27
BỒ TÁT, LÝ TƯỞNG TRONG PHẬT
GIÁO
Hòa Thượng Tiến Sĩ W.
Rahula
C
ó
một niềm tin lan tràn, nhất là ở phương Tây, là lý tưởng của Nguyên Thủy
coi như đồng nhất với Tiểu Thừa, là để trở thành A La Hán, trong khi lý
tưởng của Ðại Thừa là trở thành Bồ Tát và cuối cùng đạt trạng thái thành
Phật. Phải nói cho minh bạch, niềm tin đó sai. Ý kiến này được truyền bá
bởi những nhà Ðông Phương Học vào thời điểm khi sự nghiên cứu Phật Giáo
bắt đầu phôi thai ở Tây phương, và một số người đã chấp nhận mà không muốn
nhọc công đi vào vấn đề bằng cách nghiên cứu kinh điển và đời sống truyền
thống tại các nước Phật Giáo. Nhưng sự thật là cả hai Nguyên Thủy và Ðại
Thừa đều nhất trí chấp nhận lý tưởng Bồ Tát là cao nhất.
Thuật ngữ Tiểu Thừa
(Cỗ Xe Nhỏ) và Ðại Thừa (Cỗ Xe Lớn) không thấy có trong văn học
Nguyên Thủy tiếng Pali. Những từ ngữ này cũng không tìm thấy trong Tam
Tạng Kinh Ðiển tiếng Pali hay trong những bộ luận về Tam Tạng Kinh Ðiển.
Cũng không thấy có luôn trong biên niên sử tiếng Pali tại Ceylon, những
cuốn Dipavamsa và Mahavamsa. Biên niên sử Dipavamsa
(vào khoảng thế kỷ thứ tư sau Công Nguyên) và những bộ luận bằng tiếng
Pali ghi nhận Vitandavadins, một phái của những Phật Tử bất đồng
quan điểm giữ một vài quan điểm không chính thống về một số vấn đề trong
giáo lý của Ðức Phật. Phái Vitandavadin và Nguyên Thủy đều trích
dẫn giống nhau từ những căn cứ đáng tin và đặt tên những kinh trong Tam
Tạng Kinh Ðiển hầu hỗ trợ cho lập trường của mình, sự khác biệt chỉ là
cách thức giải thích. Biên Niên sử Mahavamsa (thế kỷ thứ Năm trước
Công Nguyên) và một bộ luận về Vi Diệu Pháp có nhắc đến Vetulla hay
Vetulyavadins (Sanskrit: Vaitulyavadin) thay vì
Vitandavadin. Từ bằng chứng của kinh điển, không thể nào nhầm lẫn mà
coi hai thuật ngữ - Vitanda và Vetulya- tượng trưng cho cùng một
trường phái hay cùng một phái.
Chúng ta biết từ cuốn
Abbidhamma-Samuccaya, một bộ kinh Ðại Thừa đáng tin cậy (thế kỷ thứ tư
sau Công Nguyên) những từ Vaitulya và Vaipulya đồng nghĩa,
và Vaipulya là Bồ Tát Thừa. Vậy Bồ Tát Thừa rõ ràng là Ðại Thừa.
Cho nên Vaitulya chắc chắn mang nghĩa Ðại Thừa.
Cho nên chúng ta có thể
chắc chắn từ Vitanda và Vetulya dùng trong Biên niên sử
tiếng Pali và các bộ luận nói đến Ðại Thừa. Nhưng những từ Tiểu Thừa và
Ðại Thừa không được họ biết đến, hay bị lờ đi hay không được họ công nhận.
Toàn thể các học giả chấp
nhận là những từ Tiểu Thừa và Ðại Thừa là những danh từ đặt ra sau này.
Nói theo lịch sử, Nguyên Thủy đã hiện hữu trước khi các danh từ này ra
đời. Nguyên Thủy được coi như giáo lý nguyên thủy của Ðức Phật truyền vào
Ceylon và thiết lập tại đây vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên trong thời
đại Hoàng Ðế A Dục tại Ấn Ðộ.Vào thời đại ấy không có gì được gọi là Ðại
Thừa. Ðại Thừa xuất hiện sau này vào khoảng bắt đầu thời đại Ky Tô Giáo.
Không có Ðại Thừa thì không thể có Tiểu Thừa. Phật Giáo đi vào Sri Lanka
với Tam Tạng Kinh Ðiển và các Bộ Luận, vào thế kỷ thứ ba trước Công
Nguyên, vẫn giữ nguyên không thay đổi là Nguyên Thủy, và không trở thành
màn tranh chấp giữa Tiểu Thừa và Ðại Thừa được phát triển sau này tại Ấn
Ðộ. Cho nên dường như không hợp lý khi bao gồm Nguyên Thủy vào cả hai loại
này.
Ðại Thừa chuyên đề cập với
Bồ Tát Thừa hay cỗ xe của Bồ Tát nhưng cũng không quên hai loại: Thinh Văn
Thừa và Duyên Giác Thừa. Thí dụ, ngài Vô Trước, người sáng lập ra hệ thống
Yogacara (Du Già) trong cuốn Magnum Opus, Du già Sử Ðịa Luận, đã có hai
chương nói về Thinh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa trở thành Bồ Tát Thừa cho
thấy cả ba thừa đều được coi trọng trong Ðại Thừa. Nhưng địa vị của Thinh
văn hay Duyên giác thấp hơn Bồ Tát. Ðiều này cũng phù hợp với truyền thống
Nguyên Thủy vẫn cho rằng một người có thể trở nên Bồ Tát và đạt quả vị của
một Ðức Phật hoàn toàn giác ngộ, nếu không được, có thể đạt quả vị của một
Bích Chi Phật hay một thánh quả Thinh Văn tùy theo khả năng. Ba tình trạng
này được coi như ba đắc quả trên cùng một con đường. Thực ra, Kinh
Sandhinirmoocarana (Giải Thâm Mật Kinh - một bộ kinh Ðại Thừa) nói rõ ràng
Thinh Văn Thừa và Ðại Thừa tạo thành một thừa, và chúng không phải là hai
khác biệt và hai cỗ xe khác nhau.
Ba Cá Nhân
Bây giờ, ai là ba cá nhân:
Thinh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát? Rất ngắn gọn:
Một Thinh Văn là đệ tử của
Ðức Phật. Một đệ tử có thể là tăng, ni, ưu bà tắc hay ưu bà di. Hướng vào
sự giải thoát của mình, một Thinh Văn theo và tu tập giáo lý của Ðức Phật,
và cuối cùng đạt Niết Bàn. Thinh Văn cũng phục vụ người khác, nhưng khả
năng chỉ có giới hạn.
Một Bích Chi Phật (Ðộc
Giác Phật) là người một mình chứng đắc Niết Bàn khi không có Ðức Phật
Chánh Ðẳng Chánh Giác trên thế giới. Vị Phật này cũng phục vụ người khác
nhưng trong một đường lối giới hạn. Vị này không thể khám phá ra Chân Lý
cho người khác như Ðức Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, một Ðức Phật hoàn toàn
giác ngộ làm.
Một Bồ tát là một người
(nhà sư hay cư sĩ) ở trong vị trí chứng đắc Niết Bàn như hàng Thinh văn
hay Bích Chi Phật, nhưng vì lòng từ bi rộng lớn cho thế giới, từ bỏ tất cả
và chịu khổ đau trong luân hồi để cứu người khác, toàn thiện chính mình
trong một thời gian dài không kể siết và chứng đắc Niết Bàn và trở thành
một Vị Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, một Ðức Phật giác ngộ hoàn toàn. Khả
năng phục vụ người khác vô giới hạn.
Ðịnh nghĩa về ba thừa (tín
đồ của ba thừa) đưa ra bởi ngài Vô Trước hết sức lợi ích cho kiến thức và
làm sáng tỏ một số điểm. Theo ngài, một Thinh Văn (là một người dùng xe đệ
tử) là một người sống theo luật lệ của một đệ tử. Bởi bản chất có tính
năng mềm yếu, hướng vào sự giải thoát của chính mình do sự trau dồi không
luyến chấp, tùy thuộc vào Kinh, người Ðệ Tử, tu tập những đức tính lớn và
nhỏ, dần dần chấm dứt được khổ đau. Người đi xe Duyên Giác Thừa là một
người sống theo luật lệ của một vị Phật Ðộc Giác. Bản chất có năng lực
trung bình, hướng vào sự giải thoát của chính mình do sự trau dồi của
không luyến chấp, có ý đạt giác ngộ chỉ bằng sự phát triển tinh thần của
chính mình, tùy thuộc vào chính mình, tu tập những đức tính lớn và nhỏ,
sinh vào thời không có Phật trên thế giới và dần dần chấm dứt được khổ
đau. Người theo Ðại Thừa (đi cỗ xe lớn) là người sống theo luật lệ của Bồ
Tát, bởi bản chất có những tính năng sắc bén, hướng vào sự giải thoát cho
tất cả chúng sanh, tùy thuộc Kinh Bồ Tát, làm cho các chúng sanh khác hoàn
thiện, trau dồi cảnh giới Phật thuần túy, nhận được những lời tiên đoán
hay tuyên bố thọ ký của Chư Phật và cuối cùng chứng đắc Giác Ngộ đầy đủ và
toàn bích. (Samyakasambodhi).
Từ những điều này, chúng
ta có thể thấy bất cứ ai mong mỏi trở thành Phật là một Bồ tát, một người
Ðại Thừa, dù người ấy sống trong một quốc gia hay cộng đồng mà theo phổ
thông và truyền thống được coi như Nguyên Thủy hay Tiểu Thừa. Tương tự như
vậy, một người mong muốn đạt Niết Bàn với tư cách một đệ tử là Thinh Văn
Thừa hay Tiểu Thừa dù người đó sống tại một qưốc gia hay cộng đồng coi như
là Ðại Thừa. Vì vậy khi tin không có Bồ Tát trong những quốc gia Nguyên
Thủy và tất cả là Bồ tát trong các quốc gia Ðại Thừa là sai. Không thể
hiểu nổi nếu những hàng Thinh Văn và Bồ Tát lại tập trung tại các khu vực
theo địa dư riêng rẽ.
Xa hơn nữa, ngài Vô Trước
nói cuối cùng khi một Bồ Tát chứng Giác Ngộ, người ấy trở nên một A La
Hán, một Như Lai (có nghĩa Phật) . Nơi đây phải hiểu rõ ràng không những
chỉ có đệ tử Thinh Văn Thừa mà một Bồ Tát cũng có thể trở nên một A La Hán
khi cuối cùng chứng Phật quả. Lập trường của Nguyên Thủy cũng đúng như
vậy: Ðức Phật là một A La Hán - "Araham Samma-Sambuddha" - A La
Hán, Ðức Phật giác ngộ đầy đủ hoàn toàn" .
Ðại Thừa giải thích rõ
ràng là một Ðức Phật, một Bích Chi Phật và một thánh quả Thinh Văn, tất cả
ba đều ngang bằng, và giống nhau về phương diện thanh tịnh hóa, hay giải
thoát khỏi những ô trược và bất tịnh (Klesvaranavi-suddhi) .
Ðiều này cũng gọi là giải
thoát thân và trong đó không có dị biệt giữa cả ba. Ðó có nghĩa là không
có ba Niết Bàn khác biệt cho ba người. Niết Bàn giống nhau cho cả ba.
Nhưng chỉ có Ðức Phật mới đạt được giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả những
chướng ngại của sự hiểu biết hay chướng ngại của kiến thức, không phải là
Thinh Văn hay Bích Chi Phật. Ðiều này cũng được gọi là Pháp Thân (Dharma-Kaya)
và chính trong Pháp Thân vô số đức tính, khả năng và tài năng mà Ðức Phật
trở nên cao hơn không thể so sánh với Thinh Văn và Bích Chi Phật.
Quan điểm Ðại Thừa này
cũng phù hợp với Tam Tạng Kinh Ðiển Nguyên Thủy bằng tiếng Pali. Trong
Kinh Samyutta-Nikaya, Ðức Phật nói Như Lai và một tỳ kheo (đệ tử Thinh Văn
Thừa) giải thoát do trí tuệ bằng nhau về phương diện giải thoát, nhưng Như
Lai khác biệt tỳ kheo giải thoát ở chỗ Như Lai khám phá ra con đường mà
trước đây không biết.
Ba đẳng cấp của Thinh Văn,
Bích Chi Phật và Phật được ghi trong những Kinh Nidhikanda và Khuddapatha,
cuốn thứ nhất của Kinh Khuddaka-Nikaya (Tiểu Bộ), một trong năm bộ sưu tập
về Tam Tạng Kinh Ðiển Nguyên Thủy. Kinh này nói bằng cách tu tập các đức
hạnh như nhân từ, đạo đức, tự kiềm chế vân vân, một người có thể đạt, giữa
các việc khác, sự toàn thiện của một đệ tử, Giác Ngộ của một Bích Chi
Phật, và cảnh giới Phật. Những điều này không được gọi là thừa (cỗ xe).
Trong truyền thống Nguyên
Thủy, những điều trên được gọi là Bodhis (Giác Ngộ), không phải là Yanas
(cỗ xe). Bộ luật bằng tiếng Pali Upasaka-janalankara viết về đạo
đức cho người cư sĩ vào thế kỷ thứ 12 bởi một Hòa Thượng tên là Ananda
theo truyền thống Nguyên Thủy của Mahavihara tại Anuradhpura, Sri Lanka,
có ba giác ngộ: Giác ngộ của hàng Thinh Văn, Giác ngộ của hàng Duyên giác,
và Giác ngộ của chư Phật. Cả một chương của cuốn này bàn luận về ba giác
ngộ này rất chi tiết.
Chương này nói khi một đệ
tử đạt giác ngộ, người đó được gọi là Savaka-Buddha.
Bồ Tát
Giống như Ðại Thừa, Nguyên
Thủy vẫn coi Bồ Tát có vị trí cao nhất. Lời bình luận trong Kinh Jataka
(Tiền Kiếp của Ðức Phật), về truyền thống Mahavihara tại Anuradhapura,
cung cấp một thí dụ rõ ràng: trong quá khứ xa xăm, nhiều thời đại không kể
siết qua, có một nhà tu khổ hạnh tên Sumedha (tiền thân của Ðức
Phật). Vào thời đại đó có một vị Phật tên là Dipankara (Nhiên
Ðăng). Sumedha đến gặp vị Phật này xin cầu đạo và dưới sự hướng dẫn
của Ngài, đạt được khả năng đạt Niết Bàn. Nhưng Sumedha từ chối và
quyết định, vì từ bi cho cả thế giới, Sumedha muốn trở thành một vị
Phật như Ðức Nhiên Ðăng để cứu độ những người khác. Ðức Nhiên Ðăng tuyên
bố và tiên đoán nhà tu khổ hạnh vĩ đại này một ngày nào đó sẽ trở thành
Phật; Ngài cho Sumedha tám nắm hoa. Cũng làm như vậy, những đệ tử
của Ðức Nhiên Ðăng, những vị đã đắc quả A La Hán dâng hoa cho vị Bồ Tát (Sumedha).
Câu chuyện về Sumedha này cho thấy rõ ràng vị trí của Bồ Tát trong
Nguyên Thủy.
Mặc dầu Nguyên Thủy giữ
lập trường cho rằng bất cứ ai cũng có thể trở thành Bồ tát, không có nghĩa
là quy định hay nhất định tất cả phải là Bồ Tát, như vậy không thực tiễn.
Quyết định là do cá nhân tùy thích muốn chọn con đường Thinh Văn, hay
Duyên Giác - Bích Chi Phật, hay Bồ Tát Thừa (Ðức Phật Chánh Ðẳng Chánh
Giác). Nhưng lúc nào cũng giải thích rõ ràng địa vị Chánh Ðẳng Chánh Giác
cũng cao hơn và hai đẳng kia thấp hơn. Nhưng không phải những đẳng này
không được coi trọng.
Vào thế kỷ thứ 12 sau Công
Nguyên, Myanmar (một quốc gia thuần túy Nguyên Thủy) Hoàng Ðế Alaungsithu
tại Pagan, sau khi xây Chùa Shwegugyi, khắc một bài thơ bằng tiếng Pali
trên một tấm bia ghi lại hành động sùng đạo này và ông cũng công khai
tuyên bố quyết định muốn trở thành Phật chứ không trở thành bậc Thinh Văn.
Tại Sri Lanka, vào thế kỷ
thứ Mười, Hoàng Ðế Mahinda Ðệ Tứ (956-972 sau Công Nguyên) trên một tấm
bia khắc lời tuyên bố: "Không ai mà chỉ có các Bồ Tát mới trở thành Vua
của Sri Lanka (Ceylon)". Như vậy người ta tin rằng những vị Vua của Sri
Lanka đều là Bồ Tát cả.
Một Hòa Thượng tên
Maha-Tipika Culabhaya viết cuốn Malinda-Tika (vào khoảng thế kỷ
12 sau Công Nguyên) theo truyền thống Nguyên Thủy của Mahavihara tại
Anudhapura, trong phần cuối có ghi ông mong muốn trở thành Phật: Buddho
Bhaveyam "Tôi muốn trở thành Phật" có nghĩa tác giả là một vị Bồ Tát.
Chúng tôi tình cờ thấy
phần cuối của một số bài viết tay trên lá cây cọ tại Sri Lanka có ghi tên
và trên cả một số bản sao có ghi lời nguyện muốn trở thành Phât, và những
người này tự coi mình như các Bồ Tát. Vào cuối các cuộc lễ hay để tỏ lòng
sùng đạo, vị tỳ kheo thường đưa ra lời nguyện cầu, khuyên nhủ giáo đoàn
phát nguyện đạt Niết Bàn bằng cách thực hiện ba giác ngộ - Thinh Văn
- Duyên Giác hay Bồ Tát - như họ nguyện cầu tùy theo khả
năng.
Tại Sri Lanka, Myanmar,
Thái Lan, Campuchia, những nước được coi là Nguyên Thủy, rất nhiều Phật
Tử, cả tăng ni và cư sĩ, phát nguyện quyết tâm trở thành Phật để cứu độ
người khác. Họ thực ra là các Bồ Tát ở những giai doạn phát triển khác
nhau. Vì vậy có thể thấy rằng tại các quốc gia theo trường phái Tiểu Thừa,
không phải tất cả mọi người đều là Thinh Văn mà còn có cả Bồ Tát.
Có sự dị biệt lớn có ý
nghĩa giữa Nguyên Thủy và Ðại Thừa về lý tưởng Bồ Tát. Nguyên Thủy, mặc
dầu giữ lập trường lý tưởng Bồ Tát là cao nhất và cao thượng nhất, không
cung cấp tác phẩm riêng biệt nào dành cho chủ đề. Những giáo lý về lý
tưởng Bồ tát và hành động Bồ Tát tìm thấy rải rác tại nhiều nơi trong kinh
sách Pali. Ðại Thừa theo định nghĩa dâng hiến cho lý tưởng Bồ Tát, không
những chỉ sáng tạo một kho tàng văn chương xuất sắc về chủ đề mà còn tạo
ra giới Bồ tát huyền bí thật hấp dẫn.
---o0o---
Mục Lục
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|10
| 11
|12
|13
|
14
|
15
16
|17
|
18
|19
|
20
|
21
|
22
|
23
|
24
|
25
|
26
|
27
|
28
|
29
|
30
|
31
---o0o---
Source :
BuddhaSasana Home Page
Cập
nhật: 1-12-2002