học Thuần Túy tùy thuộc rất nhiều
vào kỹ thuật để tiến bộ.
R‚ ràng khoa học và kỹ
thuật ảnh hưởng lẫn nhau. Dụng cụ để nghiên cứu khoa
học là sản phẩm của kỹ thuật. Do đó, khoa học và kỹ
thuật chẳng bao giờ rời nhau, luôn đồng hành trên con đường
phát triển. Ngày nay, khoa khoa học gia nhắm vào máy điện
toán, dụng cụ cho tương lai, để tìm kiếm sự thật. Máy
điện toán có thể thu thập và kiểm tra rất nhiều thông
tin, nhiều hơn đầu óc của một người bình thường. Trong
tương lai, máy điện toán không thể thiếu được để thử
nghiệm các giả thiết và công thức của các định lý.
Nói chung, lợi ích cho
quảng đại quần chúng tạo bởi khoa học được thực hiện
qua kỹ thuật. Tuy nhiên, nhân loại phải biết chọn lọc kỹ
thuật vị nhân sinh để phục vụ nhân quần xã hội hay kỹ
thuật vụ lợi vì quyền lợi riêng tư..
Tiến
đến mức giới hạn, không tìm được câu trả lời
Ngày nay, tiến bộ của
khoa học rộng lớn đến mức dường như tiếp cận giới hạn
của vũ trụ vật chất. Khoa học đã giới hạn sự nghiên
cứu về thế giới vật chất, nhưng khi tiến đến mức giới
hạn đó, khoa học quay về với thế giới tâm linh. Ðúng
là có một số khoa học gia đã chú ý đến những huyền bí
của tâm trí. Tâm trí ra sao? Ý thức là gì? Nó có phát sinh
ra từ nguồn vật chất không? Có phải máy vi tính biết suy
nghĩ chăng? Phát triển Trí Năng Nhân Tạo sẽ dẫn đến các
máy vi tính xâm nhập tâm trí? Ðây là câu hỏi mà một số
khoa học gia đang ức đoán. Ðiều này cho thấy khoa học bắt
đ?u xâm phạm vào biên giới của tâm trí.
Nhìn vào những phương
pháp quan sát và xác minh hiện đại, chúng ta thấy những phương
pháp ấy vượt quá giới hạn của năm giác quan. Trước đây,
năm giác quan tự chúng có đủ dụng cụ để quan sát - mắt
trần, tai và tay. Sau này chúng ta dựa vào khả năng có hạn
của chúng. Bất cứ lúc nào giác quan không đủ khả năng
tiếp nhận, thì chúng ta tìm đến những dụng cụ kỹ thuật.
Nhưng nay dù đã có những
dụng cụ, dường như chúng ta đã tới mức giới hạn. Ở
giai đoạn này các vụ nghiên cứu khoa học dùng ký hiệu
toán học. Ngôn ngữ toán đưọc dùng để truyền đạt ý
nghĩa của khái niệm khoa học, vũ trụ được rút gọn
thành một thế giới các ký hiệu.
Khi quan sát, thí nghiệm
và phân tách nhập đi vào thế giới tâm linh, khoa học giữ
nguyên thái độ căn bản và phương pháp thử nghiệm, vì vậy
trở thành đi phỏng đoán về niềm tin. Có rất nhiều niềm
tin, định kiến, trong loại quan sát này. Khi khoa học tiến
đến biên giới của tâm, còn phải xem liệu khoa học thực
ra có thể đi sâu vào tâm hay không, và bằng cách nào.
Gía
trị và
động
cơ
Chúng ta hãy quay trở lại,
nhìn vào lúc mới khai sanh khoa học và khoa học đã phát triển
ra sao cho đến tình trạng hiện nay.
Dù Khoa Học Thuần Túy
muốn tách rời Khoa Học Ứng Dụng và Kỹ Thuật, nhưng vẫn
phải chia sẻ trách nhiệm về những kết quả tai hại. Thật
ra, trong khoảng trăm năm vừa qua, Khoa Học Thuần Túy không
hẳn thuần túy. Ðó là vì có những tiêu chuẩn đạo đức
(hay phương châm xử thế) ẩn chứa trong Khoa Học Thuần
Túy, mà nhóm người làm công tác khoa học không ý thức
được, và vì không ý thức về tiêu chuẩn đạo đức,
Khoa Học vô tình trở thành đối tượng bị ảnh hưởng.
Nguồn gốc của khoa học
là gì? Tất cả khoa học, dù là khoa tự nhiên học hay xã hội
học đều dựa vào những tiêu chuẩn đạo đức. Chúng ta
hãy lấy kinh tế làm thí dụ. Khởi nguyên của kinh tế là
gì? Nguồn gốc của nó là gì? Nhu cầu là nguồn gốc của
kinh tế. Nhu cầu là gì? Nhu cầu có thể quan sát thấy bằng
một trong năm giác quan không? Không, không thể được. Ðó
là một đặc tính của tâm trí, một giá trị. Một môn học
được biết đ?n như khoa học, cho rằng nó không dính líu
gì đến giá trị, nhưng thực ra nó chẳng bao giờ không
dính dáng đến giá trị.
Bây giờ, nguồn gốc của
khoa học tự nhiên ở đâu? Nguồn gốc, hay động cơ của
khoa học là lòng ham thích biết sự thật của thiên nhiên,
hay sự thực. Câu trả lời trên đây được chấp nhận bởi
đa số khoa học gia, và thực tế câu trả lời này cũng chính
là của một khoa học gia. Lòng ham thích biết sự thực của
thiên nhiên cùng với niềm tin thiên nhiên có những qui luật
không thay đổi, hoạt động theo nguyên nhân và kết quả,
là hai tiền đề căn bản mà khoa học căn cứ vào để truy
nguyên bí mật của thiên nhiên.
Nền tảng của khoa học
ở ngay trong tâm trí con người, ở sự ham thích muốn biết,
và ở niềm tin. Không có hai đức tính ấy, khoa học không
thể nẩy nở và phát triển.
Ðộng cơ thúc đẩy việc
phát triển lúc ban đầu của khoa học, vẫn còn tồn tại
ở một mức đô nào đó, là sự ham thích biết sự thật của
thiên nhiên. Ðó là loại ham thích tương đối trong sạch.
Sau này, sự ham thích muốn biết đó, bị Giáo Hội Cơ Ðốc
đàn áp ở đầu thời kỳ Trung Cổ. Giáo Hội Cơ Ðốc thiết
lập tòa án để thẩm xét niềm tin của dân chúng gọi là
Tòa Án Dị Giáo. Những ai bày tỏ lời nghi ngờ ở Kinh
Thánh đều bị xử trước tòa án này, và nếu phát hiện
có tội sẽ bị trừng phạt. Galileo là một trong những người
bị xử trước tòa án này. Galileo tuyên bố trái đất quay
quanh mặt trời, suýt bị tử hình vì đầu độc mọi người
bằng học thuyết của mình. Ðến giây phút cuối cùng, ông
nhận tội và được tha; ông không bị chết nhưng có rất
nhiều người bị thiêu sống trên cọc.
Vào thời gian đó, việc
tìm kiếm sự thật bị công khai cấm chỉ. Nhưng càng ngăn
cấm mạnh mẽ bao nhiêu thì phản ứng lại mạnh mẽ bấy
nhiêu. Cho nên, chuyện đã xẩy ra là đàn áp và cấm đoán
trong Thời Ðại Tối Tăm (Trung Cổ) đã tác động làm tăng
thêm lòng ham muốn biết sự thật - Chân Lý Thiên Nhiên, và
sự ham thích đó thấm nhuần vào tư tưởng văn hóa Tây Phương
cho đến ngày nay.
Sự tiến triển vào thời
đó tương đối là do lòng ham thích muốn tìm biết thiên
nhiên. Dù vậy sự ham muốn ấy vẫn còn được coi là ham
muốn hiểu biết tương đối trong sạch.Tuy nhiên, khoa học
chúng ta có ngày nay không còn được như thế nữa. Ngày nay
dù đã phát triển Khoa Học vẫn chịu ảnh hưởng của hai
hệ thống giá trị lớn, tức thành kiến đã thấm vào sự
tiến triển của khoa học và điều khi?n phương hướng nghiên
cứu, học hỏi.
Hai giá trị trên đây
là gì? Chúng là:
1) Cuộc vận động
chinh phục thiên nhiên, hay quan niệm rằng thịnh vượng của
nhân loại xoay quanh việc chinh phục thiên nhiên.
Lối suy nghĩ này bắt
nguồn từ niềm tin Cơ Ðốc là Thượng Ðế tạo ra loài người
theo ý của mình, để kiểm soát toàn thể thế giới và có
quyền thống trị thiên nhiên. Thượng Ðế tạo thiên
nhiên, và vạn vật cho con người sử dụng. Nhân loại là
người lãnh đạo, trung tâm của vũ trụ, vị chủ tể. Nhân
loại khám phá những bí mật của thiên nhiên cốt để thao
túng nó theo sở thích của mình. Thiên nhiên hiện hữu để
cho con người sử dụng.
Một tài liệu Tây Phương
viết ý kiến trên sẽ chịu trách nhiệm về sự tiến bộ
của Khoa Học Tây Phương. Tài liệu nói vào thời cổ ở
Ðông Phương, đặc biệt Ấn Ðộ và Trung Hoa, khoa học tiến
bộ hơn Tây Phương, nhưng rốt cuộc Tây Phương đã vượt
qua Ðông Phương vì ảnh hưởng của lý tưởng chinh phục
thiên nhiên, và do đó dẫn đầu về khoa học hiện nay.
Cho nên, hệ thống giá
trị đầu tiên là niềm tin cho rằng Con Người có quyền
chinh phục thiên nhiên là lý do khuyến khích và biện minh
cho những hành động trên. Bây giờ chúng ta đi đến ảnh
hưởng lớn thứ hai.
2) Tin rằng hạnh phúc
lệ thuộc vào lượng của cải vật chất.
Lối suy nghĩ trên đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc mở mang công nghiệp tại
Tây Phương. Khởi thủy, theo lịch sử Tây Phương, nền công
nghiệp được tạo nên để đáp ứng vấn đề khan hiếm.
Ðời sống các quốc gia Tây Phương bị bao vây bởi sức mạnh
thiên nhiên đối nghịch, mùa đông băng giá, không thể cầy
cấy được. Dân chúng tại các nơi ấy có cuộc sống hết
sức khó khăn. Họ không những phải chịu đựng thời tiết
băng gía lạnh lẽo, mà còn chịu khổ vì nạn thiếu thực
phẩm. Phải tranh đấu để sống còn, và do sự tranh đấu
này, kỹ nghệ phát triển.
Bây giờ, cái gì trái
với khan hiếm? Trái với khan hiếm là thừa thãi, sung túc.
Người dân Tây Phương nghĩ rằng khi vấn đề khan hiếm
đưọc giải quyết, họ sẽ hạnh phúc. Ðó là động cơ thúc
đẩy có cuộc Cách Mạng Công Nghiệp - sự nhận thức về
khan hiếm, sự ham muốn cung cấp đầy đủ, trở thành căn
bản bởi quan niệm vật chất phong phú là điều kiện tiên
quyết để có hạnh phúc.
Cách suy nghĩ trên triển
khai thành chủ nghĩa vật chất, rồi thành chủ nghĩa tiêu
thụ mà hiển nhiên trực tiếp là sự góp phần to lớn của
các nhà tư bản công nghiệp chịu ảnh hưởng suy nghĩ trên.
Ý tưởng ban đầu ấy bây giờ trở thành niềm tin là con
người thống trị thiên nhiên. Ði đôi với quan niệm hạnh
phúc tùy thuộc vào sự dồi dào của cải vật chất, chúng
ta tin tưởng là thiên nhiên phải được chinh phục để sản
xuất hàng hóa vật chất phục vụ sở thích con người. Hai
lối suy nghĩ trên đây quan hệ mật thiết với nhau, và hỗ
trợ lẫn nhau.
Dường như lòng mong muốn
đơn thuần về kiến thức đã bị tha hóa dưới ảnh hưởng
của sự ham thích chinh phục thiên nhiên mà là sản xuất
hàng hóa vật chất cho phong phú, nghĩa là duy vật chủ nghĩa.
Khi hai giá trị này đi vào một khung cảnh, lòng mong muốn
thuần túy và trong sạch về kiến thức đã trở thành dụng
cụ để thỏa mãn mục tiêu của giá trị thứ hai, đem đến
tương quan lợi dụng thiên nhiên.
Cứ cho rằng chinh phục
thiên nhiên nhân loại có thể tạo hằng hà sa số hàng hóa
vật chất để phục vụ sở thích con người, đưa đến hạnh
phúc lý tưởng việc nghiên cứu các phương pháp để thực
hiện ý tưởng trên là điều tất yếu. Cho nên có rất nhiều
tiến bộ được thực hiện trong thời gian vừa qua, nhất là
sau cuộc Cách Mạng Công Nghiệp. Cũng có người nói khoa học
phát triển mới đây trong Thời Ðại Công Nghiệp, là phục
vụ cho công nghiệp.
Chắc chúng ta có thể
đồng ý rằng sự thịnh vượng trong thời gian mới đây,
là sự thịnh vượng của công nghiệp. Tuy nhiên, trong khi người
Thái đem hết tâm lực vào Thời Ðại Công Nghiệp thì Phương
Tây lại phát triển mau hơn nữa. Thái Lan thích được gọi
là Quốc Gia Công Nghiệp Mới, nhưng người Phương Tây đã
vượt qua giai đoạn này và tiến tới Thời Ðại Hậu Công
Nghiệp, đó là Thời Ðại Thông Tin. Khoa học là yếu tố
quan trọng trong tất cả hai trường hợp.Có thể nói là
khoa học mở đường cho công nghiệp, nhưng Công Nghiệp lại
nói " Khoa Học! Người phục vụ cho ta!"
Song song với sự phát
triển công nghiệp, chúng ta cũng nhận thấy một hậu quả
tai hại liên quan phát sanh, mà sự gia tăng đưa đến tình
trạng nghiêm trọng chưa từng thấy. Giờ đây nguy cơ do sự
phá hoại môi sinh đe dọa chúng ta đã quá rõ ràng.
Nguyên nhân của nó là
hai ý tưởng: sự ham thích chinh phục thiên nhiên và duy vật
chủ nghĩa, hai ý tưởng trên đem nhân loại đến con đường
thao túng, mà hậu quả là tàn phá thiên nhiên trên một qui
mô tăng nhanh chưa từng thấy. Thêm vào đó, hai xung lực
này là nguyên nhân tranh cấp trong lòng nhân loại, tranh chấp
giữa cá nhân, để giành nhiều tiện nghi cho phần mình. Thậm
chí có thể nói con người hiện đại đã phải trải qua những
hậu quả tai hại của sự phát triển công nghiệp trong thế
kỷ vừa qua vì ảnh hưởng của hai mục đích được cho là
đúng này.
Ðàng
sau sự thịnh vượng...
Hai sự mặc nhận trên
chưa phải là một bức tranh toàn vẹn. Còn có hai khuynh hướng
lớn hỗ trợ cho chúng:
1) Chuyên Môn: Thời Ðại
Công Nghiệp là thời đại chuyên môn. Các ngành học thuật
đều được phân chia thành các lãnh vực chuyên môn. Mỗi
ngành có khả năng rất thành thạo trong lãnh vực của
mình, nhưng tổng quát, nhiều lãnh vực không thể hợp nhất
được.
Mục đích ban đầu về
việc chuyên môn hóa kiến thức là mong có nhiều kiến thức
chi tiết hơn trong một lãnh vực, rồi tổng hợp tất cả
những kiến thức ấy, nhưng các nhà chuyên môn đã bắt đầu
lóa mắt bởi kiến thức của họ, dẫn đến loại chuyên
môn lệch lạc, một quan niệm cực đoan. Trong lãnh vực khoa
học, có những người nghĩ rằng khoa học đơn phương đủ
để giải quyết các khó khăn của nhân loại, có thể trả
lời mọi câu hỏi, khiến nó không chịu nhượng bộ để hợp
tác với các lãnh vực kiến thức khác.
Loại quan niệm đó tạo
ra sự tin tưởng rằng tôn giáo và đạo đức cũng là những
lãnh vực kiến thức chuyên môn khác. Hệ thống giáo dục
hiện đại coi đạo đức chỉ như một môn học lý thuyết.
Khi nghĩ về đạo đức, họ nghĩ "Ồ, Tôn Giáo" rồi
xếp lại trong ngăn tủ. Họ không quan tâm tới. Khi phải giải
quyết các khó khăn trên thế giới, họ nói: "Ồ, lãnh
vực của tôi có thể giải quyết được!" và không nghĩ
là phải cố gắng hợp tác với các môn khác. Nếu quả thật
có đủ khả năng giải quyết tất cả các khó khăn, họ
cũng có thể giải quyết vấn đề đạo đức. Nhưng họ lại
nói đạo đức là vấn đề phải giải quyết của tôn
giáo hay là vấn đề của lãnh vực chuyên môn này kia. Việc
này khiến chúng tôi có quan điểm thứ hai xin được trình
bày sau đây:
2) Tin rằng vấn đề
đạo đức có thể giải quyết được mà không cần đến
đạo đức. Những người ủng hộ ý kiến này tin rằng
phát triển vật chất khi đã lên tới đỉnh cao, tất cả
những vấn đề đạo đức tự nó không còn nữa. Theo quan
điểm này, không cần thiết huấn luyện hay mở mang tinh thần
con người. Ðó là lý luận gần đây xuất hiện trong lãnh
vực kinh tế. Một số kinh tế gia chủ trương kinh tế phồn
thịnh, hàng hóa vật chất phong phú, sẽ không còn tranh chấp,
và xã hội sẽ hòa thuận. Câu nói trên đơn giản cho thấy,
vấn đề đạo đức hay luân lý, có thể giải quyết bằng
phương tiện vật chất, không cần đến đạo đức.
Ðiều trên đây không
hẳn là sai. Tình hình kinh tế có liên quan đến vấn đề
đạo đức, nhưng sẽ là sai nếu ta chỉ đơn giản lướt
qua vấn đề, tin tưởng rằng kinh tế phồn thịnh thì vấn
đề đạo đức sẽ biến mất.
Có thể nói, nếu phần
nào là khôi hài, lập luận trên chỉ đúng trong một khía cạnh
vì lẽ không có đạo đức thì kinh tế làm sao có thể phồn
thịnh được . Phải nói rằng nếu thực hiện tốt đạo
đức (thí dụ như khích lệ chuyên cần, độ lượng, thận
trọng và biết dùng của cải của mình để đem lợi ích
cho xã hội), khó khăn kinh tế sẽ biến đi.
Câu nói kinh tế tốt,
vấn đề đạo đức sẽ không có, chỉ đúng về một ý
nghĩa nào đó khi vấn đề đạo đức được xử trí trước
lúc kinh tế phồn thịnh. Tương tự, câu nói tất cả vấn
dề đạo đức đều được giải quyết, kinh tế sẽ phồn
thịnh, cũng chỉ đúng một phần, ấy là kinh tế phải đưọc
đề cập đến trước khi vấn đề đạo đức được giải
quyết.
Lời nói 'vấn đề đạo
đức' có tầm rộng trong các tình huống như sức khỏe tinh
thần, và mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, việc giải quyết vấn
đề đạo đức qua phương tiện vật chất đòi hỏi sự phối
hợp của tâm trạng, cảm nghĩ, chẳng hạn việc tổng hợp
các loại an thần để chữa các bệnh căng thẳng tinh thần,
lo lắng, suy nhược và phiền não.Nhưng sẽ là sai lầm nếu
chỉ cố gắng giải quyết các vấn đề đạo đức qua những
phương tiện trên. Loại điều trị như vậy chỉ có tính
cách tạm thời. Nó chỉ làm cho vấn đề lắng dịu xuống
nhưng không thể giải quyết được. Chúng ta sẽ trở lại
điểm này ở phần sau.
Nhiều ngành học thuật
muốn đưọc công nhận họ là khoa học, nhưng vấn đề
chuyên môn tự nó gây ra sự hạn hẹp, tương phản và trở
thành một trở ngại cho khoa học thực sự. Nhà chuyên môn
không thể là nhà khoa học chân chính. Cả đến vật lý cũng
không thể gọi là khoa học thực sự, vì lẽ nó thiếu
tính chất toàn vẹn, sự thật mà nó chứng minh được chỉ
là từng mảnh, sự thật chỉ là một phần nào thôi. Khi sự
thật chỉ là một phần, một phần thì nó không phải là sự
thật đích thật- chân lý. . Ch? biết một số sự việc thực
tế thì bất kể suy luận nào cũng không phù hợp với sự
thật hoàn toàn. Không khám phá được dòng nguyên nhân và
hiệu quả trong tính toàn vẹn của nó, thì chân lý vẫn
còn nằm ngoài tầm với.
Hai thái độ hay niềm
tin đó (nghĩa là chuyên môn và niềm tin là những vấn đề
đạo đức có thể giải quyết bằng phương tiện vật chất)
tràn ngập trong Thời Ðại Công Nghiệp Hóa. Do hai lý do
trên, sự khó khăn đã gia tăng.
Giờ đây hãy triển
khai một cuộc điều tra. Có thể một số quý vị phân vân
là tất cả những thứ này có liên quan đến tôn giáo
không. Ðể trả lời, tôi xin được nói là từ điểm này,
tôi bắt đầu đi vào lãnh vực tôn giáo. Trước đây, tôi
có đề cập lướt qua lãnh vực tôn giáo, nhưng để có thể
thấy chi tiết hơn, tôi muốn trở lại và đi vào đề tài
tôn giáo. Chúng tôi đã nói về khoa học, nguồn gốc và sự
phát triển của nó, bây giờ xin hãy nhìn vào nguồn gốc
và sự phát triển tôn giáo để cố gắng tìm một đường
lối dung hòa cho cả hai.
-ooOoo-
|
Mục lục |
Chương I |
Chương
II |
Chương III |
Chương
IV |
Chương V |
Chương
VI|
Chương
VII
---o0o---
Chân
thành cám ơn Đạo Hữu Bình Anson
đã gửi tặng phiên bản điện tử tập sách này .
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 1-4-2002