Hướng
Đi Của Thời Đại
HT. Thích Đức
Nhuận
---o0o---
2.
PHONG TRÀO HIỆN
SINH TRONG TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG
NẾU khả năng suy tư đã tạo nổi
niềm tin cho con người, đã thỏa đáp khát vọng trường tồn của
nhân loại, đã giúp ý niệm người vượt được bức tường
chết và, đã là ánh đuốc soi đường cho mọi sinh hoạt, thì việc
hệ thống hóa suy luận thành các ý thức hệ thuần lý đã lại
làm cho nhận thức con người bị gò ép theo lối suy luận một chiều,
nhất là còn tạo ra các thứ luân lý công thức, bóp méo, thủ
tiêu tình cảm riêng tư của mỗi người đi, khiến cho cuộc sống trở
thành cứng đờ, nặng nhọc, tăm tối. Thêm vào đó một bọn
người manh tâm luôn luôn tìm mọi cơ hội để biến ý thức hệ
thành một thứ bình phong che dấu thủ đoạn bóc lột đớn hèn của
họ, đã làm cho xã hội vốn loạn lại càng loạn thêm, thân phận
con người vốn bi đát lại càng bi đát hơn. Lý tưởng của con
người tôn thờ luôn luôn quay lại ma sát thân phận con người.
Giá trị con người bị biến mất trước thần tượng lý tưởng. Con
người sống một cách thụ động, sống bằng quan niệm của ý thức
hệ, sống bằng sự quy kết tội phúc của luân lý, sống bằng pháp
luật của kẻ có quyền. Con người hoàn toàn chìm ngập trong ý niệm
tội lỗi, cái gì cũng có thể trở thành tội lỗi được; mà mọi
tội đều do nơi khát vọng của dục tính sinh ra. Chính vì muốn chế
ngự tội mà các nền luân lý xưa và nay đều phải đề ra việc
tiết chế dục tính. Sự tiết chế như vậy tuy là vấn đề cần thiết
cho một xã hội có tổ chức, tức là sống bằng ý thức, nhưng
chính cũng là một áp bức dồn nén tình cảm riêng tư của con
người, nhất là người văn nghệ đầy khát vọng tự do tuyệt
đối. Một khi tình cảm bị luân lý dồn nén thì sẽ đưa tới tâm
trạng ẩn ức. Ẩn ức mỗi lúc một lớn thêm khi nào gặp điều
kiện tốt sẽ bùng nổ.
I. Hiện sinh tồn
ngã
Trong cảnh đại loạn xuân thu
xưa, Khổng Tử đã hệ thống hóa tư tưởng Trung Hoa thành một ý
thức hệ duy lý thực nghiệm hữu vi hòng đặt lại kỷ cương cho xã
hội, thì cũng chính là lúc sức phản ứng của tình cảm trí thức
nổi loạn để sản ra tư tưởng Hiện sinh tồn ngã của Dương Chu.
Dương Tử hoàn toàn dùng tình cảm tự nhiên để đả kích hệ
thống hữu vi của Khổng Tử. Ông cho là không nên lấy ý thức
người mà can thiệp vào đạo tự nhiên, cứ để cho mọi vật tự
do phát triển, không vun đắp cũng không ngăn cản. Ý thức người
đã tạo ra các thứ danh ngụy tặc để khống chế con người, bắt
bẻ cuộc đời phải chính danh định phận. "Thực thì không có
tên. Có tên thì không phải thực. " Đem những cái giả tạo ấy
xâu kết lại thành một hệ thống để cùm xích con người thì chẳng
những không hết được loạn mà người thì khổ thêm, đời càng
loạn thêm. Nên người sống ở đời có cái vui của thân, không
bỏ nó đi, tức là phải tích cực giữ lấy cái ta lạc sinh hiện
hữu. Do đấy "thiệt một sợi lông mà được lợi cả thiên
hạ không cho, cả thiên hạ phục vụ cho một mình không lấy. Mọi
người không thiệt một sợi lông, không ai được lợi cả thiên
hạ, thì thiên hạ yên vậy ".
Chủ trương tự do tồn ngã lạc sinh
của Dương Chu phải được kể là thủy tổ của tư tưởng hiện sinh
của con người. Tư tưởng này xuất hiện giữa thời đại loạn,
trước áp lực của các hệ thông thuần lý; xuất hiện để chối
bỏ mọi thứ luân lý do ý thức hữu vi sản ra, nhằm giải phóng
thân phận con người, giải phóng tâm linh nhân loại. Thời đại của
Dương Chu là thời đại nông nghiệp phong kiến, nên tư tưởng hiện
sinh của ông nhuốm nặng tính cách tự nhiên, không mang sắc thái bi
đát cùng cực như thời đại chúng ta, sống bằng cuộc sống máy
móc xa lìa tự nhiên; nên Dương Chu vẫn còn vui được khi thấy mình
hiện hữu trong cảnh thuần phát của tự nhiên, ông chỉ lên án,
đả phá những ý thức cai trị, ý thức luân lý do con người sản
ra thôi. Tức là ông vẫn còn có lối thoát duy nhất là sống với
nội tâm trống rỗng tự tại. Thời chúng ta là thời đại con
người khai thác tự nhiên, bóp méo tự nhiên từ nội dung tới
hình thức bằng ý niệm người. Con người thấy mình hiện sinh giữa
không phải tự nhiên mà là giữa một xã hội người đầy rẫy
khổ đau, đầy rẫy bất công và giằng xé. Mình không tìm nổi mình
đích thực nữa. Mình hoàn toàn sống bằng quan niệm của kẻ khác,
của xã hội. Con người không thể thoát nổi nõa lực vĩ đại phi
lý của xã hội. Con người không tìm được lối tự giải thoát,
đành sống với quan niệm buông trôi, nên phong trào hiện sinh hiện
nay mang nặng tính cách khổ đau tuyệt vọng, khác với Dương Chu sống
bằng quan niệm ẩn dật tự nhiên lạc sinh và tích cực giải thoát.
2. Hóa
sinh đại ngã
Tiếp nối tư tưởng của Dương
Chu, Lão Tử đã thành lập nổi một hệ thống Duy nhiên. Tuy Lão Tử
không quyết định tư tưởng ông là một tư tưởng có hệ thống,
nhưng không vì vậy mà ta không nhận được tính cách phi hệ thống
của Lão Tử vẫn là một hệ thống Duy nhiên. Mọi nhận thức của
Lão Tử đều qui về tự nhiên, lấy tự nhiên làm xuất phát
triển, và đặt cứu cánh cho cuộc đời là thực hiện một con
người tự nhiên. Một con người mộc mạc lòng rỗng bụng đầy,
dứt bỏ thánh trí, nhân nghĩa, luân lý để sống một cuộc đời
tự do, tự sản, tự tại hợp với đại đạo tự nhiên. Đạo tự
nhiên là đạo tuyệt đối vĩnh viễn trường cửu, không nghe, không
thấy, không cầm nắm được, nhưng ở trong tất cả, bao trùm tất
cả, vô thủy vô chung, không làm mà không cái gì không làm. Vũ
trụ do đạo mà sinh hóa; vạn vật có đạo mới tồn tại. Đạo là
một lẽ tất yếu khách quan vượt tầm trí thức của con người. Nên
con người không đủ sức biết về Đạo mà chỉ có thể trực nhận
nổi Đạo qua sự sinh hóa của vạn hữu, của chính mình. Đặc tính
của Đạo là không làm mà không phải chẳng làm. Con người muốn
thể nhập Đạo lớn, thì phải gạt bỏ quan niệm hữu vi, tức là
gạt bỏ ý thức về vấn đề làm, hoặc nói khác đi, là làm không
theo sự xếp đặt của ý thức: không làm vì danh, vì lợi, vì lý
tưởng này, tư tưởng nọ. Phải gạt bỏ tất cả mọi đối tượng
hành động, thủ tiêu ý thức hữu vi rồi làm bằng sức tự động
mặc nhiên. Làm như vậy là thuận Đạo tự nhiên, mà thuận đạo
tự nhiên thì mình cùng với tự nhiên là một, đời cùng với
tự nhiên là một, khi đã hòa nổi cuộc sống người trong đạo tự
nhiên thì loạn sẽ hết, khổ cũng sẽ hết. Con người an nhiên tự
tại tự sản bao la. Đời loạn mới cần tới nhân nghĩa, luật pháp
là thứ con đẻ của ý thức mà chính ý thức là nguyên nhân của
sự loạn. Lấy loạn để trị loạn thì lại càng loạn thêm, do đấy
cần phải thủ tiêu ý thức nhân nghĩa, thánh trí, hữu vi mới vãn
hồi nổi cuộc sống tự nhiên thanh thoát.
Từ tư tưởng chủ quan tồn ngã
hiện sinh của Dương Chu sang tới Lão Tử thành tư tưởng khách quan
tồn nhiên hóa sinh. Lão Tử đã triển khai toàn triệt quan niệm duy
nhiên của phong trào ẩn dật Trung Hoa. Lão Tử đem con người lại
gần với tự nhiên, đem con người trở về với cuộc sống thuần
phác mộc mạc của tự nhiên, sống trong nhịp đại sinh hóa của vũ
trụ tự nhiên. Lão Tử chủ trương hủy bỏ hẳn nền văn minh hữu
vi hiếu động của Hán tộc để vãn hồi cảnh sống mặc nhiên vô vi
hiếu tĩnh của con người phương nam. Con người làm loạn cuộc đời
vì những ý thức hơn người, thắng vật. Xã hội càng văn minh bao
nhiêu, nhân loại càng phát sinh nhiều thánh trí bao nhiêu thì đời
càng loạn thêm lên bấy nhiêu. Quả vậy, sống sau Lão Tử trên hai
nghìn năm chúng ta đều phải nhận lời Lão Tử là đúng. Nhân
loại chúng ta hiện nay là một thứ nhân loại hoàn toàn xa lìa tự
nhiên, nền văn minh tự tạo của nhân loại lấn át nhưng vẻ tình
cảm phong phú của tự nhiên. Con người đã xa lìa tự nhiên quá
mất rồi, không có tài nào trở về với nguồn yên vui mộc mạc
được nữa. Mỗi ngày nhân loại càng chạy mau thêm tới trước
đích tiêu vong, nếu không có một phương pháp giải thoát tâm tư,
một cao trào giải phóng cuộc đời.
3. Tồn
sinh siêu thoát
Trang Tử là người xiển phát tư
tưởng duy nhiên của Lão Tử, đồng thời ông đã thăng hóa tư
tưởng Lão Tử lên tới mức siêu thoát: không biết thích sống
cũng không biết ghét chết, thảnh thơi mà sống, lúc ra không hớn
hở, lúc vào không tấp nập, phất phơ mà đi, phất phơ mà lại.
Không quên nơi mình bắt đầu, không cần nơi mình đến cuối. Trời
đất cùng với mình cùng sinh, vũ trụ cùng với mình là một. Vũ
trụ biến đổi không lường, việc gì phải nhọc lòng về sự sống
chết, hơn thua, cứ thuận lẽ tự nhiên mà sống, không ham sống sợ
chết, cứ giữ lòng cho chay tịnh hư không, rồi làm theo lẽ của tự
nhiên mà quên mình đi, danh lợi không cần, không khoe giỏi, không
chấp nhất cứ an nhiên mà sống, nhận tất cả mà mừng nó, quên
tất cả mà trở lại nó. Lòng quên, mặt lặng, trán phẳng, mát như
mùa thu, ấm như mùa xuân, mừng giận với bốn mùa hợp với muôn
vật mà không ai biết đến đâu là cùng. Người đạt tới mức
đó mới đích thực là người. Làm tất cả mà quên tất cả để
chơi với cõi vô cùng:
"Tướng Mây sang chơi miền đông
qua cánh đồng phất phới, xẩy gặp Hồng Mông. Hồng Mông đương vỗ
đùi mà nhảy chân cò. Tướng Mây thấy vậy, buâng khuâng, chắp tay
đứng mà hỏi:
- Cụ là ai vậy? Cụ làm gì đấy?
Hồng Mông vẫn nhảy không ngừng,
ngoảnh sang Tướng Mây mà nói:
- Chơi.
Tướng Mây tiếp:
Tôi muốn được nghe chuyện.
Hồng Mông ngửng nhìn Tướng Mây
rồi
- Ổ!
Tướng Mây hỏi:
Khí trời không hòa. Khí mây uất
kết. Sáu khí không đều. Bốn mùa không đúng tiết
Nay tôi
muốn hợp tinh hoa của sáu khí để nuôi các loài có sống, làm nó
ra sao?
Hồng Mông vỗ đùi nhảy chân cò,
lắc đầu:
- Ta chả biết! Ta chả biết!
Tướng Mây hỏi không được,
bỏ đi. Ba năm sau sang chơi miền Đông, qua cánh đồng Hữu Tống, lại
gặp Hồng Mông. Tướng Mây cả mừng, đi rảo tới mà thưa rằng:
- Trời! quên tôi sao! quên tôi sao?
Rồi rập đầu hai lạy, xin được nghe
lời chỉ bảo.
Hồng Mông nói:
- Lông bông, không biết cầu gì!
Ngông nghênh, không biết đi đâu! Lăn lóc chơi để xem cái "vô
vọng" ta lại biết chi!
Tướng Mây thưa:
- Tôi đây cũng tự lấy mình làm
ngông nghênh, mà tôi đi đâu thì dân họ theo đó. Tôi đây chẳng
được đừng với dân! Nay thì dân nó bắt chước
Xin cho nghe
một lời. Hồng Mông nói:
- Loạn lẽ thường ở đời. Trái
với tính các loài. Chẳng thành được đạo huyền của trời. Làm
tan đàn muông, mà chim đều hót đêm chơi! Cỏ cây lây vạ. Sâu bọ
mang tai. Chao ôi! Đó là cái lỗi trị người vậy.
Tướng Mây hỏi:
- Vậy thì tôi làm thế nào?
Hồng Mông bảo:
- Chao ôi! Hại thay là cái lòng khấp
khởi kia. Về đi thôi!
Tướng Mây nài:
- Tôi gặp nạn trời, xin được nghe
một lời.
Ho?g Mông nói:
- Chao ôi! Đem lòng mà nuôi đồ đệ
mi! Ở vào chỗ không làm mà vật tự nhiên hóa. Bỏ rời hình thể
mi! Khạc nhổ thông minh mi! Cùng vật quên loài. Đại đồng vào cõi
mông mênh! Cởi lòng, buông thần, lặng lẽ không hồn. Muôn vật lau
nhau, đều trở lại gốc nguồn. Đều trở lại gốc nguồn mà chẳng
biết chi. Hỗn hỗn độn độn trọn đời chẳng lìa. Nếu nó biết có,
tức là nó lìa nó. Đừng hỏi tên nó, đừng dòm tính nó, vật
vì thế sẽ tự nhiên sinh.
Tướng Mây than:
- Trời! Cho tôi đạo đức. Bảo tôi
bằng im lặng. Chính mình cầu nó, mà nay mình mới hiểu được.
Lạy hai lạy mà từ biệt"
(Nam Hoa kinh do Nhượng Tống Dịch)
Qua câu chuyện ngụ ngôn trên cho ta
thấy: Trang Tử hoàn toàn chủ trương lối sống mặc nhiên không ý
thức để thuận với lẽ "vô vi nhi vô bất vi " của trời
đất. Nhưng khác với con người suy tư Lão Tử, con người tình cảm
của Trang Chu tạo ra cho mình một phong thái siêu thoát đại đồng trong
cõi mông mênh. Quên thân, buông thần để đạt tới trạng thái vũ
trụ với ta cùng một. Tức là đến cõi chí đạo mịt mờ huyền
ảo. Lão Tử khuyên người ta thể nhập với đạo tự nhiên bằng
cách gạn lọc tâm tư làm cho lòng trống như hư không, Trang Tử đi xa
hơn, biến quan niệm duy nhiên thành một tôn giáo với những lối tu
"tọa vong" để mình được phơi phới chơi được ở cánh
đồng vô cực:
"Hoàng Đế được lập làm
thiên tử, mười chín năm, quyền uy trùm khắp thiên hạ. Nghe biết
thầy Quảng Thành ở trên núi Không Đồng, nên sang ra mắt thầy mà
thưa rằng:
- Tôi nghe nhà thầy hiểu về chí
đạo. Vậy dám hỏi phần tinh túy của chí đạo. Tôi muốn lấy tinh hoa
của đất trời để giúp ngũ cốc, để nuôi muôn dân. Tôi lại
muốn sắp đặt âm dương để mọi loài sống được thỏa thích. Làm
thế nào cho được?
Thầy Quảng Thành nói:
- Điều mi muốn hỏi là chất của
vật. Điều mà mi muốn sắp đặt là phần thừa của vật! Từ khi mi
trị thiên hạ, hơi mây không đợi họp mà mưa. Cỏ cây không đợi
vàng mà rụng. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng càng hoang hủy thêm.
Lòng kẻ nịnh thường hau háu đầy rầy. Lại sao đủ để nói chuyện
chí đạo. Hoàng Đế lui. Về nhà bỏ thiên hạ
ở dưng ba tháng,
rồi lại sang đón thầy. Thầy Quảng Thành nằm quay đầu phía nam.
Hoàng Đế thuận gió phía dưới, đi bằng hai đầu gối mà tới, dập
đầu mà thưa:
- Nghe nhà thầy hiểu chí đạo, dám
hỏi trị mình thế nào mà có thể được lâu dài?
Thầy Quảng Thành uể oải ngồi dậy
mà rằng:
- Câu hỏi khéo thay! Lại đây, ta
bảo mi chí đạo. Phần tinh túy của chí đạo, mờ mờ ảo ảo. Chỗ
rất mực của chí đạo, lặng hẳng rốt ráo. Không nghe, không trông,
lấy tĩnh làm lòng, xác sẽ tự chính. Phải trong, phải tĩnh, chớ
nhọc đến mình, chớ rung đến tính mới có thể trường sinh. Không
trông gì bằng mắt, không nghe gì bằng tai, không biết gì bằng lòng,
thì thần mi sẽ giữ nổi phần xác ngoài, xác ngoài mới có thể
sống lâu. Cẩn thận phần trong của mi. Đóng kín phần ngoài của mi.
Biết nhiều là hỏng. Ta đưa mi tới trên miền sáng láng rồi, đến
đó là cõi chí dương! Ta đưa mi vào cửa miền ảo minh rồi, đến
đó là cõi chí âm! Trời đất tự có công việc, âm dương tự
có chỗ chứa. Giữ mình mi cho cẩn thận, vật sẽ tự lớn. Ta giữ
phần một mà ở chỗ hòa, cho nên ta tu thân một nghìn hai trăm tuổi
rồi mà xác ta chưa hề suy.
Hoàng Đế dập đầu hai lạy mà thưa
rằng:
- Thầy Quảng Thành thật là người
trời.
Thầy Quảng Thành nói:
- Lại đây! Ta bảo mi: Nó là vật
không cùng mà người đều cho chết là xong. Nó là vật không diệt
mà người đều cho chết là hết. Kẻ được đạo ta, trên làm
hoàng mà dưới làm vương. Đạo ta mà bỏ mất thì trên thấy ánh
sáng mà dưới thấy đống đất. Nay coi trăm loài đều sinh từ đất
mà trở về đất. Cho nên ta sắp bỏ mi mà vào cửa vô cùng, để
sang chơi cánh đồng vô cực. Ta cùng với nhật nguyệt xem hào quang.
Ta cùng với trời đất ở cõi thường. Kẻ đón ta, ta chẳng biết.
Kẻ xa ta, ta chẳng hay. Người ta thì chết hết mà riêng ta còn sống
mãi đây".
(Nam Hoa kinh do Nhượng Tống dịch)
Tư tưởng của Trang Tử hoàn toàn
bước vào lĩnh vực xuất thế. Tuy mang một hoài vọng siêu thoát,
nhưng chưa phải là phương pháp giải thoát hữu hiệu cho đời, mà
chỉ là thái độ đề kháng cuộc đời ý thức. Tư tưởng đề
kháng cuộc đời, xa lánh thực tế đến độ khiêu khích này, không
phải là nơi trú ngụ chắc chắn của nhân loại, dù ở thời Trang
Tử hay bất cứ ở thời đại nào cũng vậy, mà chỉ là giải pháp
tạm thời thôi. Con người chỉ có thể thực sự bắt tay vào việc
giải thoát khi nào có được một phương pháp giải thoát toàn
diện: giải thoát tâm tư, giải thoát xã hội. Nối nổi nhất thời
vào với trường cửu, hòa nổi tiều ngã vào với đại ngã, đem
nổi phương pháp giải thoát vào với cuộc đời khổ ải, làm nhẹ
bớt oan khiên cho phận người, làm vơi bớt bất công cho xã hội,
lúc đó mới thực là lúc con người tự giải thoát và nhân
loại cùng giải phóng vậy.
Phong trào xuất thế thời xuân thu
xưa đã khởi điểm bằng thái độ ẩn dật của người trí thức
như Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Thiếu Liên, Liễu
Hạ Huệ, Tiếp Dư, Trương Như, Kiệt Lịch, Sở Cuồng
để phát
hiện ra bằng thức thuyết Hiện sinh tồn ngã của Dương Chu, rồi
được Lão Tử hệ thống hóa thành chủ thuyết Duy nhiên. Và cuối
cùng Trang Tử thăng hóa thành một tôn giáo siêu thoát, nhằm đề
kháng cuộc sống cực vi câu chấp của Hán tộc. Chống đối với ý
thức hệ Khổng Nho. Chống với lối cai trị hà khắc bạo hành của
phong kiến. Phong trào đã qui kết tội làm loạn xã hội cho những
hiện tượng trên. Chính vì sinh hoạt hữu vi, chính vì sinh hoạt nhân
nghĩa, chính vì sinh hoạt tổ chức, tức là sinh hoạt bằng ý thức
người xa lìa đạo tự nhiên, nên người mới khổ, đời mới
loạn. Hãy hủy bỏ quan niệm hữu vi, dứt trừ nhân nghĩa, khạc nhổ
thánh trí, phá bỏ tổ chức để trở về với tự tại, tự nhiên
mộc mạc. Sống trong đạo tự nhiên, chết trong đạo tự nhiên thì
mình không khổ, đời không loạn.
Không ý thức được thế này là
khổ, thế kia là sướng, thế này là phải, thế kia là trái, thế
này là hơn, thế kia là thiệt thì quả là bình dị thảnh thơi hết lo
nghĩ rồi. Nhưng con người đã có ý thức, đã biết phân biệt mà
chủ trương gạt bỏ cuộc sống ý thức đi là vấn đề trái tự
nhiên tính của nhân loại. Ý thức đối với nhân loại là hiện
tượng tự nhiên. Hiện tượng này là kiến phần của chân tâm.
Tức là khả năng phân biệt chấp giữ của tâm thức chúng sinh.
Chân tâm vạn hữu đều là một thể bình đẳng thường hằng phổ
biến. Chân tâm đồng nghĩa với đạo thể của Lão Tử. Kiến phần
đồng nghĩa với nhiên tính. Nhiên tính có khả năng khởi động
biến hiện thành vạn hữu muôn màu muôn vẻ. Kiến phần cũng có
khả năng chấp giữ phân biệt các chủng tử của chân tâm làm
thành hiện tượng riêng biệt. Mỗi hiện tượng đều có đạo thể
hoặc chân tâm; đều có nhiên tính hoặc kiến phần. Như thế, mỗi
hiện tượng đều cùng có hai phần đạo thể và nhiên tính gọi theo
Lão học, còn gọi theo Phật học là chân tâm và kiến phần. Chấm
dứt kiến phần thì vạn hựu hủy diệt, hủy diệt nhiên tính thì vũ
trụ trở thành tịch không. Hiện tượng còn tồn tại sinh hóa là
nhờ ở hai thể tính tự thân của hiện tượng. Mà kiến phần hoặc
nhiên tính ở mỗi loài, mỗi hiện tượng đều có cấp vị khác nhau:
Cây cỏ thì cứ tuần tự sinh hóa theo thời tiết. Động vật thì
cứ tuần tự mặc nhiên sinh sống nhởn nhơ còn nhân loại thì vừa
tuần tự vừa mặc nhiên lại vừa ý thức sinh hoạt để tạo ra
một cảnh sống người. Vậy ý thức cũng vẫn thuộc phạm vi thiên
tính, nếu đứng trên quan điểm vũ trụ mà nhìn. Còn nếu đứng
trên quan điểm nhân loại thì ý thức là sản phẩm của con người
có khả năng làm khác tự nhiên, sai biệt tự nhiên, đảo lộn tự
nhiên. Nên thức thuyết duy nhiên của Lão Tử là đứng ở bình
diện nhân loại để nhìn sự vật. Thức thuyết của Phật thì đứng
trên bình diện vũ trụ mà xét. Do đấy cho rằng ý thức người
cũng chỉ là sản phẩm tự nhiên thôi. Khi đã nhận ý thức người
là sản phẩm tự nhiên do kiến phần phân biệt và chấp giữ để
tạo thành nghiệp lực của mỗi loài thì không phải hủy diệt ý
thức mà chỉ làm cho ý thức sáng lên, tức là thăng hóa ý
thức thành tuệ giác. Khi ý thức đã sáng thì vô minh phải lùi,
vô minh lùi thì khổ đau giảm, loạn lạc tan dần. Bởi thế hiện
tượng do nhân duyên vũ trụ, hoặc do ý thức nhân loại sản ra,
đối với đạo Phật, cũng chỉ cho đó là hiện tượng tất nhiên.
Đạo Phật dã quan sát mọi hiện
tượng bằng tuệ giác sáng suốt để tùy nghiệp lực mỗi loài,
mỗi vật mà cung ứng cho một phương pháp giải thoát riêng, khiến cho
mỗi loài, mỗi vật tự chứng lấy trạng thái giải thoát của mình.
Lão Trang đã bỏ phương tiện để đi thẳng tới mục đích siêu
thoát, nên tạo ra một phong trào hoàn toàn xuất thế. Còn đạo Phật
thì vẫn không quên phương tiện. Có phương tiện mới dẫn tới
thành quả được. Vì không bỏ phương tiện nên đạo Phật không xa
lìa thực tế. Đối với đạo Phật: thực tế vừa là phương tiện
vừa là mục tiêu của vấn đề giải thoát. Không có thực tế khổ
đau thì không có sự giải thoát khổ đau. Bởi vậy vấn đề giải
phóng thực tế phải đi song song với vấn đề giải thoát tâm linh,
thì con người và cuộc đời mới vơi được khổ đau phiền não.
Người tự giác bao giờ cũng ít hơn người thụ giác. Đại đa số
nhân loại thuộc nghiệp lực thụ giác. Đa số nhân loại sống ở
mực thường, sống với hoàn cảnh và tùy thuộc hoàn cảnh thực
tế. Nếu không giải phóng thực tế, trao duyên lành cho nhân loại,
thì mục tiêu giải thoát nhân loại khỏi khổ đau sẽ chẳng bao giờ
đạt được. Giải phóng cuộc đời, giải thoát tâm tư là khẩu
hiệu của Phật giáo thời đại. Với người trí thức sống không
tùy thuộc nhiều vào hoàn cảnh thì việc giải thoát tâm tư bao giờ
cũng cần làm trước. Vì, người trí thức là đầu tàu lịch sử,
sắm vai trò hướng dẫn quần chúng, nên cần tự giải thoát tâm tư
mình trước mới mong giải phóng nổi cuộc đời. Cuộc đời có
giải phóng thì người thường mới có cơ hội, hoàn cảnh để cùng
giải thoát tâm tư. Tâm tư nhân loại đã giải thoát thì cảnh khổ
đau sẽ vơi dần đi trong xã hội người.
Tuy Lão Trang bỏ phương tiện, xa lìa
thực tế, thế nhưng cũng vẫn là nơi ẩn dật tốt cho người trí
thức trong cảnh loạn, trong cảnh hà chính của chế độ. Sống dưới
một chế độ độc đoán, sống dưới thời cực loạn, con người bị
biến thành phương tiện sản xuất, phương tiện tranh đấu quyền lợi
mà không có lối sống siêu thoát Lão Trang để giúp người tri
thức sống an nhiên tự tại: không nói bằng lời, không nghe bằng
tai, không nhìn bằng mắt
thì chắc gì người trí thức có sức
chịu đựng nổi với thực cảnh. Không chịu đựng nổi thực cảnh
nhớp nhúa thì tự tử sẽ thành một giải pháp thích hợp nhất.
Thái độ tích cực bài xích chính
trị của Trang Tử để hướng sinh hoạt nhân loại vào một tôn giáo
siêu thoát, đã bị người theo biến dổi thành mê tín, chuyên chú
vào việc luyện phép trường sinh. Các tay thuật sĩ xuất hiện để
lòe đời thâu lợi; mọc lên phong trào ngồi đồng nhảy bóng, tức
là chơi với các vị thần tiên vô hình của các cô đồng, bà cốt.
Đạo Lão từ quan niệm duy nhiên siêu thoát đã thành một nghệ
thuật giải trí siêu thoát cho người thường. Tất nhiên người
thường lấy đó làm thỏa mãn nhu cầu du hý, và bọn con buôn tôn
giáo cũng lấy đó làm nơi kiếm lợi. Vì mục đích thâu lợi nên
bọn này thường nghĩ ra rất nhiều thứ tà thuật để làm mụ mẫn
người theo.
Trường hợp trên đây không riêng
gì đối với một đạo Lão, mà còn đối với tất cả các tôn
giáo nữa. Ở vị giáo tổ nào cũng vậy, tôn giáo đều mang lại
niềm tin yêu cho con người, mở đường giải phóng cho con người,
giải độc cho xã hội. Nhưng tới người thừa kế càng về sau càng
sa đọa tôn giáo đi một cách đau đớn, đến độ tôn giáo chỉ còn
lại có những hình thức, những giáo điều cứng nhắc, những luật
lệ nghiêm ngặt để trói buộc người theo trong một quan niệm bè
phái nguy hiểm. Nhân loại hôm nay đang khốn đốn về những cuộc xung
đột lý tưởng. Lý tưởng mà con người tạo ra đang khống thế tư
tưởng con người, chia nhân loại ra thành các lực lượng đối thủ
để sát hại lẫn nhau. Thời đại đang đòi hỏi mọi người phải
bỏ bớt thành kiến lý tưởng, tôn giáo để chặn đà chiến tranh,
hận đà sa đọa, chặn mầm tự hủy, rồi cùng chung xây một cuộc
sống người thương vui tự do no ấm. Vị lý tưởng nào cũng chỉ là
phương tiện cho sự giải thoát tâm tư, giải phóng cuộc đời đau
khổ này thôi. Nếu nhân loại còn mãi chấp mê các lý tưởng thù
địch thì thế giới chẳng bao giờ thực hiện nổi một cuộc đại
giải phóng toàn diện cả. Đạo Phật thường coi lý tưởng như một
con thuyền đưa khách qua sông. Khi thuyền tới bờ, khách phải rời
thuyền lên bến thì mới hoàn tất nổi một cuộc vượt sông; nếu
khách nhất định ngồi mãi ở thuyền sẽ chẳng bao giờ khách tới
được bến cả. Chấp giữ lý tưởng là chấp giữ phương tiện,
bỏ mất mục đích. Mục đích của lý tưởng bao giờ cũng phụng sự
con người, nhưng nhân loại đã mê lầm đến độ mù quáng tôn
thờ lý tưởng, để lý tưởng quay lại khống chế con người, phong
tỏa cứng nhắc cuộc đời. Chính trạng thái mê lầm này đã làm
cho xã hội vốn loại lại càng loạn thêm; thân phận con người vốn
nặng nề oan trái lại càng nặng nề oan trái hơn. Phong trào hiện sinh
hôm nay, là một cuộc tâm tình nổi loạn, nhằm phá đổ mọi thần
tượng lý tưởng, mọi suy luận hệ thống, mọi luân lý công thức,
mọi trật tự máy móc, mọi qui tắc cằn cỗi để quyết đòi sự
tự do, phát triển lại cho con người toàn diện. Tất nhiên một phong
trào như thế sẽ không tránh khỏi những tư tưởng quá khích đến
độ làm cho cuộc đời bế tắc khắp mặt như hiện nay.
---o0o---
[Mục
lục] [01] [02] [03] [04] [05] [06] [07] [08] [09]
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 1-4-2002