SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 7
PHẨM TRƯỜNG THỌ
VƯƠNG
77. KINH SA-KÊ-ĐẾ TAM TỘC TÁNH TỬ[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa tại Sa-kê-đế
trong rừng Thanh.
Bấy giờ ở Sa-kê-đế
có ba thiện gia nam tử là Tôn giả A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề và Tôn giả
Kim-tì-la
đều là thiếu niên mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này không
lâu.
Lúc ấy Đức Thế Tôn
hỏi các Tỳ-kheo:
“Ba thiện gia nam tử
này đều là thiếu niên mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này
không lâu; ba thiện nam tử ấy có vui thích ở trong Chánh Pháp Luật này
hành phạm hạnh chăng?”
Khi đó các vị
Tỳ-kheo im lặng, không trả lời.
Đức Thế Tôn ba lần
hỏi các Tỳ-kheo rằng:
“Ba thiện gia nam tử
này đều là thiếu niên mới xuất gia học đạo, cùng đến nhập Chánh pháp này
không lâu; ba thiện nam tử ấy có vui thích ở trong Chánh Pháp Luật này
hành phạm hạnh chăng?”
Khi ấy các Tỳ-kheo
cũng ba lần im lặng, không đáp. Thế rồi Đức Thế Tôn hỏi thẳng ba thiện nam
tử ấy, Ngài nói với Tôn giả A-na-luật-đà rằng:
“Các ngươi, ba thiện gia nam tử, đều ở tuổi thiếu niên, mới xuất gia học
đạo, cùng đến nhập Chánh pháp không lâu. Này A-na-luật-đà, các ngươi có
vui thích ở trong Pháp Luật chân chánh này mà thực hành phạm hạnh chăng?
Tôn giả A-na-luật-đà
thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, quả
thật như vậy, chúng con vui thích ở trong Chánh Pháp Luật này hành phạm
hạnh.
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này A-na-luật-đà,
các ngươi lúc còn nhỏ, là những đồng tử ấu thơ, trong trắng, tóc đen, thân
thể thạnh trắng, vui thích trong du hý, vui thích trong tắm gội, săn sóc
nâng niu thân thể. Về sau, bà con thân thích và cha mẹ đều cùng lưu luyến,
thương yêu, khóc lóc thảm thiết, không muốn cho các ngươi xuất gia học
đạo. Các ngươi đã quyết chí cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, không phải vì sợ giặc
cướp, không phải vì sợ nợ nần, không phải vì sợ khủng bố, không phải vì sợ
bần cùng, cũng không phải vì sợ không sống được mà phải xuất gia học đạo,
mà chỉ vì nhờm tởm sự sanh, sự già, bệnh tật, sự chết, khóc lóc, sầu khổ,
hoặc vì muốn đạt đến tận cùng của khối khổ đau vĩ đại này nên xuất gia học
đạo. Này A-na-luật-đà, các ngươi vì những tâm niệm này mà xuất gia học đạo
chăng?”
Tôn giả A-na-luật-đà
đáp rằng:
“Bạch Thế Tôn, quả
thật như vậy”.
Phật liền nói:
“A-na-luật-đà, nếu
thiện gia nam tử nào với tâm niệm như thế mà xuất gia học đạo, nhưng có
biết do đâu mà chứng đắc vô lượng thiện pháp chăng?”
Tôn giả bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn là gốc của Pháp, là chủ của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong Thế Tôn
giảng giải cho chúng con. Sau khi nghe, chúng con sẽ biết được nghĩa một
cách rộng rãi”.
Đức Thế Tôn liền
bảo:
“Này A-na-luật-đà,
các ngươi hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt nghĩa ấy
cho các ngươi”.
Các Tôn giả
A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tì-la vâng lời lắng nghe. Đức
Thế Tôn bảo:
“A-na-luật-đà, nếu
ai bị dục phủ kín, bị ác pháp quấn chặt, không được xả lạc, vô thượng tịch
tĩnh, thì với người ấy tâm sanh ra tham lam, sân hận, thụy miên, tâm sanh
không an lạc, thân sanh ra dã dượi, ăn nhiều, tâm ưu sầu. Tỳ-kheo ấy không
nhẫn nại được đói khát, nóng lạnh, muỗi mòng, ruồi nhặng, gió nắng bức
bách, nghe tiếng thô ác hay bị đánh đập cũng không thể nhẫn nại được. Thân
mắc phải các bệnh tật thống khổ đến mức muốn chết và gặp những cảnh ngộ
không vừa lòng đều không thể nhẫn chịu được. Vì sao? Vì bị dục phủ kín, bị
ác pháp quấn chặt, không được xả lạc, vô thượng tịch tịnh. Trái lại, nếu
ly dục, không bị ác pháp quấn chặt, chắc chắn sẽ đạt đến xả ly, an lạc vô
thượng tịch tịnh. Tâm vị ấy không sanh ra tham lam, sân nhuế, thụy miên,
tâm được an lạc. Thân không sanh ra dã dượi, cũng không ăn nhiều, tâm
không sầu não. Tỳ-kheo ấy nhẫn nại được đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng,
ruồi nhặng, gió nắng bức bách, nghe tiếng thô ác hay bị đánh đập cũng đều
nhẫn nại được. Thân dù mắc những chứng bệnh hiểm nghèo rất thống khổ đến
mức chết được, hay gặp những cảnh ngộ không thể vừa lòng, đều nhẫn nại
được. Vì sao? Vì không bị dục phủ kín, không bị ác pháp quấn chặt, lại đạt
đến xả ly, an lạc vô thượng tịch tịnh.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này A-na-luật-đà,
Như Lai vì ý nghĩa gì mà có cái hoặc phải đoạn trừ, hoặc có cái phải thọ
dụng, hoặc có cái phải kham nhẫn, hoặc có cái phải đình chỉ, hoặc có cái
phải nhả bỏ?”
A-na-luật-đà bạch
rằng:
“Thế Tôn là gốc của
Pháp, là chủ của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong Thế Tôn giảng giải cho
chúng con. Sau khi nghe xong, chúng con sẽ biết được những nghĩa ấy một
cách rộng rãi”.
Đức Thế Tôn lại bảo:
“Này A-na-luật-đà,
các ngươi hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt những
thiện lợi ấy cho các ngươi”.
Tôn giả
A-na-luật-đà, Tôn giả Nan-đề, Tôn giả Kim-tì-la vâng lời lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-na-luật-đà,
các lậu ô uế là gốc của sự hữu trong tương lai, là sự phiền nhiệt, là nhân
của khổ báo, của sanh, già, bệnh, chết; Như Lai không phải vì không diệt
tận, không phải vì không biến tri mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ
dụng, có cái phải kham nhẫn, có cái phải đình chỉ, có cái phải nhả bỏ. Này
A-na-luật-đà, Như Lai chỉ vì nhân nơi thân này, nhân nơi sáu xứ, nhân nơi
thọ mạng mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái phải kham
nhẫn, có cái phải đình chỉ, có cái phải nhả bỏ. Này A-na-luật-đà, Như Lai
vì những nghĩa này mà có cái phải đoạn trừ, có cái phải thọ dụng, có cái
phải kham nhẫn, có cái phải đình chỉ, có cái phải nhả bỏ”.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này A-na-luật-đà,
Như Lai vì những ý nghĩa nào mà sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới
gốc cây, ưa sống nơi vách núi cao, vắng vẻ không tiếng động, viễn ly,
không có sự ác, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa như thế?”
Tôn giả A-na-luật-đà
thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn là gốc của Pháp, Thế Tôn là Chủ của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong
Thế Tôn giảng giải cho chúng con. Sau khi nghe xong, chúng con sẽ được
những thiện lợi ấy một cách rộng rãi”.
Đức Thế Tôn bảo
rằng:
“Này A-na-luật-đà,
các ngươi hãy lắng nghe và khéo tư duy, ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt những
thiện lợi ấy cho các ngươi”.
Các Tôn giả vâng lời
lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-na-luật-đà,
không phải vì muốn đạt được những gì chưa đạt đến, vì muốn thu hoạch những
gì chưa thu hoạch, vì muốn chứng ngộ những gì chưa chứng ngộ mà Như Lai
sống nơi rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt
tiếng tăm, xa lánh, không sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa.
Này A-na-luật-đà, Như Lai chỉ vì hai mục đích sau đây nên mới sống nơi
rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng
tăm, xa lánh, không sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa. Một
là, sống an lạc ngay trong đời hiện tại. Hai là, vì thương xót chúng sanh
đời sau. Đời sau hoặc có chúng sanh học theo Như Lai, sống nơi rừng vắng,
trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng người, tùy
thuận tĩnh tọa. Này A-na-luật-đà, vì những mục đích ấy mà Như Lai sống nơi
rừng vắng, trong núi sâu, dưới gốc cây, thích ở non cao, vắng bặt tiếng
tăm, xa lánh, không sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa”.
Đức Thế Tôn
hỏi:
“Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn là gốc của Pháp, Thế Tôn là chủ của Pháp, Pháp do Thế Tôn nói. Mong
Thế Tôn giảng giải cho chúng con. Sau khi nghe xong, chúng con sẽ được
những thiện lợi ấy một cách rộng rãi”.
Đức Thế Tôn bảo
rằng:
“Này A-na-luật-đà,
các ngươi hãy lắng nghe và khéo tư duy, ghi nhớ. Ta sẽ phân biệt những ý
nghĩa ấy cho các ngươi”.
Các Tôn giả vâng lời
lắng nghe.
Đức Thế Tôn bảo:
“Này A-na-luật-đà, không phải vì xu hướng của người mà nói, cũng chẳng
phải vì lừa gạt người, cũng chẳng phải vì muốn vui lòng người mà khi đệ tử
lâm chung, Như Lai ghi nhận vị này sẽ sanh chỗ này, vị kia sanh chỗ kia.
Này A-na-luật-đà, chỉ vì những thanh tín thiện nam hay thanh tín thiện nữ
với tín tâm nhiệt thành, với ái lạc cao độ, với hỷ duyệt cùng cực, sau khi
đã nghe Chánh Pháp Luật, tâm nguyện tu tập theo như vậy, cho nên lúc lâm
chung của các đệ tử, Như Lai đã ghi nhận vị này sanh chỗ này, vị kia sanh
chỗ kia. Nếu Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung nơi ấy, được Phật ghi
nhận đã đắc cứu cánh trí, biết như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Hoặc nhiều lần
trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Tôn giả ấy có tín
tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ
như vậy’. Tỳ-kheo kia nghe xong nhớ rằng Tôn giả kia có tín tâm như vậy,
trì giới như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Chánh
Pháp Luật này, Tỳ-kheo kia có thể tâm nguyện tu tập như vậy, như vậy. Này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo ấy chắn chắc được phần nào sống trong sự an lạc
thoải mái.
“Này A-na-luật-đà,
nếu Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật ghi nhận đã
dứt sạch năm hạ phần kiết, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, chứng đắc
pháp bất thối, không còn trở lại thế
gian này nữa. Hoặc chính mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể
lại rằng ‘Tôn giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như
vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Tỳ-kheo kia nghe xong nhớ rằng Tôn
giả kia có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ
như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo đó tâm nguyện tu
tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được
phần nào sống trong sự an lạc thoải mái.
“Này A-na-luật-đà,
lại nữa, Tỳ-kheo nào nghe rằng: ‘Tôn giả ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật
ghi nhận dứt sạch ba kiết sử, đã làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ một lần qua lại
thiên thượng, nhân gian; sau một lần qua lại thì đạt đến tận cùng sự khổ’.
Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Tôn
giả ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như
vậy, trí tuệ như vậy’. Sau khi nghe xong, Tỳ-kheo kia nhớ rằng: ‘Tôn giả
kia có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, trí tuệ như
vậy. Nghe Pháp Luật chân chánh này rồi, Tỳ-kheo đó có thể tâm nguyện tu
tập theo như vậy, như vậy...’ Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được
phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo nào nghe Tôn giả ấy lâm chung ở nơi ấy, được Phật
ghi nhận đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa ác pháp,
nhất định sẽ đạt đến chánh gác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh. Sau bảy lần
qua lại nhân gian, thiên thượng thì đạt đến tận cùng sự khổ. Hoặc tận mắt
trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Tôn giả ấy có tín
tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ
như vậy’. Sau khi nghe xong, Tỳ-kheo kia nhớ rằng: ‘Tôn giả kia có tín tâm
như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo đó có thể tâm nguyện
tu tập theo như vậy, như vậy’. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo đó chắc chắn được
phần nào sống trong sự an lạc thoải mái.
“Này A-na-luật-đà,
nếu Tỳ-kheo-ni nào nghe rằng: “Tỳ-kheo-ni ấy được Phật ghi nhận đã đắc Cứu
cánh trí, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm
đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Hoặc tận mắt trông thấy Tỳ-kheo-ni
ấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm
như vậy, có trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ
như vậy’. Sau khi nghe xong, nhớ rằng Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy,
trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau
khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni đó có thể tâm nguyện tu tập
theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần
nào sống trong sự an lạc thoải mái.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung nơi ấy,
được Đức Thế Tôn ghi nhận đã dứt sạch năm hạ phần kiết, sanh vào nơi kia
mà nhập Niết-bàn, đắc pháp bất thối, không còn trở lại cõi này nữa’. Hoặc
tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác nói lại rằng: ‘Tỳ-kheo
ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy học rộng như vậy, bố thí như vậy,
trí tuệ như vậy’. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Tỳ-kheo-ni ấy có
thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy,
Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc thoải mái.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung nơi ấy,
được Đức Phật ghi nhận rằng đã dứt sạch ba kiết sử, đã mỏng dâm, nộ, si;
chỉ một lần qua lại thiên thượng, nhân gian. Sau khi một lần qua lại ấy
thì đạt đến tận cùng sự khổ’. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe
người khác kể lại rằng: ‘Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như
vậy học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, nhớ
rằng: Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như
vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh
này, vị ấy có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này
A-na-luật-đà, như vậy, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn được phần nào sống trong sự
an lạc.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni nào nghe rằng ‘Tỳ-kheo-ni ấy lâm chung nơi ấy,
được Đức Phật ghi nhận đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, không đọa
vào ác pháp, nhất định đã đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ
sanh. Sau bảy lần qua lại thiên thượng, nhân gian thì đạt đến tận cùng sự
khổ’. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng:
‘Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố
thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, Tỳ-kheo-ni kia nhớ rằng:
Tỳ-kheo-ni ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố
thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này rồi,
Tỳ-kheo-ni kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này
A-na-luật-đà, Tỳ-kheo-ni đó chắc chắn có sự sai giáng an lac trụ chỉ.
“Này A-na-luật-đà,
nếu vị Ưu-bà-tắc nào nghe vị Ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở chỗ ấy, được Phật
ghi nhận đã dứt sạch năm hạ phần kiết, sanh vào chỗ kia mà nhập Niết-bàn,
đắc pháp bất thối, không còn trở lại thế gian này nữa. Hoặc tận mắt trông
thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm
như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như
vậy’. Nghe xong, vị Ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: Vị Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như
vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy.
Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, vị Ưu-bà-tắc kia có thể tâm nguyện
tu tập theo như vậy, như vậy. Này A-na-luật-đà, như vậy vị Ưu-bà-tắc kia
chắc chắc được phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Ưu-bà-tắc nào nghe vị Ưu-bà-tắc ấy lâm chung ở chỗ ấy, được
Phật ghi nhận dứt sạch ba kiết, đã làm mỏng dâm, nộ, si; chỉ một lần qua
lại thiên thượng, nhân gian. Sau một lần qua lại ấy thì đạt đến tận cùng
sự khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại
rằng ‘Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy,
bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tắc kia nhớ rằng: Vị
Ưu-bà-tắc ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố
thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, vị
Ưu-bà-tắc kia có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy. Này
A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tắc đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an
lạc.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Ưu-bà-tắc nào nghe Ưu-bà-tắc kia lâm chung ở chỗ ấy, được
Phật ghi nhận đã dứt sạch ba kiết sử, đắc Tu-đà-hoàn, đã đoạn ác pháp,
nhất định sẽ đạt đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh nữa. Sau
bảy lần qua lại thiên thượng, nhân gian thì đạt đến tận cùng sự khổ. Hoặc
tận mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tắc
ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy,
trí tuệ như vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tắc kia nhớ lại rằng: Vị Ưu-bà-tắc ấy
có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy,
trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, vị Ưu-bà-tắc kia
có thể tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy... Này A-na-luật-đà, vị
Ưu-bà-tắc đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
“Này A-na-luật-đà,
nếu Ưu-bà-tư nào nghe vị Ưu-bà-tư ấy lâm chung nơi ấy, được Phật ghi nhận
dứt sạch năm hạ phần kiết, sanh vào nơi kia mà nhập Niết-bàn, đắc pháp bất
thối, không còn trở lại thế gian này nữa. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc
nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy,
trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe
xong, Ưu-bà-tư đó nhớ lại rằng: Vị Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy, trì
giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ như vậy. Sau khi
nghe Pháp Luật chân chánh này, vị Ưu-bà-tư đó có thể tâm nguyện tu tập
theo như vậy, như vậy... Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư đó chắc chắn được
phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, Ưu-bà-tư nào nghe Ưu-bà-tư đó lâm chung ở nơi ấy, được Phật
ghi nhận đã dứt sạch ba phần kiết, làm mỏng dâm, nộ, si; chỉ một lần qua
lại thiên thượng, nhân gian. Sau một lần qua lại ấy thì đạt đến tận cùng
sự khổ. Hoặc tận mắt trông thấy, hoặc nghe người khác kể lại rằng:
‘Ưu-bà-tư ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố
thí như vậy, trí tuệ như vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tư kia nhớ rằng: Ưu-bà-tư
ấy có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy,
trí tuệ như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Ưu-bà-tư đó có thể
tâm nguyện tu tập theo như vậy, như vậy... Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư
đó chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
“Lại nữa, này
A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư nào nghe vị Ưu-bà-tư đó lâm chung ở nơi ấy, được
Phật ghi nhận đã dứt sạch ba kiết, chứng Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào ác
pháp, nhất định sẽ đến chánh giác, nhiều lắm là bảy lần thọ sanh. Sau bảy
lần qua lại thiên thượng, nhân gian thì đạt đến tận cùng sự khổ. Hoặc tận
mắt trông thấy, hoặc nhiều lần nghe người khác kể lại rằng: ‘Ưu-bà-tư ấy
có tín tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy,
trí tuệ như vậy’. Nghe xong, Ưu-bà-tư ấy nhớ lại rằng: Ưu-bà-tư ấy có tín
tâm như vậy, trì giới như vậy, học rộng như vậy, bố thí như vậy, trí tuệ
như vậy. Sau khi nghe Pháp Luật chân chánh này, Ưu-bà-tư ấy có thể tâm
nguyện tu tập theo như vậy, như vậy... Này A-na-luật-đà, vị Ưu-bà-tư ấy
chắc chắn được phần nào sống trong sự an lạc.
“Này A-na-luật-đà, Như Lai vì những thiện lợi ấy nên khi đệ tử lâm chung
ghi nhận vị này sẽ sanh vào chỗ này, vị kia sẽ sanh vào chỗ kia”.
Phật thuyết như vậy
Tôn giả A-na-luật-đà và các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật thuyết, hoan hỷ
phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 7 |
72
|
73
|
74
|
75
76
|
77
|
78
|
79
|
80
|
81
|
82
|
83
|
84
|
85
|
86
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003