So sánh kinh Trung A-hàm
chữ Hán và
kinh Trung Bộ chữ Pàli
Nguyên tác: Bhiksu Thich Minh Chau (1961),
"A Comparative Study of the Chinese Madhyama Agama
and the Pali Majjhima Nikaya",
Ph.D. Thesis, Bihar University, India
---o0o---
Phần
Ba
NC1
C
100
:
Tưởng
kinh
P
1:
Kinh
Căn
bản
pháp
môn
A.
Cốt
tủy
kinh
C
C:
Đức
Phật
kể
ra
những
thái
độ
khác
nhau
của
các
hạng
người
đối
với
các
pháp,
nguyên
nhân
quyết
định
những
thái
độ
này,
và
trình
độ
giải
thoát
do
những
thái
độ
này
đem
lại.
P:
Gần
giống.
B.
Nhan
đề
C:
Tưởng
kinh:
Bàn
về
nhận
thức,
ám
chỉ
thái
độ
của
những
hạng
người
khác
nhau
đối
với
các
pháp.
P:
Mùlapariyàyasuttam,
Căn
bản
pháp
môn:
Bàn
về
các
pháp
căn
bản,
ám
chỉ
phương
pháp
căn
bản
để
tiếp
cận
các
pháp.
C.
Nơi
thuyết
kinh
C:
Xá
Vệ,
Thắng
Lâm,
Cấp-cô-độc
Viên.
P:
Ukkatthà,
Subhagavana,
dưới
gốc
một
cây
Sà
la
vương.
Nhận
xét:
Ukkatthà
là
một
thành
phố
ở
Kosala
gần
dãy
núi
Tuyết,
được
quốc
vương
xứ
Kosala
phong
ấp
cho
Bà-la-môn
Pokkarasàti
để
thưởng
tài
năng
của
ông
ta
trước
đấy.
(D.P.P.N.,i,p.319)
Subhagavana
là
một
khu
rừng
ở
Ukkatthà,
được
gọi
như
vậy
vì
vẻ
đẹp
của
nó.
(D.P.P.N.,ii,p.
1230)
Bản
C
dịch
danh
từ
viharati
là
"du
hành",
trong
kinh
này
cũng
như
các
kinh
khác,
bản
P
sử
dụng
từ
này
trong
ý
nghĩa
nguyên
thủy
là
trú,
ở.
D.
Nội
dung
kinh
I.
Các
hoàn
cảnh
đưa
đến
sự
thuyết
kinh:
C:
Đức
Phật
nói
kinh
này
không
có
một
dẫn
nhập
nào
cả.
P:
Đức
Phật
gọi
các
Tỳ-kheo,
tuyên
bố
ý
định
của
Ngài
là
giảng
pháp
môn
Tất
cả
pháp,
bảo
các
Tỳ-kheo
hãy
chú
ý
lắng
nghe,
và
các
Tỳ-kheo
vâng
đáp
đức
Thế
Tôn.
Rồi
đức
Phật
thuyết
kinh.
II.
Thái
độ
của
các
Sa-môn,
Bà-la-môn
còn
vô
minh:
C:
Có
những
Sa-môn,
Bà-la-môn
tưởng
tri
địa
đại
là
địa
đại,
rằng
địa
đại
là
ngã,
thuộc
về
ngã,
ngã
thuộc
về
địa
đại.
Khi
họ
có
quan
điểm
rằng
địa
đại
là
ngã,
thì
như
vậy
họ
không
biết
rõ
địa
đại.
Cũng
vậy
đối
với
thủy,
hỏa,
phong
đại,
phi
nhân,
chư
thiên,
Sanh
chủ,
Phạm
thiên,
Vô
phiền
thiên,
Vô
nhiệt
thiên,
sự
thanh
tịnh,
Không
vô
biên
xứ,
Thức
vô
biên
xứ,
Vô
sở
hữu
xứ,
Phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ,
đồng
nhất,
dị
biệt,
đa
dạng,
sở
kiến,
sở
văn,
sở
giác,
sở
tư
niệm,
sở
đắc,
sở
quán,
niệm,
ý
tưởng,
từ
thế
giới
này
đến
thế
giới
khác,
từ
thế
giới
khác
đến
thế
giới
này,
tất
cả.
Đối
với
tất
cả,
họ
có
tưởng
về
tất
cả,
lầm
tất
cả
là
ngã,
tất
cả
thuộc
về
ngã,
ngã
thuộc
về
tất
cả.
Khi
họ
có
quan
điểm
rằng
tất
cả
là
ngã,
thì
như
vậy
họ
không
biết
rõ
tất
cả.
P:
Không
giống
hẳn.
Trong
khi
bản
C
chỉ
nói
đến
Sa-môn
và
Bà-la-môn
nói
chung,
bản
P
lại
nói
đến
phàm
phu
ngu
si,
bất
kể
các
bậc
thánh
và
bậc
chân
nhân,
không
học,
không
tu
tập
pháp
các
bậc
thánh,
pháp
các
bậc
chân
nhân.
C:
Người
tưởng
tri
địa
đại
là
địa
đại,
địa
đại
là
ngã,
địa
đại
thuộc
về
ngã,
ngã
thuộc
về
địa
đại=P:
vị
ấy
tưởng
tri
địa
đại
là
địa
đại,
sau
khi
tưởng
tri
địa
đại
là
địa
đại,
vị
ấy
nghĩ
đến
địa
đại,
nghĩ
đến
tự
ngã
trong
địa
đại,
vị
ấy
nghĩ
đến
địa
đại
ở
trong
ngã,
hay
ngã
ở
trong
địa
đại.
Vị
ấy
nghĩ
địa
đại
là
của
tôi.
Vị
ấy
hoan
hỷ
trong
địa
đại.
C:
Khi
vị
ấy
có
quan
điểm
rằng
địa
đại
là
ngã,
thì
vị
ấy
không
biết
rõ
địa
đại
=
P:
Tại
sao?
Ta
nói
vị
ấy
không
liễu
tri
địa
đại.
Trong
khi
bản
C
kể
đến
29
pháp,
bản
P
chỉ
kể
24
pháp
theo
thứ
tự
sau:
địa,
thủy,
hỏa,
phong,
chúng
sinh,
chư
thiên,
Sanh
chủ,
Phạm
thiên,
Quan
âm
thiên,
Biến
tịnh
thiên,
Quảng
quả
thiên,
thắng
giả,
Không
vô
biên
xứ,
Thức
vô
biên
xứ,
Vô
sở
hữu
xứ,
Phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ,
sở
kiến,
sở
văn,
sở
giác,
sở
tri
(cái
được
thấy,
được
nghe,
được
cảm
giác,
được
nhận
thức),
đồng
nhất,
sai
biệt,
tất
cả,
Niết-bàn...
11
pháp
không
có
trong
bản
P
là:
phi
nhân,
Vô
phiền
thiên,
Vô
nhiệt
thiên,
thanh
tịnh,
nhiều,
sở
đắc,
sở
quán,
niệm,
ý
tưởng,
từ
thế
giới
này
đến
thế
giới
kia,
từ
thế
giới
kia
đến
thế
giới
này.
Sáu
pháp
không
có
trong
C:
chúng
sinh,
Quan
âm
thiên,
Biến
tịnh
thiên,
Quảng
quả
thiên,
thắng
giả,
Niết-bàn.
Nhận
xét:
bản
C
bỏ
danh
từ
Niết-bàn,
được
giải
thích
trong
Papancàsudàni
là
sự
hưởng
thụ
năm
dục
lạc,
đây
là
lối
giải
thích
của
nhà
duy
vật
xem
sự
hưởng
dục
ngay
trong
đời
này
chính
là
Niết-bàn.
III.
Thái
độ
của
các
Sa-môn,
Bà-la-môn
có
trí:
C:
Đoạn
này
chỉ
là
ngược
lại
với
thái
độ
các
Sa-môn
Bà-la-môn
ngu
si,
với
những
thay
đổi
thích
hợp.
P:
Không
giống
hẳn.
Ở
đây
bản
P
nói
đến
một
bậc
hữu
học,
đa
văn,
chưa
đạt
đến
toàn
giác,
đang
còn
nỗ
lực
đạt
đến
vô
thượng
an
ổn
thoát
khỏi
trói
buộc.
Vị
ấy
biết
địa
đại
là
địa
đại,
và
không
nhận
thức
nó
như
phàm
phu
ngu
si.
Vị
ấy
cố
không
nghĩ
đến
địa
đại
là
của
tôi,
không
hoan
hỷ
trong
địa
đại.
Lý
do
của
thái
độ
này
là
với
vị
ấy,
bản
chất
chân
thực
của
đối
tượng
có
thể
biết
được
(parinneyyam
tassàti).
Ở
đây
bản
P
thêm
thái
độ
của
bậc
vô
học,
bậc
A-la-hán,
người
đã
phá
hủy
các
lậu
hoặc,
đã
sống
đời
phạm
hạnh,
đã
làm
những
việc
cần
làm,
đã
đặt
gánh
nặng
xuống,
đã
đạt
đến
mục
đích,
đã
tận
trừ
hữu
kiết
sử,
đã
giải
thoát
nhờ
thắng
trí.
Vị
ấy
đã
đạt
đến
sự
không
nghĩ
đến
địa
đại,
không
cho
địa
đại
là
của
tôi,
không
hoan
hỷ
trong
địa
đại.
Lý
do
của
thái
độ
này
là
vị
ấy
đã
liễu
tri
địa
đại,
đã
từ
bỏ
tham,
sân,
si.
IV.
Thái
độ
của
Như
lai:
C:
Gần
giống
như
trường
hợp
các
Sa-môn,
Bà-la-môn
có
trí,
thay
chữ
Sa-môn,
Bà-la-môn
bằng
Phật.
P:
Ở
đây
bản
P
nói
đến
Như
lai,
bậc
A-la-hán,
Chánh
đẳng
giác.
Vị
ấy
đã
đạt
đến
sự
không
tưởng
tri
địa
đại,
không
cho
địa
đại
là
của
tôi,
không
hoan
hỷ
trong
địa
đại.
Lý
do
của
thái
độ
này
là
vị
ấy
đã
hoàn
toàn
liễu
tri.
Vị
ấy
biết
rằng
hoan
hỷ
là
nguồn
gốc
của
đau
khổ;
từ
hữu,
sanh
khởi
lên,
và
có
già
chết
đến
với
hữu
tình.
Đức
Như
lai
nhờ
đoạn
tận
tất
cả
khát
ái,
nhờ
không
chấp
thủ,
nhờ
đã
chấm
dứt,
đã
từ
bỏ,
hoàn
toàn
từ
bỏ,
nên
đã
đạt
đến
Vô
thượng
bồ
đề.
Nhận
xét:
Ở
đây
bản
P
đưa
ra
một
định
nghĩa
rõ
ràng
về
các
hạng
người
khác
nhau
với
những
thái
độ
khác
nhau
của
họ,
và
lý
do
họ
làm
như
vậy,
trong
khi
bản
C
thì
hơi
quá
đơn
giản.
Bản
P
nói
đến
sự
phân
biệt
giữa
hai
hạng
người
cuối
cùng,
giữa
Tỳ-kheo
là
bậc
A-la-hán
với
tất
cả
đặc
tính
của
quả
vị
này
và
Như
lai,
cũng
là
một
A-la-hán,
nhưng
còn
là
Sammàsambuddho,
Chánh
đẳng
giác.
Ở
đây
bản
C
dịch
danh
từ
Àtman
là
thần
hồn.
E.
Kết
luận
C:
Đức
Phật
nói
như
vậy.
Các
Tỳ-kheo
sau
khi
nghe
lời
Phật,
hoan
hỷ
phụng
hành.
P:
Đức
Phật
nói
như
vậy.
Các
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
về
lời
dạy
của
đức
Thế
Tôn.
Nhận
xét:
theo
truyền
thống
Tích
Lan
và
bản
kinh
Tích
Lan,
các
Tỳ-kheo
không
hoan
hỷ
với
kinh
này.
"Na
te
bhikkhù
Bhagavato
bhàsitam
abhinandunti."
Bản
in
trong
kỳ
kết
tập
thứ
sáu
tại
Miến
Điện
cũng
theo
truyền
thống
của
Tích
Lan.
NC
2
C
10:
Lậu
tận
kinh
P
2:
Kinh
Tất
cả
lậu
hoặc
A.
Cốt
tủy
kinh
C
Phật
nhấn
mạnh
tầm
quan
trọng
của
tri
kiến
và
sự
tư
duy
chân
chính
đưa
đến
tận
trừ
lậu
hoặc,
và
nhấn
mạnh
những
nguy
hiểm
của
tà
tư
duy
nuôi
dưỡng
và
tăng
trưởng
lậu
hoặc.
Rồi
Ngài
nêu
lên
bảy
cách
tận
trừ
lậu
hoặc.
B.
Nhan
đề
C:
Lậu
tận
kinh
:
Bài
kinh
nói
về
sự
dập
tắt
các
lậu
hoặc,
ám
chỉ
sự
chấm
dứt
lậu
hoặc
bằng
bảy
cách.
P:
Sabbàsavasuttam:
Bài
kinh
nói
về
tất
cả
lậu
hoặc,
ám
chỉ
tất
cả
lậu
hoặc
được
đoạn
tận
bằng
bảy
cách.
C.
Địa
điểm
thuyết
kinh
C:
Ở
Câu
Lâu
Sấu
tại
phố
thị
của
người
Câu
Lâu
(Kuru)
gọi
là
Chien-mo-sê-t'san.
P:
Tại
Xá
Vệ,
Kỳ
thọ
Cấp-cô-độc
viên.
Ghi
chú:
Kuru
là
một
trong
16
thị
trấn
lớn.
Cư
dân
ở
đây
nổi
tiếng
là
có
trí
tuệ
sâu
sắc
và
phần
lớn
những
kinh
sâu
xa
đều
được
Phật
thuyết
tại
đây.
Kammassadamma
là
một
làng
của
dân
Kuru,
nơi
thỉnh
thoảng
Phật
đến
cư
trú.
D.
Nội
dung
kinh
I.
Hoàn
cảnh
đưa
đến
sự
thuyết
kinh:
C:
Phật
thuyết
kinh
này
không
có
dẫn
nhập:
P:
Phật
gọi
các
Tỳ-kheo,
báo
cho
biết
ý
định
Ngài
muốn
thuyết
kinh
Tất
cả
lậu
hoặc,
bảo
họ
hãy
chú
ý.
Các
Tỳ-kheo
vâng
đáp
và
Phật
giảng
kinh.
II.
Tri
kiến
đưa
đến
sự
đoạn
tận
lậu
hoặc:
C:
Nhờ
tri
kiến
mà
lậu
hoặc
được
dập
tắt.
Làm
thế
nào
nhờ
tri
kiến
mà
lậu
hoặc
được
dập
tắt
chứ
không
phải
không
tri
kiến,
không
lý
do?
Có
sự
suy
xét
chân
chính,
và
suy
xét
sai
lầm.
Do
suy
xét
sai
lầm,
những
dục
lậu
chưa
sinh
phát
sinh,
lậu
hoặc
đã
sinh
tăng
trưởng;
hữu
lậu
chưa
sinh
phát
sinh,
vô
minh
lậu
chưa
sinh
cũng
phát
sinh.
Nhờ
suy
xét
đúng,
mà
dục
lậu
chưa
sinh
không
sinh,
dục
lậu
đã
sinh
biến
mất;
hữu
lậu,
vô
minh
lậu
chưa
sinh
không
sinh,
hữu
lậu,
vô
minh
lậu
đã
sinh
biến
mất.
P:
Gần
giống.
C:
nhờ
tri
kiến=P:
jànato
passato.
C:
suy
xét
chân
chính,
suy
xét
sai
lầm=
như
lý
tác
ý,
phi
như
lý
tác
ý.
Bản
P
chỉ
nói
àsavà
(lậu
hoặc)
nói
chung.
III.
Thái
độ
của
vô
văn
phàm
phu
và
thánh
đệ
tử
đa
văn:
C:
Những
kẻ
phàm
phu
ngu
si
không
thể
nghe
chánh
pháp,
không
thể
gặp
bậc
thực
sự
đa
văn,
không
biết
diệu
pháp,
không
am
hiểu
diệu
pháp,
không
như
thật
biết
về
pháp.
Do
suy
nghĩ
sai
lầm,
những
dục
lậu
chưa
sinh
phát
sinh
...
(như
trên,
cho
đến)
những
lậu
hoặc
đã
sinh
biến
mất.
Vì
vị
ấy
không
như
thật
biết
pháp,
vị
ấy
tư
duy
các
pháp
không
đáng
tư
duy,
vị
ấy
không
tư
duy
các
pháp
đáng
tư
duy.
Vì
vị
ấy
tư
duy
các
pháp
không
đáng
tư
duy,
và
không
tư
duy
các
pháp
đáng
tư
duy,
nên
dục
lậu
chưa
sinh
phát
sinh,
lậu
hoặc
đã
sinh
tăng
trưởng;
các
hữu
lậu,
vô
minh
lậu
chưa
sinh
phát
sinh,
các
lậu
hoặc
đã
sinh
tăng
trưởng.
Thánh
đệ
tử
đa
văn
có
thể
nghe
chánh
pháp,
có
thể
gặp
gỡ
những
người
thực
sự
đa
văn
(ngược
lại
với
trường
hợp
vô
văn
phàm
phu).
P:
(Bản
P
để
đoạn
này
trong
phần
nói
về
lậu
hoặc
cần
phải
đoạn
trừ
bằng
kiến).
Ở
đây
phàm
phu
vô
văn
được
mô
tả
là
không
kể
gì
đến
bậc
thánh
và
bậc
chân
nhân,
vì
không
am
hiểu,
không
tu
tập
pháp
các
bậc
thánh
và
bậc
chân
nhân.
Nó
bỏ:
"với
suy
nghĩ
sai
lầm...
những
lậu
hoặc
đã
sinh
biến
mất".
Bản
P
nói
rằng
phàm
phu
này
không
biết
pháp
nào
nên
tác
ý
và
pháp
nào
không
nên
tác
ý.
Những
pháp
không
nên
tác
ý
là
những
pháp
mà
khi
tác
ý
thì
dục
lậu,
hữu
lậu,
vô
minh
lậu
chưa
sinh
sẽ
sinh,
những
lậu
hoặc
đã
sinh
sẽ
tăng
trưởng.
Những
pháp
đáng
tác
ý
là
những
pháp
nào
khi
tác
ý
đến,
thì
dục
lậu,
hữu
lậu,
vô
minh
lậu
chưa
sinh
sẽ
không
sinh,
đã
sinh
sẽ
biến
mất.
Vì
phàm
phu
này
tác
ý
các
pháp
không
đáng
tác
ý,
cho
nên
các
lậu
hoặc
chưa
sinh
sinh
khởi,
các
lậu
hoặc
đã
sinh
tăng
trưởng.
Trường
hợp
bậc
thánh
đệ
tử
đa
văn
thì
trái
lại.
IV.
Bảy
cách
để
đoạn
trừ
lậu
hoặc:
C:
Có
bảy
cách
đoạn
trừ
lậu
hoặc,
khổ,
bực
mình,
sầu,
não.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
tri
kiến.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
phòng
hộ.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
tránh
né.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
sử
dụng.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
kham
nhẫn.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
trừ
diệt.
Có
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
suy
tư.
P:
Gần
giống.
Thứ
tự
trong
bản
P
như
sau:
1.
Tri
kiến,
2.
Phòng
hộ,
3.
Sử
dụng,
4.
Kham
nhẫn,
5.
Tránh
né,
6.
Đoạn
trừ
7.
Tu
tập.
Nhận
xét:
Thứ
tự
trong
P
đúng
hơn
vì
nó
đặt
"sử
dụng"
gần
với
kham
nhẫn
và
"tránh
né"
gần
với
trừ
khử.
Trong
phương
pháp
thứ
bảy,
bản
C
dùng
danh
từ
tư
duy,
P
dùng
danh
từ
Bhàvanà
có
hai
nghĩa,
tư
duy
và
thiền
định.
V.
Lậu
hoặc
cần
đoạn
trừ
bằng
tri
kiến:
P:
Dassana:
C:
Thế
nào
là
lậu
hoặc
cần
đoạn
trừ
bằng
tri
kiến?
Kẻ
vô
văn
phàm
phu
không
thể
nghe
chánh
pháp...
không
chân
thật
biết
pháp,
vì
nó
tác
ý
sai,
nó
nghĩ:
"Ta
đã
có
đời
quá
khứ;
ta
không
có
đời
quá
khứ;
do
nguyên
nhân
gì
ta
có
đời
quá
khứ,
đời
quá
khứ
của
ta
ra
sao?
Ta
sẽ
có
đời
tương
lai;
ta
sẽ
không
có
đời
tương
lai?
Nó
hoài
nghi
về
tự
thân,
là
gì,
như
thế
nào?
Các
hữu
tình
này
đến
đây
từ
bao
giờ
và
sẽ
đi
về
đâu?
Do
nguyên
nhân
nào
chúng
đã
có
mặt
trong
quá
khứ?
Do
nguyên
nhân
nào
chúng
sẽ
có
mặt
trong
tương
lai?"
Sau
khi
làm
những
tư
duy
sai
lầm
như
vậy
đối
với
sáu
kiến
chấp
ấy;
theo
bất
cứ
quan
điểm
nào
trong
đó,
kiến
chấp
khởi
lên
rằng
thật
có
một
cái
ngã
(soul);
sự
khởi
lên
kiến
chấp
này
nảy
sinh
ra
kiến
chấp
rằng
thực
sự
không
có
ngã;
sự
khởi
lên
kiến
chấp
này
sinh
ra
kiến
chấp
rằng
ngã
thấy
ngã;
sự
khởi
lên
kiến
chấp
này
sinh
ra
kiến
chấp
rằng
ngã
thấy
phi
ngã;
sự
khởi
lên
kiến
chấp
này
sinh
ra
kiến
chấp
phi
ngã
thấy
ngã;
sự
khởi
lên
kiến
chấp
này
sinh
ra
kiến
chấp
rằng
cái
ngã
này
có
thể
nói,
hiểu,
hành
động,
khiến
hành
động,
có
thể
giảng
dạy,
khiến
giảng
dạy;
(bản
C
hơi
nhầm
lẫn,
đáng
lẽ
là:
năng
tác,
tác
khởi,
năng
giáo,
giáo
khởi);
tái
sinh
chỗ
này
chỗ
kia,
thọ
các
quả
báo
thiện
ác,
chắc
chắn
nó
không
từ
đâu
lại,
chắc
chắn
nó
không
hiện
hữu,
chắc
chắn
nó
sẽ
không
hiện
hữu.
Đây
gọi
là
tấm
màn
kiến
chấp,
kiến
tranh
luận,
kiến
trói
buộc.
Kẻ
phàm
phu
ngu
si
vì
lý
do
này
phải
chịu
sinh,
già,
bệnh,
chết.
Bậc
thánh
đệ
tử
có
thể
nghe
chánh
pháp,
có
thể
gặp
những
người
thực
sự
đa
văn;
vị
ấy
như
thật
biết
chánh
pháp,
như
thật
biết
khổ,
biết
nguyên
nhân
của
khổ,
biết
sự
chấm
dứt
của
khổ,
biết
con
đường
đưa
đến
sự
chấm
dứt
khổ.
Sau
khi
biết
như
vậy
phù
hợp
với
chân
lý,
ba
kiết
sử
được
đoạn
tận.
Ba
kiết
sử
thân
kiến,
giới
cấm
thủ
và
nghi
khi
đã
đoạn
tận,
vị
ấy
đắc
Dự
lưu,
không
còn
rơi
vào
ác
pháp
và
chắc
chắn
sẽ
tiến
đến
giác
ngộ
chân
chính.
Cùng
lắm
là
sau
bảy
lần
tái
sinh
tại
các
cõi
trời
và
cõi
người,
vị
ấy
sẽ
đạt
đến
chấm
dứt
khổ.
Nếu
vị
ấy
không
biết
tri
kiến
chân
chính,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
sinh
khởi.
Nếu
vị
ấy
biết
tri
kiến
chân
chính,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
không
sinh
khởi.
Đây
gọi
là
lậu
hoặc
đoạn
trừ
bằng
tri
kiến.
P:
(Bản
P
để
đoạn
nói
về
thái
độ
phàm
phu
và
thánh
đệ
tử
vào
phần
này).
Gần
giống.
Về
cách
suy
nghĩ
của
phàm
phu
ngu
si,
về
quá
khứ
và
vị
lai
cũng
giống
như
C.
Về
hiện
tại,
C:
Vị
ấy
hoài
nghi
thân
của
ta
là
gì,
nó
ra
sao=P:
Hiện
tại
ta
hiện
hữu
hay
không
hiện
hữu?
Ta
là
gì
trong
hiện
tại?
Ta
là
thế
nào?
Bản
P
bỏ:
"Do
nguyên
nhân
gì
từ
trước
hữu
tình
sinh
ra?
Do
nguyên
nhân
gì
tương
lai
chúng
sẽ
không
sinh?"
Sáu
kiến
chấp
khởi
lên
do
tà
tư
duy
cũng
gần
giống
nhau.
Kiến
chấp
thứ
nhất:
C:
kiến
chấp
khởi
lên
rằng
thật
có
một
bản
ngã=P:
kiến
chấp
khởi
lên
như
thật
như
chân:
"ta
có
một
bản
ngã".
Kiến
chấp
thứ
hai:
Cũng
nhận
xét
như
trên.
Kiến
chấp
thứ
ba:
C:
kiến
chấp
khởi
lên
rằng,
ngã
thấy
ngã=P:
bản
P
dùng
danh
từ
tưởng
tri
thay
cho
thấy,
và
dùng
tự
ngã
thay
cho
ngã.
Kiến
chấp
thứ
tư
và
năm:
Cũng
nhận
xét
như
trên.
Kiến
chấp
thứ
sáu:
C:
Chính
tự
ngã
này
có
thể
nói,
hiểu,
hành
động,
khiến
hành
động,
có
thể
giảng
dạy
và
khiến
giảng
dạy;
sinh
chỗ
này
chỗ
kia,
thọ
quả
báo
thiện
ác;
chắc
chắn
nó
không
từ
đâu
đến,
chắc
chắn
nó
không
hiện
hữu,
chắc
chắn
nó
sẽ
không
hiện
hữu=
P:
Chính
tự
ngã
này
là
người
nói,
người
kinh
nghiệm,
người
hưởng
thụ
quả
báo
các
hành
vi
thiện
ác
chỗ
này
chỗ
kia.
Tự
ngã
này
của
tôi
trường
cửu,
chắc
chắn,
thường
hằng,
không
biến
đổi,
bất
diệt.
C:
Đây
gọi
là
màn
kiến
chấp,
kiến
trù
lâm,
kiến
trói
buộc=P:
ditthigatam,
ditthigahànam,
ditthikantàram,
ditthivisùkam,
ditthi-vipphanditam,
ditthisamyojanam
(
đi
đến
tà
kiến,
rừng
tà
kiến,
kiến
hoang
vu,
kiến
tranh
chấp,
kiến
đấu
tranh,
kiến
kiết
sử).
Về
thái
độ
của
thánh
đệ
tử
đa
văn,
bản
P
đưa
vào
đây
toàn
thể
đoạn
ở
trong
phần
ba
đã
thấy
ở
trên.
Nó
cũng
nói
tri
kiến
về
bốn
chân
lý
phù
hợp
với
chánh
tư
duy
và
sự
đoạn
tận
ba
kiết
sử:
thân
kiến,
nghi
và
giới
cấm
thủ
(không
trùng
thứ
tự
như
bản
C).
Nó
bỏ
sự
chứng
đắc
Dự
lưu
đạo
và
sự
diệt
tận
đau
khổ,
sầu,
khổ,
ưu,
não.
VI.
Lậu
hoặc
cần
đoạn
trừ
bằng
phòng
hộ:
P
:
Samvara:
C:
Vị
Tỳ-kheo
khi
thấy
sắc
pháp,
phòng
hộ
nhãn
căn.
Với
sự
suy
xét
chân
chính,
vị
ấy
quán
chúng
là
bất
tịnh.
Vị
ấy
không
hộ
trì
nhãn
căn
khi
do
suy
nghĩ
sai
lầm,
xem
chúng
là
sạch
sẽ.
Khi
không
có
sự
phòng
hộ,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
sẽ
sinh
khởi;
khi
có
sự
phòng
hộ,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
không
sinh.
Cũng
vậy
với
tai,
mũi,
lưỡi,
thân,
ý
khi
nhận
thức
các
đối
tượng.
Vị
ấy
phòng
hộ
ý
căn.
Với
tư
duy
chân
chính,
vị
ấy
quán
chúng
là
bất
tịnh;
vị
ấy
không
phòng
hộ
ý
căn
nếu
do
tà
tư
duy,
quán
chúng
là
thanh
tịnh.
Khi
không
có
sự
phòng
hộ
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
phát
sinh;
khi
có
sự
phòng
hộ
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
không
sinh.
P:
Không
giống
hẳn.
Ở
đây
bản
P
nói,
vị
Tỳ-kheo
như
lý
tác
ý,
sống
phòng
hộ
với
sự
phòng
hộ
nhãn
căn.
Nếu
vị
ấy
sống
không
phòng
hộ
với
sự
phòng
hộ
nhãn
căn,
thì
những
lậu
hoặc
tàn
hại
và
nhiệt
não
sẽ
sinh
khởi;
nếu
vị
ấy
sống
phòng
hộ
với
sự
phòng
hộ
nhãn
căn,
thì
những
lậu
hoặc
tàn
hại,
nhiệt
não
sẽ
không
sinh.
Cũng
vậy
với
các
căn
khác.
Phần
còn
lại
không
có.
VII.
Lậu
hoặc
cần
được
diệt
trừ
bằng
tránh
né:
P:
Parivajjana:
C:
Khi
vị
Tỳ-kheo
trông
thấy
voi
dữ,
vị
ấy
nên
tránh
nó,
ngựa
dữ,
bò
dữ,
chó
dữ,
rắn
độc,
con
đường
nguy
hiểm,
hào,
hố,
hầm
phân
có
đậy
nắp,
con
sông,
ao
sâu,
hố
thẳm,
người
có
học
nhưng
xấu
xa,
bạn
xấu,
ngoại
đạo
xấu
xa,
láng
giềng
xấu,
chỗ
ở
xấu
(vị
ấy
nên
tránh
chúng).
Khi
sống
chung
với
những
du
sĩ,
Bà-la-môn,
nếu
những
người
chưa
nghi
ngờ
sẽ
nghi
ngờ,
thì
Tỳ-kheo
nên
tránh
những
trú
xứ
xấu
xa.
Tại
những
nơi
này,
nếu
người
không
nghi
ngờ
sẽ
nghi
ngờ
thì
tất
cả
những
nơi
này
cần
phải
được
tránh
né.
Nếu
không
có
sự
tránh
né,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu
sẽ
sinh
khởi.
Nếu
có
sự
tránh
né,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu,
sẽ
không
sinh.
Đây
gọi
là
là
lậu
hoặc
được
đoạn
trừ
bằng
tránh
né.
P:
Trong
số
những
thú
vật
và
nơi
chốn
cần
tránh
né,
bản
P
bỏ:
đường
xấu,
hố
phân
có
đậy
nắp,
sông,
ao
sâu,
nhưng
thêm:
những
gốc
cây,
những
bờ
có
gai,
hố
rác.
Bản
C:
"Khi
sống
chung...
tất
cả
những
người
này
cần
được
tránh
né
hoàn
toàn",
bản
P
nói:
"Bất
cứ
chỗ
nào
vị
ấy
ngồi,
bất
cứ
nơi
nào
vị
ấy
đi
đến,
bất
cứ
người
bạn
xấu
nào
vị
ấy
liên
hệ,
nếu
do
làm
như
vậy
mà
các
vị
đồng
phạm
hạnh
có
trí
sẽ
nghi
ngờ
vị
ấy
có
tính
đồi
trụy
(có
tội
:
pàpakesu
thànesu
okappeyyum),
thì
vị
Tỳ-kheo
như
lý
tác
ý,
nên
tránh
những
nơi
chốn
và
những
người
này."
Phần
còn
lại
cũng
có
nhận
xét
như
ở
đoạn
trên.
VIII.
Lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
nhờ
thọ
dụng:
P:
Patisevana:
C:
Thế
nào
là
lậu
hoặc
được
đoạn
trừ
bằng
sử
dụng?
Nếu
một
Tỳ-kheo
sử
dụng
một
y
phục
không
phải
vì
lợi
lộc,
vì
kiêu
mạn,
không
phải
để
trang
sức,
nhưng
chỉ
để
che
thân
khỏi
muỗi
mòng,
gió,
mưa,
lạnh,
nóng,
để
che
đậy
sự
hổ
thẹn.
Khi
sử
dụng
đồ
ăn
uống,
không
phải
vì
lợi
lộc,
vì
kiêu
mạn,
không
phải
vì
lạc
thú
mập
phì,
mà
chỉ
vì
muốn
duy
trì
cơ
thể
được
lâu
dài,
muốn
trừ
khử
sầu,
não,
khổ,
ưu
để
duy
trì
đời
sống
phạm
hạnh,
để
xua
đuổi
bịnh
cũ
và
đề
phòng
bịnh
mới,
để
sống
lâu,
để
bảo
dưỡng,
không
bệnh.
Khi
vị
ấy
sử
dụng
trú
xứ,
phòng,
nhà,
giường,
nệm,
đồ
nằm,
thì
không
phải
vì
lợi
lộc,
kiêu
mạn,
trang
sức,
mà
chỉ
vì
để
chấm
dứt
sự
mệt
nhọc
do
ngồi
thiền.
Khi
vị
ấy
sử
dụng
dược
phẩm
trị
bệnh,
không
phải
vì
lợi
lộc,
vì
kiêu
mạn,
không
vì
lạc
thú
mập
phì,
mà
chỉ
vì
để
diệt
trừ
ưu
não
do
bệnh
gây
ra,
để
duy
trì
sự
sống,
để
sống
được
an
ổn
không
bệnh.
Nếu
không
sử
dụng,
thì
sầu,
khổ...
không
sanh
khởi,
đây
gọi
là
lậu
hoặc
được
đoạn
trừ
nhờ
thọ
dụng.
P:
Không
giống
hẳn.
Về
sự
sử
dụng
y
phục,
bản
P
thêm:
"như
lý
tác
ý"
cho
thái
độ
vị
Tỳ-kheo,
và
thêm
sirimsapa
vào
danh
sách
muỗi
mòng.
Nó
bỏ:
không
vì
lợi
lộc,
kiêu
mạn,
trang
sức.
Về
sử
dụng
đồ
ăn
uống,
C:
ăn
và
uống=P:
đồ
ăn
khất
thực.
Ở
đây
bản
P
nói
Tỳ-kheo
sử
dụng
đồ
ăn
khất
thực
không
để
vui
đùa,
davà,
không
để
say
mê,
madà,
không
phải
để
trang
hoàng,
không
để
làm
đẹp
mình,
mà
để
duy
trì
sự
sống,
giữ
cho
nó
khỏi
bị
hại,
để
duy
trì
đời
sống
phạm
hạnh,
để
phá
hủy
cảm
thọ
cũ,
đề
phòng
cảm
thọ
mới,
để
sống
không
lỗi,
an
ổn
và
thoải
mái.
Về
sử
dụng
trú
xứ,
bản
P
chỉ
nói
sàng
tọa.
Nó
bỏ:
"không
vì..."
và
nói
để
che
khỏi
lạnh,
nóng,
ruồi,
muỗi,
gió,
mặt
trời,
bò
sát,
để
tránh
sự
khắc
nghiệt
của
thời
tiết,
để
hưởng
sự
độc
cư.
Về
sử
dụng
dược
phẩm,
bản
P
nói
dược
phẩm
trị
bệnh.
Nó
bỏ:
"không
vì...",
nhưng
nói
để
diệt
trừ
các
cảm
thọ
khởi
lên
gây
đau
đớn,
để
được
sự
an
lạc
tối
đa.
Nhận
xét:
Từ
sirimsapa
ở
vị
trí
này
hơi
lạ,
vì
đáng
lẽ
nó
được
đặt
gần
các
từ
damsa,
makasa.
Kinh
Uttaradhyayanasùtra
kể
theo
thứ
tự:
vàta,
àtapa,
damsa,
masaka,
sirimsapa.
Truyền
thống
bản
P
chỉ
kể
nhu
yếu
tích
cực
của
y
phục,
không
nói
đến
những
cách
sử
dụng
sai.
Trong
bản
C,
danh
từ
kiêu
mạn
được
dùng
để
dịch
madà,
vừa
có
nghĩa
kiêu
mạn
vừa
có
nghĩa
say
mê.
Ở
đây
chữ
say
mê
thích
hợp
hơn
trong
việc
sử
dụng
đồ
ăn
khất
thực.
Bản
P
nói
"không
để
trang
sức,
không
để
làm
đẹp",
nghe
ra
hơi
gượng
ép.
Bản
C
dễ
nghe
hơn.
IX.
Lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
kham
nhẫn:
P:
Adhivàsanà:
C:
Thế
nào
là
những
lậu
hoặc
được
đoạn
trừ
bằng
kham
nhẫn?
Để
tận
trừ
các
ác
bất
thiện
pháp
và
tu
tập
các
thiện
pháp,
vị
Tỳ-kheo
thường
xuyên
để
tâm
mình
tư
duy:
tôi
sẽ
nỗ
lực
với
tất
cả
tâm
hồn,
dù
cho
thân
thể,
da,
thịt,
gân,
xương,
máu,
tủy
khô
cạn,
kiệt
sức,
tôi
cũng
sẽ
không
bao
giờ
từ
bỏ
sự
nỗ
lực;
chỉ
khi
tôi
có
được
điều
tôi
muốn,
tôi
mới
từ
bỏ
nỗ
lực.
Vị
Tỳ-kheo
lại
phải
chịu
đựng
đói,
khát,
lạnh,
nóng,
muỗi,
ruồi,
chí,
rận,
sự
bức
bách
của
gió
và
nắng,
những
lời
ác
độc,
sự
đánh
bằng
gậy
gộc.
Vị
ấy
chịu
đựng
tất
cả.
Dù
cơ
thể
bị
đau
ốm
và
đau
đến
khốc
liệt,
đến
nỗi
gần
như
chết
và
đối
với
mọi
cảm
giác
khó
chịu
khác,
vị
ấy
có
thể
chịu
đựng
tất
cả.
Nếu
không
có
sự
kham
nhẫn,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu,
não
sẽ
phát
sinh,
nếu
có
kham
nhẫn
thì
sầu,
ưu
không
sinh,
đây
gọi
là
lậu
hoặc
được
đoạn
trừ
bằng
kham
nhẫn.
P:
Bản
P
chỉ
nói
rằng
vị
Tỳ-kheo
nên
chân
chánh
giác
sát,
chịu
đựng
lạnh,
nóng,
đói,
khát,
ruồi,
muỗi,
gió,
mặt
trời,
các
loài
bò
sát,
sự
nhục
mạ
và
những
lời
độc
ác.
Vị
ấy
nên
chịu
đựng
những
cảm
thọ
về
thân
khởi
lên
đau
đớn,
nhói
đau,
khốc
liệt,
nghiêm
trọng,
khó
chịu,
chết
điếng
người.
Nhận
xét:Bản
P
bỏ:
sự
nỗ
lực
...
thân
thể
máu
thịt
v.v..
đều
khô
cạn.
X.
Lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
trừ
diệt:
P:
Vinodana:
C:
Thế
nào
là
những
lậu
hoặc
cần
được
đoạn
trừ
bằng
trừ
diệt?
Khi
các
tư
tưởng
về
tham
dục
khởi
lên,
vị
Tỳ-kheo
cần
phải
trừ
diệt,
đoạn
tận,
xua
đuổi
chúng.
Khi
những
tư
tưởng
về
sân,
hại
khởi
lên,
vị
ấy
cần
phải
trừ
diệt,
đoạn
tận,
xua
đuổi
chúng.
Nếu
không
có
sự
trừ
diệt,
thì
sầu,
bi,
khổ,
ưu,
não
sẽ
sinh
khởi,
nếu
có.......
không
sinh.
Đây
gọi
là
lậu
hoặc
được
đoạn
tận
bằng
trừ
diệt.
P:
Gần
giống.
Bản
P
thêm:
"bất
thiện
pháp"
và
các
ý
tưởng
dục,
sân,
hại.
XI.
Lậu
hoặc
cần
được
đoạn
tận
nhờ
tu
tập:
P:
Bhàvanà:
C:
Thế
nào
là
lậu
hoặc
được
đoạn
tận
nhờ
tu
tập?
Vị
Tỳ-kheo
tư
duy
về
chánh
niệm
giác
chi
thứ
nhất,
y
cứ
độc
cư,
ly
dục,
diệt,
đưa
đến
giải
thoát.
(Cũng
vậy)
người
ấy
tư
duy
về
trạch
pháp,
tinh
tấn,
hỷ,
khinh
an,
định,
và
xả,
giác
chi
thứ
bảy,
y
cứ
biệt
ly,
ly
dục,
diệt,
đưa
đến
giải
thoát.
Nếu
có
tư
duy,
...........
sẽ
không
sinh.
Đây
gọi
là
lậu
hoặc
được
đoạn
tận
nhờ
tư
duy.
P:
Gần
giống.
Bản
P
thêm:
như
lý
tác
ý.
Ở
đây
bảy
giác
chi
y
cứ
viễn
ly
(viveka),
ly
tham
(virgàra),
diệt,
đưa
đến
từ
bỏ
(vossaggaparinàmin).
Nhận
xét:
Bản
C
nói
đến
giác
chi
thứ
hai
là
pháp,
chứ
không
nói
trạch
pháp.
XII.
Sự
tận
trừ
tất
cả
lậu
hoặc:
C:
Nếu
một
Tỳ-kheo
thành
công
trong
việc
tận
trừ
tất
cả
lậu
hoặc
nhờ
tri
kiến,
nhờ
phòng
hộ,
nhờ
tránh
né,
nhờ
sử
dụng,
nhờ
kham
nhẫn,
nhờ
trừ
diệt
và
nhờ
tu
tập,
vị
Tỳ-kheo
ấy
đã
tận
trừ
tất
cả
lậu
hoặc,
đã
giải
thoát
khỏi
kiết
sử,
có
thể
sử
dụng
chánh
trí
để
chấm
dứt
khổ
đau.
P:
Phần
đầu
cũng
giống
như
C;
phần
hai
như
sau:
"Vị
Tỳ-kheo
ấy
được
nói
là
đã
trú
chế
ngự
với
sự
chế
ngự
tất
cả
những
lậu
hoặc,
đã
phá
hủy
tham
ái,
tận
trừ
kiết
sử
và
thực
chứng
kiêu
mạn,
chấm
dứt
khổ
đau".
E.
Phần
kết
C:
Đức
Phật
nói
như
vậy.
Các
Tỳ-kheo
sau
khi
nghe
lời
Phật
dạy,
hoan
hỷ
phụng
hành.
P:
Đức
Thế
Tôn
nói
như
vậy.
Các
vị
Tỳ-kheo
hoan
hỷ
tín
thọ
lời
dạy
của
Thế
Tôn.
NC5
C
105:
Nguyện
kinh
P6:
Kinh
Ước
nguyện
A.
Toát
yếu
kinh
C
Đức
Phật
kể
ra
một
số
ước
nguyện
(bản
C
có
13,
P
có
17).
Những
ước
nguyện
này
sẽ
được
viên
mãn
bởi
những
Tỳ-kheo
tuân
thủ
những
học
giới
của
Giới
bản
và
siêng
tu
thiền
định
và
tuệ
quán.
P:
Gần
giống.
B.
Nhan
đề
C:
Nguyện
kinh,
bản
kinh
nói
về
những
mong
muốn,
ám
chỉ
những
mong
muốn
do
các
Tỳ-kheo
lập
nên.
P:
Kinh
Ước
nguyện,
bài
kinh
nói
về
những
gì
người
ta
có
thể
mong
cầu,
cũng
ám
chỉ
các
mong
cầu
của
Tỳ-kheo.
C.
Địa
điểm
thuyết
kinh
Hai
bản
giống
nhau,
ám
chỉ
Xá
Vệ,
Kỳ
thọ
Cấp-cô-độc
viên.
D.
Nội
dung
kinh
I.
Hoàn
cảnh
đưa
đến
sự
thuyết
kinh:
C:
Lúc
bấy
giờ
có
một
Tỳ-kheo
sống
viễn
ly
độc
cư
tại
một
nơi
xa
vắng
yên
tịnh.
Trong
khi
ngồi
thiền,
những
ý
nghĩ
sau
đây
khởi
lên
nơi
ông:
"Đức
Thế
Tôn
an
ủi
ta,
nói
chuyện
với
ta,
giảng
pháp
cho
ta,
để
ta
được
thọ
cụ
túc
giới
mà
không
xao
lãng
thiền
định,
viên
mãn
sự
tu
tập
tuệ,
ở
một
nơi
vắng
vẻ
không
người."
Sau
khi
nghĩ
thế,
vào
buổi
chiều,
vị
Tỳ-kheo
đứng
dậy
từ
chỗ
ngồi
thiền
và
đi
đến
đức
Phật.
Đức
Thế
Tôn
khi
thấy
vị
Tỳ-kheo
ấy
từ
xa
đến,
đã
nhân
vị
Tỳ-kheo
ấy
mà
dạy
các
Tỳ-kheo.
P:
Không
nói
đến
hoàn
cảnh
thuyết
kinh.
Đức
Thế
Tôn
dạy
các
Tỳ-kheo,
không
có
giáo
đầu.
II.
Các
ước
nguyện:
Bản
C
có
13,
P
có
17.
Nội
dung
các
ước
nguyện
gần
giống
nhau
trong
hai
bản,
nhưng
có
vài
dị
biệt
trong
cách
hành
văn
và
về
chi
tiết.
Bản
P
trước
khi
kể
ra
các
ước
nguyện,
đã
trích
dẫn
lời
Phật
khuyến
cáo
các
Tỳ-kheo
hãy
tuân
giữ
các
học
giới,
thực
hành
Giới
bản
Biệt
giải
thoát,
sống
khéo
chế
ngự
bằng
sự
chế
ngự
của
Giới
bản,
tuân
giữ
uy
nghi
và
hành
xứ
chính
đáng,
thấy
nguy
hiểm
trong
những
lỗi
nhỏ
và
học
tập
các
học
giới.
Bản
C
bỏ
đoạn
này.
Trong
bản
P,
sau
mỗi
ước
nguyện
có
một
đoạn
lập
lại
giống
nhau,
một
thứ
điệp
khúc
nói
lên
các
điều
kiện
cần
có
để
viên
mãn
ước
nguyện
ấy
như
sau:
"Vị
ấy
phải
là
một
người
viên
mãn
các
học
giới,
nội
tâm
tịch
tịnh,
không
gián
đoạn
thiền
định,
có
tuệ
quán,
thường
ưa
thích
lui
tới
nơi
nhàn
tịnh."
Trong
bản
C
cũng
có
một
loại
điệp
khúc
cuối
mỗi
nguyện
nhưng
nó
không
tách
rời
với
ước
nguyện
ấy,
và
cách
hành
văn
làm
cho
ta
khó
thấy
được
nó
là
một
điều
kiện
cần
phải
viên
mãn
như
trong
bản
P.
Điệp
khúc
ấy
như
sau:
"Hãy
tuân
giữ
toàn
bộ
các
học
giới,
nhưng
không
xao
lãng
thiền
định,
hãy
viên
mãn
sự
tu
tập
tuệ
quán
bằng
cách
ở
nơi
vắng
vẻ."
C1=P1:
C:
Tỳ-kheo
nên
ước
nguyện
rằng:
"Ước
gì
đức
Thế
Tôn
an
ủi
ta,
nói
chuyện
với
ta,
thuyết
pháp
cho
ta"...
P:
"Mong
sao
tôi
được
đồng
phạm
hạnh
yêu
mến,
thích,
cung
kính,
tôn
trọng."
C2=P4:
C:
"Ta
có
những
thân
quyến.
Mong
sao
khi
họ
mạng
chung,
nhờ
ta
mà
họ
được
đi
đến
những
nơi
tốt
lành,
cho
đến
tái
sinh
lên
trời."
P:
"Mong
sao
những
thân
bằng
quyến
thuộc
của
ta
lúc
chết
và
tái
sinh
vào
một
loài
khác,
sẽ
nhớ
đến
ta
với
một
tâm
hoan
hỷ,
và
nhờ
vậy
mà
họ
được
kết
quả
lớn,
lợi
ích
lớn."
Nhận
xét:
Cô
Horner
đã
dịch
đoạn
này
như
sau:
"Mong
đây
sẽ
là
một
quả
báo
lớn,
lợi
ích
lớn
cho
những
bà
con
quyến
thuộc
của
ta,
những
người
này
với
tâm
vui
vẻ
nhớ
lại
những
người
đã
chết....."
nhưng
trong
Papancasùdanì
thì
nói
các
thân
quyến
khi
chết
nhớ
lại
những
đức
tính
của
vị
Tỳ-kheo
và
nhờ
vậy
chết
với
tâm
hoan
hỷ.
C3=P3:
C:
"Mong
sao
những
người
cho
tôi
y
phục,
đồ
nằm,
đồ
ăn
uống,
giường,
đệm,
dầu,
dược
liệu,
những
đồ
dùng
để
sống;
mong
sao
nhờ
sự
bố
thí
này,
họ
được
công
đức
lớn,
danh
vọng
lớn
và
gặt
quả
báo
lớn."
P:
Giống
nhau.
Nó
kể
theo
thường
lệ
y
phục,
đồ
ăn
khất
thực,
sàng
tọa,
dược
phẩm
trị
bệnh.
Nó
chỉ
nói
quả
báo
lớn
và
lợi
ích
lớn.
C4=P
không
có:
C:
"Mong
ta
có
thể
chịu
đựng
đói,
khát,
lạnh,
nóng,
muỗi,
ruồi,
nhặng,
chí,
rận,
sức
ép
của
gió
và
nóng,
các
lời
xấu
ác,
sự
đánh
đập
bằng
roi
gậy.
Khi
thân
bị
đau
bịnh
khốc
liệt,
chết
điếng,và
đối
với
tất
cả
khổ
thọ,
mong
tôi
chịu
đựng
được
tất
cả."
C5=P5:
C:
"Mong
ta
có
thể
chịu
đựng
bất
lạc.
Nếu
bất
lạc
xảy
đến,
mong
rằng
tâm
ta
cuối
cùng
sẽ
không
bị
ảnh
hưởng."
P:
Giống
nhau.
C6=P6:
C:
"Mong
ta
có
thể
chịu
đựng
sợ
hãi
khiếp
đảm.
Nếu
sợ
hãi
khiếp
đảm
xảy
đến,
mong
rằng
tâm
ta
cuối
cùng
không
bị
ảnh
hưởng."
P:
Giống
nhau.
C7=P
không
có:
C:
"Nếu
ba
ý
tưởng
ác
bất
thiện
khởi
lên
nơi
tôi,
những
ý
tưởng
về
dục,
sân
và
hại,
mong
rằng
cuối
cùng
tôi
không
bị
chúng
ảnh
hưởng."
C8=P7:
C:
"Mong
ta
ly
dục,
ly
bất
thiện
pháp,
cho
đến
chứng
và
trú
thiền
thứ
tư."
P:
"Mong
ta
có
thể
không
khó
khăn,
không
mệt
nhọc,
chứng
được
bốn
thiền
thuộc
tăng
thượng
tâm,
khiến
ta
an
trú
trong
hiện
tại
lạc."
C9=P9:
C:
"Mong
ta
có
thể,
nhờ
đoạn
trừ
ba
kiết
sử,
chứng
được
Dự
lưu,
không
còn
rơi
vào
ác
pháp,
chắc
chắn
được
giác
ngộ,
chỉ
còn
tái
sinh
nhiều
nhất
là
bảy
lần
trong
thiên
giới
hay
trong
cõi
người,
và
sau
bảy
lần
qua
lại,
ta
sẽ
chấm
dứt
khổ
đau."
P:
Gần
giống;
C:
không
rơi
vào
ác
pháp=P:
avinipàtadhammo.
Bản
P
bỏ:
và
sau
khi
qua
lại
bảy
lần,
chấm
dứt
khổ
đau.
Nhận
xét:
Danh
từ
avinipàtadhammo,
bản
C
dịch
là
"pháp"
trong
khi
nó
chỉ
có
nghĩa
là
"phải
bị,
phải
chịu".
C10=P10:
C:
"Sau
khi
đoạn
trừ
ba
kiết
sử,
làm
mỏng
dần
tham,
sân,
si,
mong
ta
có
thể
chỉ
còn
đi
lại
một
lần
ở
cõi
trời
hay
cõi
người,
và
sau
khi
qua
lại
một
lần,
có
thể
chấm
dứt
khổ
đau."
P:
Giống
nhau.
C:
đến
cõi
trời
và
cõi
người=P:
thế
giới
này.
C11=P11:
C:
"Mong
ta
sau
khi
đoạn
năm
hạ
phần
kiết
sử,
sẽ
được
tái
sinh
trong
cõi
ấy
và
từ
đấy
đạt
Niết-bàn,
được
pháp
Bất
thối,
không
còn
trở
lui
đời
này."
P:
Giống
nhau.
Bản
P
thêm:
opapàtiko
(hóa
sanh).
C:
được
pháp
Bất
thối,
không
trở
lui
vào
thế
giới
này=P:
anàvattidhammo
(từ
cõi
ấy
không
còn
phải
chịu
luân
chuyển).
C12=P8:
C:
"Mong
ta
chứng
được
tịch
tịnh
giải
thoát
siêu
quá
sắc
giới,
đạt
đến
vô
sắc,
giống
như
những
người
đạt
được
trong
thiền
(?)
với
thân
chứng
và
trú,
để
tư
duy
với
trí
tuệ,
để
đoạn
tận
lậu
hoặc,
để
biết
rõ
lậu
hoặc."
P:
Bản
P
bỏ:
"giống
như
những
người
đạt
được
trong
thiền.
"
và
"để
tư
duy...
lậu
hoặc".
Bản
P
dùng
danh
từ
phassitvà
trong
khi
bản
C
dịch
là
chứng
đắc,
cách
dịch
này
rất
đúng
vì
từ
phassitvà
ở
đây
không
có
nghĩa
là
sờ
chạm
như
thông
thường.
C13=P12,
13,14,15,16,17:
C:
"Mong
ta
có
thể
đạt
đến
các
thần
thông,
như
thiên
nhãn,
tha
tâm,
túc
mạng,
sinh
tử
trí,
mong
tất
cả
lậu
hoặc
được
dập
tắt,
giai
đoạn
không
còn
lậu
hoặc
được
đạt
đến,
và
bằng
tự
tri,
tự
ngộ,
ta
đạt
được
ngay
trong
hiện
tại
tâm
giải
thoát,
tuệ
giải
thoát.
Sanh
đã
tận,
phạm
hạnh
đã
viên
thành,
những
gì
cần
làm
đã
làm
xong,
sẽ
không
còn
sinh
lại,
sự
hiểu
biết
này
là
đúng
thật."
P:
Ở
đây
bản
P
nói
cùng
một
đề
tài
nhưng
chia
làm
sáu
ước
nguyện:
nguyện
thứ
12
là
thần
túc
thông,
13
là
thiên
nhĩ
thông,
14
là
tha
tâm
thông,
15
là
túc
mạng
thông,
16
là
thiên
nhãn
trí,
17
là
lậu
tận.
C:
sinh
tử
trí=P:
thiên
nhãn.
Các
loại
trí
này
được
mô
tả
chi
tiết
trong
bản
P.
P2=C:
không
có:
P:
"Mong
ta
có
được
y
phục,
đồ
ăn
khất
thực,
trú
xứ
và
dược
phẩm
trị
bệnh."
Nhận
xét:
Ước
nguyện
thứ
tư
ở
đây
cũng
được
tìm
thấy
trong
Lậu
tận
kinh
số
10,
bản
kinh
nói
về
sự
diệt
tận
lậu
hoặc,
nhưng
phần
đầu
của
Lậu
tận
kinh
nói
Tỳ-kheo
nỗ
lực
cho
đến
thân
thể,
xương
máu...
khô
kiệt
cũng
không
bỏ,
thì
ở
đây
không
có.
Điều
này
chứng
tỏ
rằng
đoạn
này
có
thể
đã
được
thêm
về
sau,
như
bản
kinh
Pàli
cho
thấy
rõ.
III.
Sự
tu
tập
và
chứng
đắc
của
Tỳ-kheo:
C:
Khi
ấy
các
Tỳ-kheo
sau
khi
nghe
lời
Phật
dạy,
đã
khéo
thâu
nhận
và
khéo
an
trú.
Rồi
họ
đứng
lên
khỏi
chỗ
ngồi,
cúi
đầu
đảnh
lễ
dưới
chân
đức
Phật,
đi
nhiễu
quanh
Ngài
ba
vòng
rồi
ra
đi.
Những
Tỳ-kheo
sau
khi
nhận
chỉ
giáo
này
của
đức
Phật,
đã
sống
độc
cư
viễn
ly,
và
nỗ
lực
tu
tập
thiền
định
với
tâm
không
xao
lãng.
Do
sống
viễn
ly
độc
cư,
nỗ
lực
tu
tập
thiền
định
với
tâm
không
xao
lãng,
bằng
tự
tri
tự
ngộ,
họ
đã
đạt
đến
và
an
trú
trong
mục
đích
tối
thượng
của
đời
sống
phạm
hạnh
mà
các
thiện
gia
nam
tử
đã
hướng
đến,
sau
khi
cạo
bỏ
râu
tóc,
đắp
cà
sa,
từ
bỏ
gia
đình
sống
không
gia
đình
để
học
pháp.
Sanh
đã
tận,
phạm
hạnh
đã
thành,
những
gì
cần
làm
đã
làm
xong,
từ
đây
không
còn
sanh
tử.
Tri
kiến
này
chân
thật.
Các
Tôn
giả
ấy
sau
khi
biết
pháp,
đã
đắc
quả
A-la-hán.
P:
Không
có.
Ở
đây
bản
P
lập
lại
lời
khuyên
của
đức
Phật
ở
đầu
kinh.
E.
Phần
kết
Như
thông
thường
trong
cả
hai
kinh.
NC6
C93:
Thủy
tịnh
Phạm
chí
kinh
P7:
Kinh
ví
dụ
tấm
vải
A.
Toát
yếu
kinh
C
Phật
kể
ra
21
loại
cấu
uế
và
so
sánh
một
tâm
cấu
uế
giống
như
một
tấm
vải
dơ,
còn
tâm
không
cấu
uế
như
tấm
vải
sạch.
Rồi
Ngài
chỉ
ra
cách
diệt
trừ
các
cấu
uế
và
giải
thích
sự
tu
tập
bốn
phạm
trú.
Sau
đó
Phật
chỉ
cho
Bà-la-môn
Thủy
Tịnh
thấy
rõ
sự
vô
ích
của
việc
tắm
sông
để
rửa
tội
lỗi,
tưởng
đấy
là
nước
thánh;
và
hiển
thị
rằng
chỉ
nhờ
làm
các
hành
vi
công
đức
mà
các
ác
nghiệp
có
thể
được
nhổ
tận
gốc.
P:
Gần
giống.
Ở
đây
Phật
đưa
ví
dụ
tấm
vải
ra
trước
rồi
mới
kể
ra
16
loại
cấu
uế.
B.
Nhan
đề
C:
Thủy
tịnh
Phạm
chí
kinh,
bản
kinh
nói
về
Bà-la-môn
Thủy
Tịnh,
giảng
cho
Bà-la-môn
này.
P:
Kinh
Ví
dụ
tấm
vải,
nói
đến
ví
dụ
mà
Phật
xử
dụng
trong
bản
kinh.
C.
Địa
điểm
thuyết
kinh
C:
Uruvelà,
bên
bờ
sông
Ni
Liên,
dưới
cây
Ni
câu
luật.
P:
Xá
Vệ,
Kỳ
thọ
Cấp-cô-độc
viên.
D.
Nội
dung
kinh
I.
Hoàn
cảnh
đưa
đến
sự
thuyết
kinh:
C:
Một
thời
đức
Thế
Tôn
du
hành
ở
Uruvelà
bên
bờ
sông
Ni
Liên,
dưới
cây
Ni
câu
luật,
nơi
Ngài
vừa
đạt
giác
ngộ.
Lúc
bấy
giờ
một
Bà-la-môn
tên
Thủy
Tịnh
vào
buổi
chiều
đang
đi
lang
thang;
ông
đến
nơi
đức
Phật
...
đức
Thế
Tôn
nhân
Bà-la-môn
Thủy
Tịnh
đã
dạy
các
Tỳ-kheo.
P:
Không
có
hoàn
cảnh
đặc
biệt.
Đức
Phật
chỉ
gọi
các
Tỳ-kheo
đến
và
giảng
kinh
này.
Nhận
xét:
bản
C
nói:
"khi
đức
Phật
vừa
mới
đạt
giác
ngộ".
Ta
không
biết
kinh
này
được
giảng
trước
khi
Ngài
đến
Ba
La
Nại,
hay
sau
khi
Ngài
giảng
bài
pháp
đầu
tiên,
khi
Ngài
trở
lại
Uruvelà
để
cải
hóa
ba
anh
em
Ca
Diếp.
Thủy
Tịnh
Bà-la-môn
có
lẽ
nên
hiểu
là
một
Bà-la-môn
thường
thực
hành
nghi
lễ
tẩy
tội
bằng
cách
tắm
trong
nước
sông
thiêng.
II.
Kể
ra
những
cấu
uế:
C:
Có
những
người
mà
tâm
bị
ô
nhiễm
vì
21
cấu
uế.
Họ
chắc
chắn
sẽ
đi
đến
những
cõi
xấu
và
tái
sinh
vào
địa
ngục.
21
cấu
uế
là
những
gì?
1.
Tà
kiến
là
một
cấu
uế
của
tâm,
2.
Ham
muốn
đối
với
tà
pháp,
3.
Ác
dục,
4.
Tà
pháp,
5.
Tham,
6.
Sân,
7.
Hôn
trầm,
biếng
nhác,
8.
Dao
động,
hối
hận,
9.
Nghi
ngờ
không
tin,
10.
Ác
ý,
tâm
trói
buộc,
11.
Bất
ngữ
kiết
tâm
uế
(?),
12.
Hà
tiện,
13.
Ganh
tị,
14.
Lừa
dối,
gian
lận,
15.
Nịnh
hót,
16.
Vô
tàm,
17.
Vô
quý,
18.
Mạn,
19.
Quá
mạn,
20.
Kiêu
căng,
21.
Phóng
dật
là
một
cấu
uế
của
tâm.
Nếu
người
ta
có
21
cấu
uế
này
làm
ô
nhiễm
tâm,
chắc
chắn
họ
sẽ
đi
đến
cõi
xấu
và
sinh
vào
địa
ngục.
P:
Chỉ
kể
16
cấu
uế
như
sau:
1.
Tham,
2.
Ác
dục,
sân,
3.
Hại,
4.
Não
hại,
5.
Giả
dối,
hạ
giá
trị
người
khác,
6.
Khinh
bỉ,
7.
Ganh
tị,
8.
Hà
tiện,
9.
Lừa
dối,
10.
Gian
lận,
11.
Ngoan
cố,
12.
Cấp
tháo,
13.
Mạn,
14.
Quá
mạn,
15.
Kiêu
căng,
16.
Phóng
dật.
Nhận
xét:
Nếu
so
sánh
danh
sách
này
với
danh
sách
trong
bản
kinh
C:
Cầu
pháp
kinh
và
kinh
P:
Thừa
tự
pháp,
chúng
ta
nhận
thấy
rằng
hai
danh
sách
của
bản
C
không
giống
nhau
(số
lượng
khác,
thứ
tự
khác...)
trong
khi
hai
kinh
bản
P
có
danh
sách
giống
nhau
ngoại
trừ
ở
đây
cấu
uế
đầu
tiên
là
abhijjhàvisamalobho,
còn
ở
kinh
kia
là
lobho.
Như
vậy
người
biên
tập
kinh
P
dường
như
có
hệ
thống
hơn,
trung
thực
và
nhất
quán
trong
khi
kết
tập.
III.
Ví
dụ
tấm
vải:
1.
Vải
dơ:
C:
Như
một
tấm
vải
dơ
được
đem
đến
người
thợ
nhuộm.
Thợ
nhuộm
dùng
tro
sạch
hay
đậu
dùng
để
rửa,
hay
đất
để
rửa
nó
cho
thật
sạch.
Mặc
dù
tấm
vải
dơ
ấy
được
thợ
nhuộm
giặt
sạch
như
vậy,
tấm
vải
dơ
ấy
vẫn
còn
mang
màu
dơ
uế
trước
kia.
P:
Bản
P
không
nói
người
thợ
nhuộm
giặt
sạch
tấm
vải
với
các
vật
liệu
khác
nhau
mà
chỉ
nói
thợ
nhuộm
nhúng
tấm
vải
dơ
vào
thuốc
nhuộm
màu
xanh,
vàng,
đỏ,
tím.
Nhưng
tấm
vải
không
ăn
màu
bởi
vì
nó
đã
dơ.
2.
Vải
sạch:
C:
Bản
C
nói
đến
trường
hợp
những
người
tâm
không
bị
ô
nhiễm
bởi
21
cấu
uế.
Nó
ngược
lại
với
trường
hợp
những
người
tâm
bị
ô
nhiễm
vì
21
cấu
uế,
với
những
thay
đổi
thích
nghi.
Rồi
nó
kể
ra
ví
dụ
một
tấm
vải
sạch).
Giống
như
một
tấm
vải
trắng,
sạch,
dệt
ở
Ba
La
Nại,
được
đem
đến
một
người
thợ
nhuộm.
Thợ
nhuộm
ấy
sử
dụng
tro
sạch,
hay
đậu
dùng
để
rửa,
hay
đất
để
rửa
nó
thật
sạch.
Như
vậy
tấm
vải
Ba
La
Nại
trắng
sạch
ấy
đã
sạch
càng
sạch
hơn.
P:
Cũng
những
dị
biệt
như
đã
thấy
trong
ví
dụ
trước.
IV.
Sự
diệt
trừ
cấu
uế
và
những
lợi
ích:
1.
Biết
rõ
cấu
uế
và
diệt
trừ
chúng:
C:
Nếu
vị
ấy
biết
tà
kiến
là
một
cấu
uế
của
tâm,
sau
khi
biết
như
vậy,
vị
ấy
diệt
trừ
tà
kiến.
(Cũng
vậy
với
20
cấu
uế
còn
lại).
P:
Cũng
vậy,
chỉ
có
những
dị
biệt
về
các
cấu
uế
như
đã
nhận
xét
trước
đây.
2.
Lòng
tin
đối
với
Tam
bảo:
P:
Cùng
với
sự
diệt
trừ
cấu
uế,
phát
triển
được
đức
tin
Tam
bảo
Phật,
Pháp,
Tăng.
Ở
đây
kể
ra
tất
cả
đức
tính
của
Tam
bảo
theo
công
thức
thông
thường.
C:
Không
có.
3.
Lợi
ích
của
đức
tin
Tam
bảo:
P:
Với
lòng
tin
Tam
bảo,
vị
Tỳ-kheo
có
được
lợi
ích
của
nghĩa
tín
thọ,
pháp
tín
thọ,
được
hỷ,
khinh
an,
lạc,
nhất
tâm.
(Trí
biết
mục
đích,
trí
biết
pháp,
hân
hoan,
hỷ,
khinh
an,
lạc,
định).
C:
Không
có.
4.
Những
lợi
ích
do
có
được
hạnh
như
vậy,
công
đức
như
vậy:
P:
Một
Tỳ-kheo
có
được
giới
như
vậy,
công
đức
như
vậy,
trí
như
vậy,
thì
dù
có
ăn
thực
phẩm
béo
bổ
cũng
sẽ
không
vì
thế
mà
bị
ảnh
hưởng
xấu,
giống
như
một
tấm
vải
dơ
bỏ
vào
nước
sạch
sẽ
sạch,
như
vàng
bỏ
vào
lò
nấu
sẽ
thành
thuần
tịnh.
C:
Không
có.
5.
Tu
tập
phạm
trú:
C:
Vị
ấy
an
trú
biến
mãn
một
phương
với
tâm
câu
hữu
với
từ,
cũng
vậy
phương
thứ
hai,
thứ
ba,
thứ
tư,
bốn
phương
trung
gian,
trên,
dưới,
cùng
khắp,
tất
cả,
với
tâm
câu
hữu
với
từ
không
có
trói
buộc,
không
hận,
không
sân,
không
tranh
chấp,
vô
cùng
rộng
lớn,
quảng
đại,
vô
lượng,
biến
mãn
khắp
thế
gian,
vị
ấy
khéo
tu
tập
và
khéo
an
trú.
Cũng
vậy
với
tâm
bi,
hỷ
và
xả...
(như
trên).
P:
Gần
giống
C:
bốn
phương
trung
gian=P:
bề
ngang;
C:
không
trói
buộc,
không
thù
hận,
không
ghét,
không
tranh
chấp=P:
không
hận,
không
sân;
C:
vô
cùng
rộng
lớn,
quảng
đại
vô
lượng=P:
vipulena,
mahaggatena
appamànena
(gần
giống,
chỉ
bỏ
chữ
"vô
cùng");
C:
vị
ấy
khéo
tu
tập=P:
không
có.
6.
Sự
đắc
quả
A-la-hán:
P:
Bản
Pàli
còn
thêm
sự
chứng
đắc
quả
A-la-hán
với
sự
hiểu
rõ
quả
A-la-hán,
hiểu
rõ
về
idam
(quả
A-la-hán),
hìnam
(hạ
liệt,
các
cấu
uế),
và
panìtam
(thù
thắng,
tức
các
phương
tiện
để
từ
bỏ
cấu
uế).
Một
tri
kiến
như
vậy
đưa
đến
sự
diệt
trừ
ba
lậu
hoặc,
sự
phá
hủy
sinh,
sự
lập
thành
phạm
hạnh,
sự
viên
mãn
bổn
phận
và
sự
hủy
bỏ
tái
sinh.
C:
Không
có.
Nhận
xét:
Đoạn
này
không
có
trong
bản
C
chỉ
gồm
một
câu
kết
thúc
đoạn
này
và
mở
ra
đoạn
kế
tiếp.
Câu
ấy
như
sau:
"Đây
gọi
là
rửa
sạch
nội
tâm
chứ
không
phải
ngoại
thể".
Bản
P
viết
:
"Đây
gọi
là
một
Tỳ-kheo
đã
tắm
rửa
với
sự
tắm
rửa
nội
tâm".
Trong
đoạn
này,
lòng
tin
Tam
bảo
mà
C
không
có,
có
thể
là
một
đoạn
chen
thêm
về
sau
trong
bản
P.
V.
Bà-la-môn
Thủy
Tịnh
xen
vào
và
sự
quy
y
của
ông:
1.
Bà-la-môn
Thủy
Tịnh
xen
vào:
C:
Lúc
bấy
giờ
Bà-la-môn
thưa
đức
Thế
Tôn:
"Thưa
Cồ
Đàm,
xin
Ngài
hãy
đi
tắm
ở
sông
Đa
Thủy."
Đức
Thế
Tôn
hỏi:
"Đi
tắm
sông
Đa
Thủy
có
được
cái
gì?".
Bà-la-môn
trả
lời:
"Thưa
Cồ
Đàm,
sông
Đa
Thủy
ấy
được
nhiều
người
xem
là
có
tính
chất
làm
sạch,
tịnh
hóa,
giải
thoát,
và
đem
lại
công
đức.
Nếu
người
nào
tắm
trong
sông
Đa
Thủy,
sông
ấy
sẽ
tịnh
hóa
và
tẩy
sạch
tất
cả
xấu
ác."
P:
Ở
đây
Bà-la-môn
có
tên
là
Sundarikabhàradvàja.
Khả
năng
được
gán
cho
sông
Đa
Thủy
như
sau:
là
một
phương
tiện
để
giải
thoát,
để
có
công
đức,
và
tẩy
trừ
tội
lỗi.
Chỉ
đến
đây
bản
P
mới
đề
cập
sự
hiện
diện
của
Bà-la-môn,
trong
khi
bản
C
ngay
từ
đầu
bản
kinh
đã
nói
đến
Bà-la-môn
ấy.
2.
Phật
trả
lời:
(Xem
Chương
Bảy,
Kệ
tụng).
(Văn
xuôi
tiếp
tục
như
sau):
"Bạch
Thế
Tôn,
con
đã
hiểu,
bạch
Thiện
thệ,
con
đã
hiểu,
nay
con
xin
quy
y
Phật,
Pháp
và
Tăng,
mong
đức
Thế
Tôn
nhận
con
làm
một
cư
sĩ,
từ
nay
cho
đến
mạng
chung,
con
trọn
đời
quy
ngưỡng."
P:
Không
giống
hẳn.
Ở
đây
Bà-la-môn
Sundarikabhàradvàja
sau
khi
nghe
Phật
giảng,
thốt
lên
lời
ca
tụng
như
thường
lệ,
rồi
công
bố
xin
quy
y
Tam
bảo
và
xin
được
xuất
gia
làm
Tỳ-kheo
và
được
thọ
đại
giới.
Khi
Phật
cho
ông
tất
cả
điều
này,
ông
nỗ
lực
tinh
cần
tu
tập
và
cuối
cùng
đắc
quả
A-la-hán.
Nhận
xét:
Ở
đây
tính
vừa
phải
trong
sự
chuyển
hóa
của
Bà-la-môn
trong
bản
C
rất
có
ý
nghĩa.
Có
lẽ
điều
này
gần
với
sự
thật,
khi
nó
kể
lại
hình
thức
quy
y
đơn
giản
dưới
thời
đức
Phật.
Chúng
ta
cũng
nhận
thấy
rằng
theo
bản
C,
sự
cố
này
xảy
ra
khi
đức
Phật
vừa
mới
đạt
giác
ngộ;
bởi
thế
sự
dè
dặt
trong
bản
C
là
có
lý.
E.
Phần
kết
Kinh
P
không
có
phần
kết,
chấm
dứt
với
Bà-la-môn
Sundarikabhàradvàja
đắc
quả
A-la-hán,
trong
khi
bản
C
thì
có
phần
kết
như
thường
lệ.
---o0o---
Mục
lục | 1.1
| 1.2 | 2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4 | 2.5
| 2.6 | 2.7
| 3.1 | 3.2 | 3.3
| 3.4 | 3.5 | 3.6
| 4.1 | 4.2 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành
cám ơn Đạo hữu Bình Anson đã gửi tặng phiên bản điện tử
(Quang Duc Website, tháng 5, 2002)
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-05-2002