SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 7
PHẨM TRƯỜNG THỌ
VƯƠNG
73. KINH THIÊN[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa tại Chi-đề-sấu, trong rừng Thủy chử.
Bấy giờ Đức Phật bảo
các Tỳ-kheo:
“Thuở xưa, lúc Ta
chưa đắc đạo giác ngộ vô thượng chánh chân, bấy giờ Ta nghĩ rằng: ‘Ta làm
sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc. Như vậy, trí và
kiến của ta sẽ cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và cực kỳ minh tịnh ấy mà
Ta sống cô độc tại một nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần.
Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần
nên chứng đắc ánh sáng, liền thấy sắc. Nhưng Ta chưa cùng với chư Thiên
kia tụ hội, cùng chào hỏi, cùng luận thuyết, cùng đối đáp.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để đắc được ánh sáng. Nhân ánh sáng ấy mà hấy hình sắc và cùng
chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi, cùng luận thuyết, cùng đối đáp. Như
vậy trí và kiến của Ta sẽ cực kỳ minh tịnh. Vì để có trí và kiến cực kỳ
minh tịnh này mà Ta sống tại nơi xa vắng, cô độc, tâm không phóng dật, tu
hành tinh cần. Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật,
tu hành tinh cần nên được ánh sáng, liền thấy hình sắc, cùng chư Thiên kia
tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, nhưng Ta không
biết chư Thiên kia có họ như thế nào, tên như thế nào, sanh như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để được ánh sáng. Nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc và cùng
chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp
và cũng biết chư Thiên kia có họ như vậy, tên như vậy và sanh như vậy. Như
thế, trí và kiến của Ta cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ
minh tịnh này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu
hành tinh cần. Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tu hành tinh cần, liền
thấy được ánh sáng và cùng chư Thiên kia tụ hội, chào hỏi nhau, cùng luận
thuyết, cùng đối đáp và cũng biết được chư Thiên ấy danh tánh như vậy, tên
tự như vậy và sanh như vậy. Nhưng Ta không biết chư Thiên kia ăn như thế
nào, thọ khổ lạc như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc và cùng
chư Thiên tụ hội, chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư
Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh như vậy và cũng biết chư Thiên
ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy. Như thế trí và kiến của Ta sẽ cực kỳ
minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh này mà Ta sống cô độc
tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Nhân sống cô độc
tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần, Ta được ánh sáng,
liền thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận
thuyết, cùng đối đáp, cũng biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy và
sanh như vậy; và cũng biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy.
Nhưng Ta không biết chư Thiên ấy trường thọ như thế nào, tồn tại lâu như
thế nào, mạng tận như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc và cùng
chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết
chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh như vậy, cũng biết chư Thiên
ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy; cũng biết chư Thiên ấy trường thọ như
thế, tồn tại lâu như thế, mạng tận như thế. Như thế trí và kiến của Ta sẽ
cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh này mà Ta sống cô
độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần. Nhân sống cô
độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần, Ta được ánh
sáng, liền thấy hình sắc và cùng chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi nhau,
cùng luận thuyết, cùng đối đáp, cũng biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên
như vậy, sanh như vậy; biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy;
và cũng biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn tại lâu như vậy, mạng
tận như vậy. Nhưng Ta không biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như thế nào, đã
chết nơi này và sanh nơi kia như thế nào.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc và cùng
chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp,
biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh như vậy, biết chư Thiên
ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy,
tồn tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; và cũng biết chư Thiên ấy tạo
nghiệp như vậy, chết nơi này và sanh nơi kia như vậy. Như thế trí và kiến
của Ta sẽ cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí và kiến cực kỳ minh tịnh này mà
Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần.
Nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh cần,
Ta được ánh sáng, liền thấy hình sắc và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng
chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ như
vậy, tên như vậy, sanh như vậy; biết chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc
như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn tại lâu như vậy, mạng
tận như vậy; và cũng biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy, chết nơi này và
sanh nơi kia như vậy. Nhưng Ta không biết chư Thiên ấy ở trong những cõi
trời nào.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc và cùng
chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết
chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh như vậy, biết chư Thiên ấy
ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn
tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy,
chết nơi này và sanh nơi kia như vậy; và cũng biết chư Thiên ở trong các
cõi trời ấy. Như thế trí và kiến của Ta sẽ cực kỳ minh tịnh’. Vì để có trí
và kiến cực kỳ minh tịnh này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không
phóng dật, tu hành tinh cần. Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm
không phóng dật, tu hành tinh cần, nên được ánh sáng, liền thấy hình sắc
và cùng chư Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng
đối đáp, biết chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh như vậy; biết
chư Thiên ấy ăn như vậy, thọ khổ lạc như
vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn tại lâu như vậy, mạng tận
như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy, chết nơi này và sanh nơi
kia như vậy; và cũng biết chư Thiên ở trong những cõi trời ấy. Nhưng Ta
không biết Ta đã từng sanh vào cõi đó hay chưa từng sanh vào cõi đó.
“Ta lại nghĩ rằng:
‘Ta làm sao để được ánh sáng, nhân ánh sáng ấy mà thấy hình sắc và cùng
chư Thiên tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết
chư Thiên ấy có họ như vậy, tự như vậy, sanh như vậy, biết chư Thiên ấy ăn
như vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn
tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy,
chết nơi này và sanh nơi kia như vậy; biết chư Thiên ở trong các cõi trời
ấy; và cũng biết ở cõi trời ấy Ta đã từng sanh vào hay chưa từng sanh vào.
Như thế trí và kiến của Ta sẽ cực kỳ minh tịnh”. Vì để có trí và kiến cực
kỳ minh tịnh này mà Ta sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng dật,
tu hành tinh cần. Ta nhân sống cô độc tại nơi xa vắng, tâm không phóng
dật, tu hành tinh cần, nên được ánh sáng, liền thấy hình sắc và cùng chư
Thiên kia tụ hội, cùng chào hỏi nhau, cùng luận thuyết, cùng đối đáp, biết
chư Thiên ấy có họ như vậy, tên như vậy, sanh như vậy; biết chư Thiên ấy
ăn như vậy, thọ khổ lạc như vậy; biết chư Thiên ấy trường thọ như vậy, tồn
tại lâu như vậy, mạng tận như vậy; biết chư Thiên ấy tạo nghiệp như vậy,
đã chết nơi này và sanh nơi kia như vậy; biết chư Thiên ở trong những cõi
trời ấy; và cũng biết ở cõi trời ấy Ta đã từng sanh vào.
“Nếu Ta không biết
một cách chân chánh tám hành
này thì không thể nói được một cách xác định, cũng không biết Ta đắc đạo
giác ngộ vô thượng chánh chân; đối với chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm
chí ở thế gian này Ta không thể siêu việt lên trên; Ta cũng không đắc giải
thoát với những sự giải thoát sai biệt. Ta cũng chưa lìa các đảo điên,
chưa biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm
đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Nếu Ta biết được
một cách chân chánh tám hành này thì mới có thể nói được một cách xác
định, cũng biết rằng Ta đã đắc đạo giác ngộ vô thượng chánh chân, đối với
chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, Ta siêu việt lên trên. Ta cũng
chứng đắc giải thoát với những sự giải thoát sai biệt; tâm Ta đã xa lìa
các điên đảo, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.”
Phật thuyết như vậy.
Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 7 |
72
|
73
|
74
|
75
76
|
77
|
78
|
79
|
80
|
81
|
82
|
83
|
84
|
85
|
86
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003