Phật Giáo,
nền tảng của Khoa học
Hòa thượng
Prayudh Payutto
Tỳ kheo
Thích Tâm Quang
dịch
---o0o---
II.
TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC
Từ
cùng lúc chung khởi
đến
lúc chia rẽ
TÔN GIÁO BẮT NGUỒN ra
sao? Chúng ta đều biết tôn giáo bắt nguồn từ sự sợ
hãi nguy hiểm, nhất là những nguy cơ thiên nhiên, như sấm
sét, lụt lội, động đất, núi lửa, bão tố vân vân ....
Những nguy hiểm trên đã đe dọa con người qua nhiều thời
đại.
? thời cổ, người ta
không hiểu sự vận hành cùng các hiện tượng thiên nhiên.
Khiếp sợ do sự đe dọa của sức mạnh thiên nhiên, nhân
loại bắt đầu tìm cách đối phó. Sự tìm kiếm trên nhanh
chóng thúc đẩy con người quan tâm đến thiên nhiên ở
chung quanh mình và khao khát tìm cách đối phó. Ðây là điểm
trên rất quan trọng, vì là nguồn gốc chung cho cả tôn
giáo lẫn khoa học. Tôn giáo phát sanh từ cái ham muốn
thoát khỏi nguy hiểm, trong khi khoa học, như chúng ta đã
nói ở trên, khoa học phát sanh từ lòng ham muốn muốn biết
sự thật của thiên nhiên.
Trong trường hợp tôn
giáo, lòng ham muốn được an toàn là động cơ chính.Sụ
đe dọa tồn tại trong thiên nhiên nên nhân loại hướng về
với thiên nhiên để có câu trả lời thiết thực . Ðồng
thời, cảm giác kinh ngạc về những kỳ diệu của thiên
nhiên làm nẩy sinh lòng ham muốn biết sự thật của thiên
nhiên. Không phải là do tò mò vu vơ mà con người bắt buộc
phải tìm hiểu thiên nhiên, cốt để xử trí các nguy cơ do
thiên nhiên đe dọa.
Từ cái khao khát muốn
thoát khỏi nguy hiểm, tạo ra do sợ hãi, nẩy sinh lòng ham
muốn biết sự thật của thiên nhiên. Tới điểm này,
chúng ta có thể thấy nguồn gốc chung của khoa học và tôn
giáo: tôn giáo nẩy sinh trước, vì sợ nguy hiểm, trong khi
lòng ham muốn biết sự thật thiên nhiên khoa học nẩy sinh
tiếp theo sau.
Ðến chừng mực mà
chúng ta biết, những hình thức nghiên cứu khoa học sớm nhất
thật ra nẩy sanh từ tôn giáo. Những nhà nghiên cứu kiến
thức khoa học tại Ai Cập, Mesopotamia, và các văn hóa cổ
khác đều từ giới tôn giáo. Họ là những người đầu tiên
quan tâm đến việc nghiên cứu thiên nhiên, tận tụy tìm
các giải pháp chống lại các nguy hiểm đe dọa họ. Việc
trên đây cho thấy khoa học và tôn giáo đều cùng một nguồn
gốc.
Nguồn gốc chung ban đầu
của khoa học và tôn giáo cũng chính là điều tách riêng. Tại
sao chúng tách riêng? Câu trả lời nằm trong tính chất của
chính chân lý.
Sự đe dọa của thiên
nhiên là mối lo lắng cấp bách, một vấn đề sống chết
của nhân loại. Sự đe dọa là trực tiếp và ngay trước mắt.
Dù muốn làm gì, cũng phải có giải pháp đối với thiên
nhiên đã. Mọi người đều phải đối đầu như nhau trước
những nguy hiểm giống nhau. Giải pháp phải thích hợp cho một
nhóm người và cho toàn thể xã hội. Với tình trạng đó,
sự cần thiết phải có là một giải pháp để đối phó kịp
thời, giải quyết được những yêu cầu cấp bách ấy. Khi
một giải pháp xuất hiện và có thể chấp nhận được thì
nó cấu thành tôn giáo.
Những biện pháp trên
có nhiều hình thức, thí dụ những nghi lễ thần bí mà
theo quan niệm hiện đại, chúng có vẻ kỳ khôi, nhưng dù
có đúng như vậy thì chúng cũng vẫn là những biện pháp
được áp dụng tức thời trước đòi hỏi. Theo xu hướng
của xã hội, hành động trên trở thành tôn giáo.
Sau đó khi sự đe dọa
cấp bách đã qua đi, một nhóm khác có lẽ nảy sanh từ
nhóm thứ nhất thâu thập các dữ kiện, phân tách và thử
nghiệm. Nhóm này đi đến nhiều giải đáp khác nhau, do sự
quan sát có hệ thống từng bước một. Ðó là diễn tiến
hình thành 'khoa học', kiến thức thâu lượm do phương pháp
phân loại của sự quan sát từng bước một.
Ðây là điểm phân rẽ
giữa khoa học và tôn giáo. Câu giải đáp để giải quyết
nhu cầu cấp thời cho quần chúng, thiếu phương pháp phân
loại quan sát, phụ thuộc nhiều vào niềm tin và đức tin.
Ðó là tôn giáo. Tôn giáo, do vậy, gắn chặt với niềm
tin.
Mặt khác, khoa học là
kỷ luật nghiên cứu có hệ thống từng bước một. Nó
không đòi hỏi tìm ngay một giải đáp kịp thời, và chỉ
ứng dụng cho một nhóm người thích như thế chứ không phải
cho toàn thể xã hội. Vì lý do trên, có những cá nhân hay
nhóm nguời tiến hành thu thập thông tin, quan sát có hệ thống,
sử dụng các phương pháp có kiểm chứng, công việc này trở
thành 'khoa học'.
Ðến đây, chúng ta có
sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và khoa học: tôn giáo
dành cho toàn thể xã hội hoặc tất cả các nhóm người,
trong khi khoa học chỉ ứng dụng giới hạn cho một số người.
Bây giờ vấn đề nêu lên là tôn giáo làm sao duy trì tính
đồng dạng trong ngữ nghĩa giáo lý và sự thực hành giáo
lý? Việc này chỉ hoàn tất được qua niềm tin. Gốc rễ của
tôn giáo là niềm tin, sử dụng niềm tin để bảo tồn cái
tinh túy thực chất của mình, cung cấp một hệ thống đức
tin vững vàng, một hệ thống được tôn trọng và ủng hộ,
một hệ thống không được nghi ngờ thắc mắc. Ở Phương
Tây, điều này được gọi là giáo điều.
Khoa học chỉ giới hạn
cho một số người mà nó truyền tới, những tư tưởng
gia. Họ bảo tồn cái thực chất của khoa học qua sự thực
được kiểm chứng, sử dụng các phương pháp thí nghiệm
có cơ sở vững chắc và truyền bá sự thực qua sự thông
thái, hay nói cho đúng hơn, phương pháp khoa học.
Tôn giáo truyền đạt
chân lý tuyệt đối, bao quát, một giải đáp cần cho nhu cầu
cấp thời. Nói cho đúng hơn không phải tôn giáo cung cấp
câu giải đáp mà là câu giải đáp cung cấp cái trở thành
tôn giáo. Không phải là có một thể chế gọi là tôn giáo
đã hiện hữu trước đó tìm ra mhững giải đáp trên, đúng
hơn là những giải đáp đó được đề xướng bởi nhân
loại, đã trở thành cơ cấu tôn giáo. Câu giải đáp được
đề nghị bởi nhiều người, hay một người, và thời gian
cứ qua đi, những người này được người khác theo, và cơ
cấu thành hình, phục vụ việc bảo tồn giáo lý. Như vậy
chúng ta có hình thức tôn giáo như khất sĩ, thầy tu, nhà sư,
vân vân...
Nhìn vào ở một khía
cạnh, tôn giáo tìm cách cung cấp câu giải đáp tuyệt đối,
câu giải đáp cho câu hỏi căn bản về đời sống, bao gồm
mọi thứ, từ cái cao nhất đến thấp nhất.
Mặt khác, khoa học,
tìm cách quan sát sự thực từ sự bày tỏ riêng rẽ, từng
mảnh một. Do sự thâu thập từng mảnh một, từng phần của
sự thực, dần dà tiến đến một bức tranh toàn bộ.
Mặc dù, khoa học, cũng
vậy, muốn có một nguyên lý tổng quát, nhưng nguyên lý tổng
quát lại có điều kiện, bị hạn chế trước những tình
trạng đặc biệt cùng các điều kiện, chỉ là một phần
của toàn bộ hay sự thực cơ bản. Chúng ta có thể nói
tôn giáo cho câu trả lời toàn vẹn, khoa học chỉ cho mảnh
một.
Tại điểm này, chúng
tôi xin nói thêm rằng do các giới hạn của tôn giáo và
khoa học, nảy sanh nhóm thứ ba; nhóm này bất mãn với cả
hai. Nhóm này muốn có câu giải đáp cho những vấn đề
căn bản về đời sống và vũ trụ, câu trả lời tuyệt đối
đúng, họ bất mãn với tôn giáo vì câu trả lời không
nêu ra lý lẽ mà lại nói về niềm tin. Khi họ quay sang
nhìn về khoa học, mặc dầu câu trả lời có thể kiểm chứng
và dựa theo lẽ phải, nhưng câu trả lời cũng không thật
tuyệt đối đúng. Sự nghiên cứu chưa đạt được mức độ
cơ bản của sự thật.
Nhóm này không muốn chờ
đợi câu giải đáp của khoa học, họ tìm kiếm giải đáp
cho những câu hỏi cơ bản qua lập luận suy xét không cần
đến sự xác minh kiểm chứng. Hệ thống tư tưởng này trở
thành một loại khoa học khác, được gọi là 'Triết Lý'.
Chúng ta có thể so
sánh ba môn này với những câu hỏi cơ bản về tự nhiên
làm thước đo như sau:
1. Khoa Học:
Ðang còn trong tiến trình xác minh, và quan sát vẫn còn đi
tìm câu giải đáp.
2. Triết Lý: Thay vì phải xác minh kiểm chứng, dùng
công cụ phân tích hợp lý để cho câu giải đáp.
3. Tôn Giáo: Cung cấp một câu giải đáp hoàn
toàn mà không cần đến sự xác minh.
Cả hai khoa học và triết
lý đều xuất hiện sau tôn giáo, đều cố gắng cho các
câu giải đáp rõ ràng hơn tôn giáo. Tuy nhiên, cả hai thất
bại trong sự giải đáp để thỏa mãn những mong muốn
trên toàn bộ căn bản, đó là lý do tại sao tôn giáo vẫn
hiện hữu tuy chỉ cho câu giải đáp căn cứ trên niềm tin.
Nhiều
tôn giáo, một khoa học
Sau khi đã xét những
khác biệt giữa tôn giáo và khoa học, tôi muốn đưa ra một
vài nhận định về sự khác biệt này.
Vì lẽ tôn giáo đưa
ngay ra sự thật bao quát và trực tiếp, câu giải đáp
thích hợp cho đại chúng, nhưng đồng thời chưa được xác
minh qua một trong năm giác quan, nên phải dựa vào niềm tin.
Vì câu giải đáp chưa được kiểm chứng nên càng ngày
càng nẩy nở. Vào một thời điểm, một câu giải đáp
được đưa ra, người ta không biết câu đó đúng hay sai,
vì không thể xác minh được. nếu tin tưởng thì chấp nhận.
Một thời gian sau, một câu giải đáp mới lại được
đưa ra, không một ai có thể biết là câu này có đúng
không vì không được xác minh kiểm chứng. Vấn đề tùy
thuộc vào sự chọn lựa của cá nhân, chung qui là sở
thích. Một số người giữ niềm tin cổ xưa, số khác theo
niềm tin mới. Tôn giáo, xây dựng trên niềm tin, thay đổi
tùy theo niềm tin đó. Vì lẽ này, chúng ta thấy có nhiều
tôn giáo khác nhau trong bất cứ thời đại nào.
Tại sao như thế? Ðó
là bản chất của các câu giải đáp. Sự giải đáp toàn bộ,
tuyệt đối phải như vậy. Nó không thể xác minh được vì
dựa theo niềm tin. Khi có câu giải đáp mới, một số người
tin, nhưng tất cả những giải đáp đều không kiểm chứng
được.
Mặt khác, khoa học giải
đáp chậm rãi nhưng có phương pháp, kiểm điểm từng bước
một trong tiến trình. Khoa học giải quyết vấn đề bằng
trí thức. Bất cứ thời đại nào cũng chỉ có một khoa học.
Cho nên chúng ta thường nói: 'Có nhiều tôn giáo, nhưng chỉ
một khoa học'.
Tuy nhiên, nhìn từ góc
độ lịch sử, chúng ta thấy có nhiều khoa học, vì khoa học
không đưa ra một quan điểm toàn thể về chân lý. Có nhiều
tôn giáo, nhưng từ góc độ lịch sử cũng có nhiều khoa học.
Lý thuyết về bản chất vũ trụ thay đổi theo thời gian. Câu
giải đáp của khoa học mới đầu được cho là đúng lại
hóa ra sai. Với dòng thời gian, lúc tiên khởi sự kiện đúng
thật đã thay đổi. Một bức tranh mới lại được mở ra.
Ở một điểm thời
gian, khoa học theo Hệ Thống Ptolemaic, cho rằng địa cầu là
trung tâm vũ trụ. Rồi đến Hệ Thống Copernician, lấy mặt
trời làm trung tâm, theo kiểu Hệ Thống Copernicius, đến Hệ
thống Cartesian và Newtonian, và bây giờ chúng ta có vũ trụ
của vật lý mới. Bức tranh khoa học không ngừng thay đổi.
Thiên nhiên hay Vũ Trụ, theo lý thuyết vật lý hiện đại,
dù là thuyết Lượng Tử hay thuyết tương đối thì cũng hoàn
toàn khác hẳn với thời Newton về vũ trụ. Ta đã có nhiều
khoa học qua nhiều thời đại.
Hơn thế nữa, không chỉ
có nhiều khoa học qua các thời đại mà dường như là hiện
nay chúng ta còn có nhiều khoa học cũng tồn tại. Ðến nỗi
một số khoa học gia tuyên bố đã đến lúc khoa học phải
thay đổi một số tiền đề căn bản. Những khoa học gia này
bác bỏ một số tiền đề khoa học cổ để nói về ' tân
vật lý ' và 'tân khoa học' . Ðiều này cho thấy không phải
chỉ có một khoa học mà thôi.
Tôi mới nói đến quan
hệ của khoa học với thế giới bên ngoài qua năm giác
quan. Trong việc này, tôn giáo còn có một đặc tính khác.
Tôn giáo không những chỉ nhìn vào thế giới bên ngoài, mà
tự nó đã quan tâm đến con người, đến những đối tượng.
Khoa học chỉ quan tâm tới những mục tiêu quan sát, còn
tôn giáo tự nó cũng quan tâm đến người quan sát, đến
người sử dụng năm giác quan căn bản. Dầu vậy tôn giáo
không chỉ hạn chế ở năm giác quan, mà còn trực tiếp
liên quan đến trình độ mở mang của mỗi cá nhân. Tôn
giáo nhận thức trực tiếp đến mức độ phát triển tinh
thần của người nhận thức, nên có phần phức tạp hơn.
Bất luận thế nào, với
đà tiến triển ngày nay, tôn giáo vẫn đặt trọng tâm vào
chúng sanh, quan tâm đến trở ngại của chúng sanh, và khó
khăn ấy cần phải được giải quyết. Khi tìm hiểu các
nguyên nhân và yếu tố gây ra khó khăn ấy, đa số tôn
giáo chuyển hướng tìm căn nguyên, giống như khoa học tìm
căn nguyên ở thế giới vật chất bên ngoài. Trong phạm vi
ấy, đa số tôn giáo không khác biệt gì khoa học: nhìn vào
thế giới thiên nhiên bên ngoài như là nguồn gốc của khó
khăn, của khổ đau. Sự tìm kiếm chân lý của tôn giáo là
để giải quyết khó khăn cho nhân loại, trong khi sự tìm kiếm
chân lý của khoa học chỉ là thỏa mãn sự khao khát của
kiến thức.
Hầu như các tôn giáo
đều thấy nguyên nhân khó khăn, dù từ bên trong hay bên
ngoài, đang náu mình trong thế giới thiên nhiên, trong các dạng
thức như thần linh, thánh thần, thượng đế hoặc các lực
lượng siêu nhiên khác. Với những tai ương bên ngoài như sấm
sét, động đất vân vân..., việc cầu nguyện và cúng tế
cho các lực lượng ấy. Với những rối loạn bên trong, như
đau yếu, bệnh thần kinh, cuồng loạn, các ông đồng bà cốt
hoặc thầy phù thủy trừ tà thường thi triển các lễ nghi
huyền bí. Khoa học không bắt buộc tìm ngay câu giải đáp
cứ từ từ lo liệu việc nghiên cứu các dữ kiện một
cách có hệ thống.
Những tôn giáo nhân
sinh, đặc biệt Phật Giáo, mặc dù chú trọng đến điều
kiện con người, nhưng coi nguồn gốc khó khăn không hoàn
toàn nằm trong thế giới bên ngoài. Loại tôn giáo này tìm
nguồn gốc khó khăn trong toàn bộ tiến trình nguyên nhân -
điều kiện gồm cả những cái đó trong con người, thí dụ
cách kiếm sống sai - dù chúng ở bên trong hay bên ngoài, hữu
hình hay vô hình, vật chất hay tinh thần.
Trong số các tôn giáo
thông thường nhiều tôn giáo dạy cách đối trị khó khăn
bằng những phương tiện thích hợp, thông qua luân lý hay đạo
đức. Ðiều đó dường như biểu thị quan niệm về những
yếu tố bên ngoài góp phần gây nên khó khăn, nhưng cững
không nhất thiết trường hợp nào cũng như vậy. Thực ra,
kiểu thực hành niềm tin như thế thường không được tiến
hành bằng sự hiểu biết thực sự những yếu tố đó, mà
là vì sự phục tùng một thế lực siêu nhiên bên ngoài
nào đó. Ðây là mối quan hệ giữa nhân loại và sức mạnh
bên ngoài. Lối cư xử đạo đức trong các tôn giáo ấy thuờng
được áp dụng để tránh hình phạt, được ưu đãi hay
phúc lợi, hơn là tỉnh thức trước các nhân tố xẩy ra
trong tiến trình tự nhiên.
Nhiều tôn giáo thay đổi
theo thời gian để đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp
dân chúng. Vào bất cứ lúc nào, xã hội đều gồm có nhiều
mức độ phẩm hạnh và hiểu biết khác nhau, và tôn giáo cần
đáp úng các mức độ nhu cầu khác nhau ấy.
Trong quá khứ, chân lý
khoa học được xác minh do năm giác quan, nhưng nay đã khác.
Trước đây quan sát được thực hiện bằng năm giác quan -
v?i mắt thường, tai thường, trực tiếp bằng tay vân
vân... Nhưng theo tiến trình của thời gian,sự cần thiết
là phát triển các dụng cụ, như viễn vọng kính, kính hiển
vi, để mở rộng khả năng của giác quan. Các dụng cụ đó
ngày một được sáng chế tinh vi hơn, cho đến nay có thể
thí nghiệm các giả thiết bằng toán học. Ngôn ngữ toán học
trở thành các dụng cụ chính xác để kiểm chứng. Kết quả
của việc phát triển rộng lớn này đưa đến sử dụng máy
vi tính.
Sự phát triển khoa học
làm tăng truởng các phương tiện để xác minh kiểm chứng
nảy sanh nét đặc biệt khác hẳn với tôn giáo. Sự xác
minh và quan sát của khoa học trở thành lãnh vực chuyên
môn dành riêng cho một thiểu số được chọn lựa. Một
người bình thường không thể nhìn thấy sự thực của
khoa học, vì không có dụng cụ cần thiết. Khoa học trở
thành môn học rất chọn lọc.
Tôn giáo thuộc về đại
chúng. Tôn giáo thích hợp cho người bình thường, có thể
hoàn toàn tự do chấp nhận hay chối bỏ tôn giáo mà không
cần chứng cớ. Thật ra trong một số tôn giáo cũng có điều
giống như khoa học, dành riêng chân lý của họ cho một ít
người chọn lựa, các thầy tu hay các nhà sư thậm chí
dành quyền đạt các quả vị tinh thần hơn là để lôi
kéo các cá nhân. Trong các tôn giáo nhân sinh như Phật Giáo,
không có sự phân biệt hay miễn trừ cho cá nhân nào vì
thiên nhiên chính là chủ tể của nó. Làm sao có thể độc
quyền được? Mỗi cá nhân đều có quyền hiểu và đạt sự
thực của thiên nhiên, do trí thông minh cùng sự sáng suốt.
Chúng ta hãy ghi nhận
hai loại bất lực để kiểm chứng chân lý. Một là không
có dụng cụ kiểm chứng, và hai là chân lý không thể xác
minh bằng các phương tiện đang được sử dụng. Ngày nay,
khoa học gặp khó khăn về cả hai truờng hợp, đặc biệt
là khi muốn đưa ra lời tuyên bố về chân lý tối hậu,
hay nghiên cứu sâu vào địa hạt tâm.
Nếu khoa học không mở
rộng tầm nhãn quan, khoa học sẽ đi đến đường cùng
không lối thoát. Khoa học có hoài bão khao khát giải đáp
những câu hỏi cơ bản và chủ yếu về vũ trụ, nhưng
chưa bao giờ đi đến kết quả. Giống như khi gần đến bên
lề câu giải đáp, thì chân lý hình như lại tuột khỏi tầm
tay.
Tuy
minh bạch nhưng vẫn bối rối
Ngày nay chúng ta bắt
đầu thấy có nhiều loại khoa học khác nhau cùng tồn tại.
Ngoài tân khoa học và khoa học cổ điển, hay tân vật lý
và vật lý cổ điển, chúng ta có khoa học cho các chuyên
gia và một khoa học cho người bình thường. Sở dĩ như vậy
vì khái niệm nói trong khoa học nhiều khi hoàn toàn vượt
qua khả năng hiểu biết của người bình thường có thể
hình dung được. Không những không thể kiểm chứng cho
chính mình mà còn không thể hiểu thấu các khái niệm ấy.
Ðiều này không thể xẩy ra với người bình thường, một
số khái niệm khoa học thâm chí còn vượt qua khả năng hiểu
biết của số đông khoa học gia! Mình chỉ hiểu được lời
nói của mình mà thôi.
Hãy lấy thí dụ. Theo
khoa học, ánh sáng cùng lúc là làn sóng lại vừa là hạt.
Các khoa học gia cố gắng giải thích tính chất của ánh
sáng: nó là làn sóng hay hạt? nó là một phần tử hay hạt,
có đúng không? Nhóm này nói: 'Ðúng, nó là hạt, một dòng
protons (Vi-phân nguyên tử dương điện)'. Nhóm khác lại bảo:
'Không, nó là làn sóng'. Cuối cùng, dường như ánh sáng là
cả hai, vừa là sóng vừa là hạt. Hừ, thế là cái gì? Nó
có thể chứng minh bằng toán học được không. Người bình
thường không thể hiểu nổi vì sự việc loại này vượt
qua tầm hiểu biết của họ.
Hãy thử nhìn vào thí
dụ khác. Những hố đen, các nhà thiên văn học nói những
hố đen rải rác khắp vũ trụ. Chúng là tinh tú mà ngay cả
ánh sáng cũng không thoát ra được, chúng đen ngòm. Tóm lại,
không có gì có thể thoát khỏi lực hấp dẫn cực cao của
chúng. Cả đến ánh sáng cũng không thể phát ra được. Với
một người bình thường, cái đó để làm gì? Cái gì mà
ánh sáng cũng không thoát khỏi?!
Rồi lại nói trong những
hố đen ấy, cả hai vật chất và năng luợng kết đặc lại
cực kỳ kinh khủng. Không gì trên trái đất của chúng ta
có thể đem so sánh. Ðể có một vài khái niệm, họ bảo nếu
tất cả khoảng trống trong không gian, bằng cách nào đó
được ép thành một tòa nhà chọc trời, như tòa nhà chọc
trời Empire State Building với 102 tầng lầu cao, khối lượng
và năng lượng của nó kết đặc lại chỉ bằng cỡ một
cái kim! Một tòa nhà chọc trời! Lấy tất cả khoảng trống
không gian ra khỏi và tất cả còn lại chỉ cỡ bằng một
cái kim! Dân quê sẽ hình dung cái đó như thế nào?
Khoa học gia nói các hố
đen ra sao là tùy họ. Thực tế nó còn lạ lùng hơn, vì lẽ,
tuy có thể bằng cỡ một cái kim, mà nó vẫn cân nặng bằng
cả tòa nhà chọc trời Empire State Building. Không thể tưởng
tượng được - Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm
là đành tin như vậy. Ðã từ lâu chúng ta tin vào các khoa học
gia, không hoài nghi về họ. Nhưng tự trong đáy lòng, chúng
ta đều hoang mang, 'Hừ, cái đó có đúng không?'
Khoa học gia vẫn còn
chưa thể giải đáp các câu hỏi về cuộc sống và thế giới,
vẫn tiếp tục các công tác như thâu thập dữ kiện để xác
minh và kiểm chứng. Khoa học vẫn chưa giải thích nhiều
câu hỏi bản chất về vũ trụ, thậm chí sự tồn tại của
nó ở hạt cơ bản. Khoa học vượt qua ngoài điều có thể
chứng minh bằng năm giác quan. Giả thiết được chứng minh
bằng toán học, thuyết minh bởi các nhà vật lý học.
Chân lý được chứng
minh bằng phương trình đại s?, những phương trình tự nó
không phải là chân lý, không thực sự làm sáng tỏ được
chân lý giúp cho người ta có thể nhận thức được. Ðó
chỉ là niềm tin vào những ký hiệu toán số. Những ký hiệu
này được giải thích mà không có nhận thức trực tiếp của
sự thực, gần giống như điều kiện do Sir Arthur Eddington nói.
Sir Arthur Eddington là
khoa học gia người Anh, được ghi nhận là người đầu tiên
hiểu trọn vẹn thuyết Tuơng Ðối của Einstein. ông là người
đầu tiên phát minh ra cách thức chứng minh Thuyết Tuơng Ðối,
công trạng của ông đã được (Hoàng Gia Anh ) phong hầu tước.
Theo một khoa học gia
trong lãnh vực của ông, Sir Arthur Eddington có lần đã nói:
"Khoa học không
thể dẫn nhân loại trực tiếp đến chân lý, hay sự thực,
khoa học chỉ có thể dẫn nhân loại đến cái bóng của thế
giới ký hiệu."
Trên đây là lời
tuyên bố của ông - "cái bóng của thế giới ký hiệu"
- một thế giới ký hiệu và dấu hiệu. Ðó là lời của
một khoa học gia thuộc cấp lãnh đạo thế giới.
Cả đến những hiện
tượng có thể quan sát được cũng vẫn chưa hẳn là chắc
chắn. Khoa học gia sử dụng phương pháp khoa học là những
phương tiện để thử nghiệm việc quan sát. Yếu tố chính
của phương pháp này là quan sát và thử nghiệm,phải được
thi hành đến khi không còn nghi ngờ gì nữa mới thôi. Tuy vậy,
sự việc cũng không đi sát mục tiêu vì những giới hạn của
sự thử nghiệm và các dụng cụ sử dụng.
Chúng ta hãy lấy thí dụ
về Ðịnh Luật Trọng Lực của Newton. Ðịnh luật đã được
toàn thể thế giới chấp nhận là đúng, nhưng Einstein nói
định luật này không hoàn toàn đúng. Ở mức độ tiềm
nguyên tử, Ðịnh Luật Trọng Lực không được áp dụng,
trong thời Newton, chưa có các dụng cụ quan sát tiềm nguyên
tử. Nhân loại phải đợi đến thế Kỷ Thứ Hai Mươi,
Einstein mới dùng các phương trình toán học và lý luận, tiến
tới sự thực này. Cho nên chúng ta cần phải thận trọng.
Quý vị không thể tin vào ngay cả các thử nghiệm.
Ở vấn đề này tôi
muốn kể một câu chuyện ngắn để đùa chơi với các khoa
học gia. Ðó là câu chuyện con gà và nông dân Brown. Sáng
nào con gà cũng thấy bác nông dân Brown mang thức ăn cho mình.
Sáng nào cũng vậy, nên nó cứ theo Bác Brown cho đến khi nó
được ăn. "Con gà nhìn thấy Bác Brown = được
ăn"....cái này là một phương trình. Nhưng một buổi sáng
khi con gà nhìn thấy bác Brown, nó không được ăn vì bác
Brown không mang theo thức ăn trong tay, bác Brown lại cầm con
dao trong tay. Phương trình "con gà nhìn thấy bác Brown =
được ăn" nay trở thành phương trình " Con gà nhìn
thấy Bác Brown = bị cắt tiết". Cho nên dường như cả
đến sự xác minh căn cứ trên việc quan sát lập đi lập lại
cũng không thể hoàn toàn tin được, vẫn không phải là điều
chắc chắn.
Cái mà chúng tôi muốn
nhấn mạnh là chính khoa học đã tự mình càng ngày càng xa
người bình thường qua những phương pháp thử nghiệm tinh
vi phức tạp. Khoa học gia trở thành nhóm người được chọn
lựa kỹ càng, một nhóm tinh hoa, một nhóm chuyên môn cao,
trong khi tôn giáo dành cho đại chúng bình dân. Ðó là điều
khác biệt lớn giữa tôn giáo và khoa học.
Tiến đến việc hợp
nhất khoa học và tôn giáo
Khoa học ít được sử
dụng trực tiếp cho đại chúng. Nhiệm vụ của khoa học
là giúp người dân trong lãnh vực hiểu biết, nhưng trên thực
tế, vai trò của nó nói chung lại thông qua kỹ thuật,
không cải thiện được sự hiểu biết tý nào cả.
Kỹ thuật giúp đỡ nhân
loại trong chiều hướng nào? Phần lớn trong sự tiêu thụ,
thường nuôi dưỡng tham sân si. Vô tuyến truyền hình được
phát minh, do đó chúng ta xem vô tuyến truyền hình. Nhưng khi
người dân xem vô tuyến truyền hình, họ không xem những
gì làm tăng trưởng sự hiểu biết và thông minh mà xem những
gì làm cho họ xiêu lòng và mất cảm giác. Chúng ta có kỹ
thuật truyền thông, nhưng kỹ thuật này không dùng để mở
mang trí tuệ và khả năng suy xét chính xác, mà thường dùng
để khuyến khích ảo tưởng.
Dường như khoa học không
chịu trách nhiệm về các sự việc trên và quăng vai trò
này cho kỹ thuật giúp đỡ đại chúng. Tuy nhiên, kỹ thuật
không phải lúc nào cũng có ích, mà đôi khi ngược lại còn
hết sức tai hại. Như đã nói thay vì trở thành dụng cụ
tạo lợi ích (để phục vụ quần chúng), kỹ thuật trở
thành công cụ vụ lợi (vì quyền lợi riêng tư). Vì vậy,
khoa học bỏ mặc dân trong tay tôn giáo. Quý vị trách cứ
ai? Ta có thể hỏi: "Tại sao tôn giáo làm cho con người
thành cả tin và ngu xuẩn", tuy nhiên cũng có thể phản
ứng lại: Tại sao khoa học bỏ rơi người dân cho tôn
giáo?"
Khoa học trở thành vấn
đề mà chỉ một thiểu số người có thể tiếp cận.
Ngoài ra tất cả còn lại chỉ biết tin vào khoa học, thực
sự là họ không biết hư thực. Ngày nay, khoa học càng
ngày càng biến thành vấn đề của lòng tin tưởng hay niềm
tin, không còn là vấn đề kiến thức, điều đó đặt khoa
học vào vị thế giống như hầu hết các tôn giáo.
Lúc này, Hoa Kỳ vẫn
phải đương đầu với thuyết 'khoa học vạn năng', niềm
tin mù quáng vào khoa học. Khoa học trái ngược hoàn toàn với
nhẹ dạ cả tin, nó liên quan đến kiến thức và kiểm chứng
sự thực một cách hợp lý, có hệ thống, nhưng ngày nay người
dân rất tin vào khoa học. Khoa học gia phải nhận trách nhiệm
trước tình trạng này vì bổn phận của khoa học gia là phải
chia sẻ sự hiểu biết cho nhân loại, nhưng hiện nay người
ta đến với khoa học trong sự nhẹ dạ, đôi khi gần như
xuẩn ngốc. Không cần biết và kiểm chứng những chân lý
của khoa học, họ dễ dàng tin theo.
Trước khi tiếp tục
theo ý này, tôi muốn mời quý vị suy xét câu: "Có rất
nhiều tôn giáo, nhưng chỉ một khoa học".
Ðầu tiên, sự hiện
diện của nhiều tôn giáo, nhưng chỉ có một khoa học tại
bất cứ thời điểm nào là một hiện tượng tự nhiên, nảy
sanh tự nhiên do bản tính con người. Cho nên điều kiện này
là khoa học. Nói một cách khác, với tính cách là hiểu biết,
là kiến thức về tiến trình tự nhiên của vạn vật, khoa
học cũng phải hiểu được tình trạng này.
Thứ hai, sự tồn tại
của nhiều tôn giáo sát cánh với khoa học, cho thấy khoa học
vẫn chưa thỏa mãn được nguyện vọng lớn lao nhất của
nhân loại, giải đáp các câu hỏi cơ bản về vũ trụ, hay
đạt được sự diễn tả toàn diện chính xác về bản chất
của sự thực. Khoa học chưa phát triển đến mức tối
đa, tôn giáo vẫn cần thiết để thỏa mãn nhu cầu dù chỉ
có tính cách tạm thời vì khoa học không chu toàn được.
Thứ ba, khi khoa học cuối
cùng có thể tiến tới chân lý để giải đáp các câu hỏi
chủ yếu của nhân loại, khoa học trở thành toàn bích. Nhiều
tôn giáo sẽ không trụ lại được. Ngược lại, nếu tôn
giáo nào có thể cho thấy chân lý cao nhất dẫn nhân loại
đến sự thực, sẽ kết hợp với khoa học, nhập làm một
và cùng một tập hợp kiến thức. Vào lúc đó, khoa học
và tôn giáo sẽ vươn tới điểm gặp gỡ, điểm cuối cùng,
nơi tôn giáo trở thành khoa học và khoa học trở thành tôn
giáo, sự phân chia giữa tôn giáo và khoa học sẽ không còn
nữa.
Khi
niềm tin vào khoa học bị lung lay, sự sùng bái tôn giáo
thăng
hoa
Một lần nữa tôi xin
tóm tắt tại điểm này là những khó khăn thực sự về đời
sống trong xã hội cần đến ngay câu giải đáp - hay phải
cứu chữa - ngay bây giờ, trong cuộc sống hiện tại. Con người
chúng ta chỉ ở trên trái đất này một thời gian giới hạn,
không thể chờ đợi được. Tình thế đe dọa không cho
chúng ta thì giờ trì hoãn .
Mặc dù khoa học có thể
cung cấp nhiều cách thức giải đáp hiệu quả các vấn đề,
nhưng nó bị yếu đi vì 'quá ít, quá trễ'.
'Quá ít', tôi muốn
nói kiến thức của khoa học không đủ để giải quyết những
vấn đề căn bản của đời sống. Khoa khọc không làm cho
con người thành tử tế, không làm cho họ hạnh phúc, không
làm sao cho họ sửa các thói quen xấu, không thể giải quyết
khổ đau, buồn thảm, sân hận, luyến tiếc, thất vọng
vân vân ...Thậm chí khoa học không thể giải quyết vấn đề
xã hội.
Ðáp lại điều này,
các khoa học gia có thể nói rằng khoa học có thể giúp bằng
nhiều cách. Những người bị mất ngủ, suy nhược, đau thần
kinh được trị liệu bằng thuốc. Khoa học có lợi ích lớn
trong địa hạt này. Khoa học và kỹ thuật trong lãnh vực y
học giúp ích không biết bao nhiêu người. Ðiểm này phải
được công nhận. Những người bị bệnh thần kinh nặng
đã được giúp ích ở mức độ nào đó bởi khoa học.
Có lẽ các khoa học
gia sẽ nghiên cứu trong tương lai làm cho con người hạnh phúc
bằng thuốc. Bất cứ lúc nào quý vị cảm thấy không còn
hạnh phúc, quý vị chỉ việc dùng một viên thuốc là
xong... nhưng vấn đề không phải là thuốc mà là tìm lạc
thú. Khoa học gia sẽ nghiên cứu tính chất của bộ não,
tìm xem hóa chất nào tiết ra tương ứng với các cảm xúc
nào đó như cảm xúc sung sướng, khi tách được tác nhân
hóa học đó, các khoa học gia có thể tổng hợp các hóa chất
này lại. Bất cứ lúc nào cảm thấy thất vọng hay buồn nản,
con người chỉ việc dùng thuốc là hết ngay. Thoạt nhìn, tưởng
chừng khoa học có thể làm được mọi thứ, thậm chí có
lẽ giải quyết được tất cả những vấn đề thế giới.
Nếu quả làm được cho con người hạnh phúc, con người sẽ
không còn sợ thất vọng hay buồn nản. Với loại hóa chất
đó, dễ mua như thực phẩm, con người lúc nào cũng sẽ hạnh
phúc, không bao giờ còn bị thất vọng nữa.
Tuy nhiên suy xét đến
nguy hiểm của hóa chất, chúng ta đã mục kích thế giới
hiện trong tình trạng quá lộn xộn với thuốc diệt trùng
và hóa chất để tồn trữ thực phẩm, đừng có thêm gì nữa.
Tuy nhiên, việc này không phải là điểm quan trọng nhất.
Thậm chí quan trọng hơn là triển vọng của các giá trị
(tiêu chuẩn đạo đức), tức là chất lượng của cách sống.
Mục tiêu của tôn giáo là dẫn nhân loại đến tự do. Tự
do ở đây có nghĩa khả năng được hạnh phúc mà không cần
đến tác nhân bên ngoài, càng ngày càng sung sướng tự tại
và ít dựa vào bên ngoài, để phát triển một cuộc sống
không bị lệ thuộc trước những cái hào nhoáng bên ngoài.
Nhưng việc dùng thuốc buộc người ta ngày càng đặt nhiều
hạnh phúc và số phận của mình vào tay ngoại cảnh, làm
cho người ta ngày càng ít sống với chính mình.
Nếu khoa học là
nguyên nhân làm con người ngày càng lệ thuộc vào bên
ngoài, thì khoa học chẳng khác chi các tôn giáo cổ xưa, dẫn
dắt con người đầu tư số phận của mình vào thần thánh
với hiến tế (sanh vật), cúng thần và cầu khẩn. Trong hai
trường hợp trên, hạnh phúc và đau khổ của con người đều
nằm trong tay các tác nhân bên ngoài, một đằng dùng vật
chất để dâng cúng, một đằng dùng dùng chất lượng tượng
trưng, nhưng thực chất cả hai đều phá hoại cái độc lập
của con người.
Nếu sự việc tiến đến
giai đoạn đó, con người chúng ta chỉ còn biết chấp nhận.
Nếu đúng là như thế, chúng ta không còn là con người tự
nhiên nữa, mà là người khoa học hay nhân tạo, hoặc là một
loại chúng sanh nào đó không thích nghi nổi trong môi sinh
thiên nhiên.
Ðiều mà tôi vừa đề
cập đến là thí dụ về cái mà tôi muốn nói là 'quá
ít'. Khoa học tự nó không đủ khả năng để giải quyết
các vấn đề nhân loại. Theo từ ngữ dùng trong nhà Phật,
chúng ta có thể nói khoa học và kỹ thuật không giúp phát
triển các đức tính của tâm hay định tâm. Khoa học và kỹ
thuật bị cái nhìn hẹp hòi, chỉ tìm cách thâu thập các dữ
kiện mà không cung cấp cho chúng ta kiến thức để làm sao
sống một cuộc sống thực sự hạnh phúc (panna) (x)
(x) Sila, Samadhi, và
Panna, hay giới, định và huệ là ba giáo lý căn bản trong
việc tu tập giới hạnh Phật Giáo.
Ðiều phản đối thứ
hai của chúng ta với khoa học là 'quá trễ'', chúng ta không
thể chờ đợi được nữa. Chân lý khoa học không phải
là trọn vẹn và đầy đủ. Khoa học chưa cho ta câu giải
đáp dứt khoát, cùng chưa có dấu hiệu chứng tỏ đến bao
giờ mới có được. Kiến thức khoa học thay đổi không ngừng.
Có lúc chân lý là thế này, nhưng ít lâu sau chân lý lại
thế khác. Chân lý hình như lúc nào cũng thay đổi. Nếu chúng
ta phải ngồi đợi cho đến khi đi đến câu giải đáp cuối
cùng về tính chất của Vũ Trụ, chúng ta sẽ chết trước
mà chẳng bao giờ biết cách chỉ đạo cách sống của
chúng ta.
Khoa học gia bao giờ cũng
tìm kiếm một nguyên lý tổng quát, nhưng bất cứ nguyên
lý nào tìm ra cũng chỉ là nguyên lý phụ, chỉ là một phần
của toàn bộ bức tranh. Trong khi khoa học chưa đưa ra được
lời giải thích về chân lý cơ bản, chúng ta đã sử dụng
khoa học, thông qua kỹ thuật, để nâng cao đời sống và
thỏa mãn dục vọng. Giờ đây, cái đã giúp nhân loại là
kỹ thuật, vì kỹ thuật ít nhất có thể sử dụng vào một
điều gì đó hơn là chính khoa học. Nhưng kỹ thuật không
thể trả lời những câu hỏi cơ bản của loài người, của
thế giới thiên nhiên nên trước nhất nhân loại phải dựa
vào tôn giáo, chỉ sử dụng khoa học cho tiện nghi qua tiến
bộ của kỹ thuật. Ðó là tình trạng ngày nay.
Tại sao con người vẫn
cần đến tôn giáo? Tại sao tôn giáo vẫn hiện hữu trên
thế giới này? Vì nhân loại còn chờ đợi một câu giải
đáp đầy đủ, câu giải đáp tuyệt đối, đáp đúng tình
thế, và có thể thực thi được ngay. Vì câu giải đáp
không thể xác minh được, vì lẽ khoa học không thể kiểm
chứng được cho con người, nên con người phải viện đến
niềm tin.
Mặc dù khoa học đã
thực thi được những tiến bộ vĩ đại, nhưng tất cả những
gì đã làm được chỉ mở rộng tối đa cái có thể nhận
thức được về thế giới vật chất càng ngày càng phức
tạp và rắc rối. Ðể trả lời những câu hỏi cơ bản của
nhân loại, trình bày sự liên hệ và vị trí đích đáng của
con người trong thế gian, dường như khoa học vẫn dẫm chân
tại chỗ chưa có một tiến bộ thực sự nào cả.
Chẳng
hơn gì những sai lầm ngớ ngẩn
Không chỉ trong lãnh vực
Khoa Học Thuần Túy thỉnh thoảng lại phát hiện ra các sai
lầm. Ngay cả trong phạm vi Khoa Học Ứng Dụng và Kỹ Thuật,
những điều lầm lẫn vẫn thường thấy xẩy ra. Thường
không phải là làm sai quấy, những việc làm sai, những lỗi
lầm là do sự ngu dốt, thiếu sót và thiếu thận trọng.
Thí dụ như thuốc
Chloramphenicol. Một thời gian thuốc này được phổ biến
lan tràn. Một thứ thuốc tuyệt diệu hình như chữa được
bách bệnh. Ai ai cũng thích và chúng ta ai nấy đều nghĩ rằng
chúng ta sẽ không còn bệnh tật mãi mãi. Khi nào bạn đau yếu,
bạn chỉ cần chạy đi mua Chloramphenicol được bán khắp nơi.
Sau này, khoảng mười năm sau, người ta đã khám phá ra thuốc
này nếu dùng thường xuyên sẽ tích tụ trong cơ thể làm
cho tủy trong xương không sanh hồng huyết cầu và nhiều người
đã chết vì thiếu máu.
Rồi đến trường hợp
thuốc DDT. Lúc ấy, người ta nghĩ rằng với thuốc DDT, vấn
đề côn trùng trên thế giới sẽ không còn nữa - như kiến,
muỗi .... sẽ bị tận diệt. Chúng ta nghĩ là có thể tận
diệt những sinh vật ấy, và không còn bị chúng phiền hà
nữa.
Nhiều năm sau người
ta khám phá ra thuốc xịt DDT có chất Carcinogenic gây ung thư,
một chất tiềm ẩn khả năng gây nguy hiểm cho người. Hơn
nữa, trong khi con người bị chịu hậu quả tai hại của
thuốc này thì loài côn trùng trở thành miễn nhiễm, thuốc
đó vô hiệu quả với chúng. Không lâu, thuốc trở nên vô
dụng với côn trùng, nhưng lại có thể giết người. Nhiều
quốc gia đã ra lệnh cấm sử dụng thuốc DDT, nhưng đến
nay, Thái Lan vẫn còn dùng.
Tiếp theo là thuốc
Thalidomide. Thalidomide là một loại thuốc giảm đau và an thần
được các nhà y khoa chuyên nghiệp hết lời ca ngợi. Người
ta đồn thuốc này đã được thử nghiệm hết sức nghiêm
ngặt, và được tin cậy đến nỗi loan báo rằng đây là
loại thuốc hết sức bảo đảm. Thalidomide được đề cao
đến nỗi cả đến những quốc gia phát triển rất thận
trọng về thuốc men cũng cho phép mua mà không cần toa. Thuốc
được bán tự do trong vòng năm năm, đến năm 1961 người
ta khám phá ra các phụ nữ mang thai dùng thuốc đó đã sanh
con dị dạng. Cho đến khi nhận ra hiểm họa và thuốc bị
cấm bán trên thị trường thì 8000 trẻ bị dị dạng đã
ra đời do kết quả của việc dùng thuốc này.
Chúng ta hãy thêm một
thí dụ nữa, vụ hóa chất CFC (Chloro-Fluoro-Carbons). Nhóm
hóa chất này rất thông dụng cho máy ướp lạnh, máy điều
hòa không khí, và trong các hộp cần sức ép.Những hóa chất
này được sử dụng trong thời gian rất lâu với đầy tin
tưởng. Sau chúng ta đã biết việc gì xẩy ra, hóa chất bốc
lên thượng tầng khí quyển và làm thủng tầng ô-zôn. Nhiều
sự kiện như thế gây tai hại không ít, các khoa học gia rất
lo lắng, hội nghị quốc tế được triệu tập để tìm
các giải pháp ngăn chặn. Cho nên một kiến thức mới mà
ta tưởng là điều tốt lại chính là điều tai hại.
Khi
khoa học và t
ôn
giáo hợp nhất, nhân loại sẽ nhận thức được điều thiện
tối thượng.
Trước khi sang phần khác,
chúng tôi muốn thêm một nhận xét nho nhỏ. Sự xuất hiện
và phát triển của khoa học chắc chắn làm tăng sự hiểu
biết và trí thông minh con người, vấn đề này chúng ta
không có gì cần phải bàn cãi. Nhưng đồng thời, nếu nhìn
kỹ chúng ta lại thấy khoa học làm cho trí thông minh và sự
hiểu biết của con người suy thoái. Tại sao vậy? Trong những
thời đại trước, khi khoa học mới bắt đầu nổi và
phát triển, người ta có ấn tượng tốt đẹp về các
thành quả của khoa học. Người ta rất hứng thú về những
khám phá và thành quả kỹ thuật của khoa học. Người ta
đặt niềm hy vọng hoàn toàn vào khoa học và kỹ thuật để
có câu giải đáp cho mọi vấn đề. Tất cả những bí ẩn
của thiên nhiên sẽ được khám phá, khoa học sẽ dẫn
nhân loại đến một thời đại hoàn toàn hạnh phúc.
Những người này hết
lòng tin tưởng vào khoa học, họ chuyển hướng, bắt đầu
nghi ngờ tôn giáo cùng những câu giải đáp của tôn giáo.
Nhiều người mất niềm tin và xa rời tôn giáo.
Bất hạnh thay, chân
lý mà khoa học đề cập đến chỉ là một phần chân lý
hoặc chân lý có tính chất chuyên môn. Nó chỉ liên hệ đến
thế giới vật chất. Khoa học không có câu giải đáp cho vấn
đề nội tâm con người, câu giải đáp mà trước đây họ
đến với tôn giáo. Sự xa rời tôn giáo trong thời hiện đại
sẽ không đến nỗi mất mát quá to lớn, nếu chúng ta chỉ
cần nói đến các dạng thức được coi là tôn giáo, nhưng
sự xa rời này là xa rời phần chính yếu của tôn giáo
liên hệ với việc giải quyết các vấn đề trong nội tâm
con người.
Vì khoa học không quan
tâm đến những vấn đề trên, và người ta xa rời tôn
giáo, nên đó là một thiếu hụt to lớn cần bù đắp. Những
giải đáp do tôn giáo đưa ta trước đây đã bị phớt lờ,
làm châm sự phát triển tinh thần và trí tuệ của nhân loại.
Không những thế, trong nhiều trường hợp còn làm cho tinh
thần và trí tuệ thoái hóa.
Bản chất việc đời,
các vấn đề nhân sinh và con người không cho phép nhân loại
bỏ qua nhu cầu về tôn giáo. Câu giải đáp thực tiễn, cơ
bản và cấp thời, từ trước đến nay lúc nào cũng cần
thiết. Khi khoa học không có khả năng đáp ứng nhu cầu
này và khi đã chán mê say khoa học, con người trở về với
lý trí và nhớ lại nhu cầu cơ bản bên trong. Một lần nữa
họ quay về với tôn giáo để có câu giải đáp. Nhưng vì
dòng phát triển tinh thần đã bị ngưng lại, bị cản trở
một thời gian đã bị suy thoái, nên sự tìm kiếm như thế
rất không ổn đinh. Do đó cần phải làm lại từ đầu.
Ðiển hình là sự phát triển tôn giáo được thấy tại một
số quốc gia tiên tiến, mặc dầu sống giữa sự tiến bộ
khoa học, vẫn có những người điên khùng, khờ dại rơi vào
tay bọn lừa bịp (x).
(x) Ám chỉ đến sự
gia tăng của những giáo phái lập dị kì quặc tại các nước
kỹ nghệ phát triển cao độ.
Tuy nhiên, khoa học
không phải là không hữu ích dẫn đến hiểu biết tốt
hơn trong phạm vi tôn giáo. Người ta biết rõ tôn giáo đặc
biệt ở dạng có tổ chức, đã từng đóng vai trò tích cực
ngăn cản sự phát triển trí thông minh con người. Cũng có
một vài tôn giáo mù quáng bám vào niềm tin và thực hành
vô lý ngớ ngẩn ngay trước những nguyên lý cơ bản của
chính mình.
Sự phát triển của
khoa học, đặc biệt về thái độ và phương pháp, có một
số ảnh hưởng tốt đến tôn giáo cùng thái độ tôn giáo
trong xã hội. Do vậy, ít nhất, tôn giáo có cơ hội hành động
như chất xúc tác, để xét lại một số giáo lý và thái
độ của mình. Khoa học phát triển cũng là tiêu chuẩn để
đánh giá những câu giải đáp của các tôn giáo, cho các
tôn giáo cơ hội để hiểu nhau.
Tuy nhiên, từ quan điểm
của đại chúng, đặc biệt tại các quốc gia chịu ảnh hưởng
của khoa học, dường như khoa học không có hiệu quả đáng
kể cho lợi ích đời sống và hạnh phúc tinh thần người
dân. Khoa học không quan tâm mấy đến đa số quần chúng. Mặc
dù đa số nhìn khoa học với thiện cảm, nhưng tin tưởng
khoa học thì lại như tin vào cái gì thần thông và huyền
bí. Niềm tin của họ mộc mạc không căn cứ trên kiến thức.
Ðó là ' thuyết khoa học vạn năng '. Khi người dân nghĩ về
khoa học, họ nghĩ ngay về kỹ thuật là phương tiện đem lại
lạc thú cho họ. Vì lý do đó, sự phát triển của khoa học
rất ít ảnh hưởng tích cực về kiến thức, hiểu biết,
hay thái độ của xã hội.
Ở góc độ lạc quan
hơn, tại thời điểm này, hình như người ta không còn cảm
thấy hứng khởi về khoa học và bắt đầu nhìn vào nhu cầu
của họ trong mối liên hệ với tôn giáo. Một số tôn
giáo đáp ứng nhu cầu của họ trên mức độ khác nhau. Ðồng
thời, một số thành viên trong giới khoa học nhận thức
được giới hạn của khoa học chính thống, mở rộng chân
trời nghiên cứu của họ gồm có cả tôn giáo, có thể tạo
điều kiện cho khoa học phát triển một nền khoa học cao
độ hợp nhất với tôn giáo, sự hợp nhất có thể dẫn
nhân loại đến sự thực, hòa bình, một đời sống thoát
khỏi những ràng buộc dại khờ.
Mặt khác, khoa học có
thể cố gắng chứng minh điều mà tôn giáo đã tiên đoán
trước đây. Trong khi nhân loại không thể chờ đợi câu giải
đáp mà chúng ta cần phải có, và câu giải đáp này trở
thành tôn giáo. Tuy câu giải đáp chưa được chứng minh,
nhưng chúng ta đã chấp nhận nó vào lúc này, trong khi khoa học
thì từ từ theo phương pháp thử nghiệm. Hình dung nét đại
cương như vậy, thì khoa học là nỗ lực của con người nhằm
chứng minh chân lý (hay phi chân lý) của tôn giáo. Theo cách
nhìn đó, hai lãnh vực trở nên hòa hợp, nẩy sanh từ nguồn
gốc chung, lại một lần hợp nhất.
Theo dòng thời gian, một
lần nữa phương pháp khoa học lại đi đến giới hạn sẽ
không thể chứng minh được chân lý do tôn giáo đưa ra. Ngày
nay một số các khoa học gia hàng đầu, đã nhận thức được
như vậy. Bất cứ lúc nào, chân lý cuối cùng, tối hậu do
tôn giáo đưa ra cũng ở ngoài tầm hiểu biết của khoa học.
Chúng ta đã nói về
khoa học và tôn giáo, từ nguồn gốc đến quá trình phát
triển. Bây giờ, hãy nhìn riêng về Phật Giáo và đi vào đề
tài chính của bài thuyết trình này.
...Nhiều người quan niệm
đạo đức chỉ là sự chuyên quyền độc đoán của một
nhóm người nào đó... nhưng trong khi khoa học tự nó tách
khỏi bất cứ một suy xét nào về đạo đức và giá trị
(tiêu chuẩn đạo đức), Phật Giáo nghiên cứu và chỉ dạy
vai trò của đạo đức trong tiến trình tự nhiên...
-ooOoo-
|
Mục lục |
Chương I |
Chương
II |
Chương III |
Chương
IV |
Chương V |
Chương
VI|
Chương
VII
---o0o---
Chân
thành cám ơn Đạo Hữu Bình Anson
đã gửi tặng phiên bản điện tử tập sách này .
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 1-4-2002