ĐẠI
LÃO HÒA
THƯỢNG
DHAMMANANDA
NHÀ
TRUYỀN
GIÁO
NỒI
TIẾNG
CỦA
MÃ
LAI
Thích
Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2006
Sau
khi
thiết
lập
ngôi
Tam
Bảo
tại
vườn
Lộc
Uyển,
cổ
thành
Ba
La
Nại,
Đức
Thế
Tôn
đã
gởi
60
vị
Tỳ
kheo
A
La
Hán
đến
các
tỉnh
thành
Ấn
Độ
để
giáo
hóa
chúng
sinh,
mang
ánh
sáng
của
Chánh
Pháp
để
làm
an
lạc
cuộc
đời.
Trước
đó,
Đức
Phật
đã
khuyên
nhủ
các
đệ
tử
nên
cống
hiến
cuộc
đời
của
mình
cho
mục
đích
giáo
hóa
độ
sanh:
"Hãy
ra
đi
này
các
Tỳ
kheo,
vì
sự
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
số
đông,
vì
sự
tốt
đẹp
cho
đời,
vì
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
chư
thiên
và
loài
người.
Không
nên
đi
hai
người
cùng
một
chỗ...(Go
forth,
O
monks,
for
the
benefit
and
happiness
of
the
many,
for
the
good
of
the
world,
for
the
welfare
and
happiness
of
gods
and
men!
Let
not
the
two
of
you
go
the
same
way...).
Hơn
hai
ngàn
năm
sau,
bức
thông
điệp
cao
quý
ấy
vẫn
được
duy
trì
và
thực
hiện
tốt
đẹp
bởi
các
đệ
tử
của
Ngài.
Trong
các
nhà
truyền
giáo
Tích
Lan
trong
thế
kỷ
20
này
như
Pháp
sư
Anagarika
Dharmapala,
Narada
Maha
Thera,
Sayadaw
U
Thitilla
và
Piyadassi
Maha....Đặc
biệt
tại
Mã
Lai,
các
nhà
truyền
giáo
tiên
phong
có
Hòa
thượng
A.
Pemaratana
tổ
khai
sơn
chùa
Mahindarama
tỉnh
Penang,
Hòa
thượng
tiến
sĩ
Sumangala,
Hòa
thượng
K
Gunaratana
Nayaka
Thera,
Hòa
thượng
Kim
Beng,
Hòa
thượng
Chuk
Mor
và
Hòa
thượng
Dhammananda.
Cả
ba
vị
đầu
đều
đã
viên
tịch,
nay
chỉ
còn
lại
HT.
Dhammananda,
81
tuổi,
một
người
vẫn
hoạt
đôﮧ
tích
cực
để
chấn
hưng
PG
tại
Mã
Lai
và
cũng
được
xem
là
người
có
công
tạo
dựng
nền
tảng
cho
PG
Nam
Tông
tại
Mã
Lai.
Thuở
Thiếu
Thời:
Hòa
thượng
Dhammananda,
thế
danh
Martin
(vì
sanh
ra
trong
thời
gian
đô
hộ
của
Thực
dân
Anh
quốc,
nên
phải
dùng
tên
tiếng
Anh),
sinh
ngày
18
tháng
3
năm
1919
trong
một
gia
đình
trung
lưu,
cha
là
cụ
ông
K.
A.
Garmage
tại
làng
Kirinde,
tỉnh
Matara,
miền
Nam
nước
Tích
Lan
(Ceylon),
Ngài
là
người
con
trưởng
trong
một
gia
đình
có
6
anh
chị
em.
Ngài
bắt
đầu
học
tiểu
học
năm
7
tuổi
tại
trường
làng
Kirinde.
Không
giống
như
những
làng
khác
ở
Tích
Lan,
Kirinde
chưa
bề
bị
tác
động
bởi
chiến
dịch
truyền
đạo
của
Ky
Tô
giáo.
Nhờ
thế
mà
PG
vẫn
còn
ảnh
hưởng
mạnh
mẽ
đến
sinh
hoạt
của
người
dân
và
ngôi
chùa
của
địa
phương.
Vì
vậy
PG
vẫn
còn
ảnh
hưởng
mạnh
mẽ
đến
sinh
hoạt
của
người
dân
và
ngôi
chùa
của
địa
phương.
Bên
cạnh
người
mẹ
mộ
đạo,
ngài
được
người
cậu
ruột
là
một
Tăng
sĩ
trụ
trì
ngôi
chùa
của
địa
phương
này
giúp
đỡ
và
hướng
dẫn
ngài
học
Phật
chẳng
bao
lâu
ý
tưởng
xuất
gia
học
đạo
phát
khởi
trong
tâm
hồn
của
ngài.
Năm
12
tuổi,
Ngài
xuất
gia
làm
chú
tiểu
(samanera)
với
Hòa
thượng
K
Dhammaratana
Maha
Thera
ở
chùa
Kirinda
với
pháp
danh
là
Dhammananda,
(Pháp
Hỷ,
nghĩa
là
"người
chứng
nghiệm
hạnh
phúc
qua
giáo
Pháp"
(one
who
experiences
happiness
through
the
Dhamma).
Tiếp
đó
Ngài
được
gởi
vào
trường
để
học
Phật
Pháp
trong
vòng
10
năm
trước
khi
đăng
đàn
thọ
Tỳ
kheo
giới
(Bhikkhu)
vào
năm
Ngài
22
tuổi
(1940).
Hòa
thượng
đàn
đầu
trong
giới
đàn
này
là
Trưởng
Lão
K.
Ratanapala
Maha
Thera
tại
chùa
Kotawila.
Tu
học
tại
Tích
Lan
:
Tiếp
đó
ngài
đã
ghi
danh
vào
học
trường
Dhammarama
Pirivena
và
rồi
Học
viện
Phật
giáo
Vidyawardhana
tại
thủ
đô
Colombo,
niên
khóa
1935-1938.
Giáo
sư
chính
thức
của
Ngài
là
HT.
Kotawila
Deepananda
Nayaka
Thera.
Năm
1938,
Ngài
tốt
nghiệp
tại
trường
này
và
tiếp
tục
học
tại
trường
Vidyalankara
Pirivena,
ở
Peliyagoda,
là
một
đại
học
Phật
giáo
rất
nổi
tiếng
ở
Tích
Lan
vào
thời
bấy
giờ.
Trong
bảy
năm
lưu
học
tại
đây,
ngài
đã
học
Pali,
Sanskrit,
Triết
học,
Tam
Tạng
Kinh
Điển
và
nhiều
môn
học
xã
hội
khác
để
trang
bị
cho
chương
trình
giáo
dục
phổ
cập
và
hoằng
dương
Phật
Pháp
của
ngài
về
sau.
Ở
tuổi
26,
Ngài
đã
hoàn
tất
chương
trình
học
tại
nơi
đây.
Bảy
năm
được
đào
tạo
trong
môi
trường
Phật
học
và
lối
sống
nghiêm
khắc
của
Tu
viện
tại
đây
đã
mang
lại
những
hữu
ích
về
sau
trong
sứ
mạng
truyền
giáo
của
Ngài.
Vị
Pháp
sư
tinh
thần
của
Ngài
tại
đại
học
này
là
Trưởng
lão
Lunupokune
Sri
Dhammananda
Nayaka
Thera,
một
bậc
học
giả
uyên
bác
của
Phật
giáo
Tích
Lan.
Tu
học
tại
Ấn
Độ:
Tiếp
đó,
vào
năm
1945,
HT.
Dhammananda
được
đại
học
Hindu,
Ấn
Độ
cấp
học
bổng
và
Ngài
đã
lên
đường
du
học.
Bạn
cùng
khóa
với
ngài
lúc
ấy
hiện
nay
còn
Hòa
thượng
P.
Pannananda
Nayaka
Maha
Thera,
(đang
ở
Tích
Lan);
Hòa
Thượng
Tiến
sĩ.
H.
Saddhatissa
Maha
Thera
(ở
Luân
đôn);
Hòa
thượng
Tiến
sĩ
U.
Dhammaratana
(chủ
tịch
Hội
Đại
Bồ
Đề,
Ấn)
và
Hòa
thượng
Tiến
sĩ
Amritananda
Thera
(Chủ
Tịch
Hội
Đồng
Tăng
Già
Nepal).
Sau
bốn
năm
học
tại
đây,
HT.
Dhammananda
đã
tốt
nghiệp
với
bằng
cấp
Cao
học
về
Triết
học
Ấn
Độ
vào
năm
1949.
Một
trong
số
những
giáo
sư
nổi
tiếng
của
Ngài
tại
đại
học
này
là
cố
Tiến
sĩ
S.
Radhakrishnan,
cũng
là
vị
tổng
thống
đầu
tiên
của
Cộng
Hòa
Ấn
Độ.
Hoằng
Pháp
tại
quê
nhà:
Sau
khi
tốt
nghiệp,
Ngài
trở
về
Tích
Lan
và
mở
một
Trường
Phật
giáo
Sudharma
tại
Kotawila
để
giúp
cho
dân
chúng
học
Phật.
Ngài
cũng
cho
phát
hành
một
tờ
báo
tiếng
Tích
Lan
để
phổ
biến
giáo
lý.
Những
lớp
giáo
lý,
những
bài
thuyết
pháp
và
nhiều
hoạt
động
giáo
dục
khác
của
ngài
đều
truyền
cảm
hứng
đẹp
đẽ
cho
dân
làng
quy
hướng
về
Chánh
Pháp.
Trong
số
những
vị
phụ
giúp
Ngài
lúc
đó
có
Đại
đức
K.Pemaloka
và
đại
đức
K.
Hemasiri,
những
người
về
sau
vẫn
theo
Ngài
đến
Mã
Lai
để
tiếp
tục
công
tác
truyền
giáo
tại
Brickfields.
Sứ
mạng
truyền
giáo
tại
Mã
Lai:
Năm
1952,
Hòa
thượng
K.
Sri
Pannasara
Nayaka
Thera,
Viện
Trưởng
Tu
viện
Vidyalanakara
Pirivena,
đã
nhận
một
lá
thư
từ
Hội
PG
Sasana
Abhiwurdhi
Wardhana,
Mã
Lai.
Hội
này
có
một
ngôi
chùa
ở
Brickfields,
được
xem
là
một
Hội
PG
lâu
đời
nhất
trong
cộng
đồng
Tích
Lan
tại
Mã
Lai.
Hội
muốn
thỉnh
cầu
một
vị
Tăng
mã
Lai
để
hướng
dẫn
đời
sống
tâm
linh
cho
cộng
đồng
Tích
Lan
tại
xứ
sở
này.

Hòa
Thượng
Dharmananda
với
chư
Tăng
Mã
Lai
|
Trong
số
400
Tăng
sĩ
ở
tu
viện
Vidyalankara
Pirivena,
Tỳ
kheo
Dhammananda
đã
được
tuyển
chọn
để
gởi
đi
hoằng
Pháp
tại
Mã
Lai.
Ngài
đã
sẵn
lòng
tiếp
nhận
lời
thỉnh
cầu
này
dù
Ngài
rất
muốn
ở
lại
quê
nhà
để
hoằng
Pháp.
Tuy
nhiên,
Ngài
ý
thức
được
rằng
tại
quê
nhà
còn
nhiều
vị
tăng
khác
có
thể
làm
công
tác
hoằng
pháp,
trong
khi
ấy
tại
Mã
Lai,
nhu
cầu
chấn
hưng
Phật
Pháp
là
việc
khẩn
thiết,
vì
vào
thời
điểm
ấy
tình
hình
PG
tại
Mã
Lai,
dù
có
nhiều
chùa
người
Trung
Hoa,
nhưng
phần
lớn
không
có
giảng
dạy
giáo
lý
và
tổ
chức
tu
học
mà
chỉ
nặng
phần
lễ
nghi
và
cúng
kiến.
Do
đó
HT.
Dhammananda
quyết
định
lên
đường
trong
một
thời
gian
ngắn.
Ngài
đã
xuống
tàu
thủy
vào
sáng
ngày
2
tháng
giêng
năm
1952.
Ba
ngày
sau
Ngài
đã
đến
được
cảng
Penang,
miền
Bắc
của
Mã
Lai.
Sự
nghiệp
hoằng
Pháp
tại
Mã
Lai:
Khi
đến
Penang,
Ngài
lưu
trú
tại
chùa
Mahindarama
trước
khi
đón
máy
bay
đến
chùa
Brickfields
ở
Kuala
Lumpur.
Tháng
3
năm
1952,
Ngài
nhận
được
một
lá
thư
của
Tổng
Toàn
quyền
Anh
tại
Mã
Lai,
ông
Gerald
Templer,
yêu
cầu
được
gặp
Ngài
để
tìm
hiểu
xem
Phật
Pháp
có
mối
liên
hệ
nào
với
ý
thức
hệ
Cộng
sản
(Communist
ideology)
chăng.
Vì
lúc
bấy
giờ
có
nhiều
nguồn
tin
cho
rằng
sẽ
có
những
cuộc
nổi
dậy
chống
chính
quyền
từ
các
cộng
đồng
PG
người
Hoa.
Những
ý
tưởng
sai
lầm
về
PG
của
ông
Toàn
quyền
Gerald
đã
được
HT.
Dhammananda
đả
thông
và
hướng
dẫn
ông
ta
trở
về
nghiên
cứu
Đạo
Phật.
Ngài
nói
với
ông
ta
rằng
"Đạo
Phật
là
một
tôn
giáo
từ
bi
và
không
bạo
động
vì
Đức
Phật
hướng
dẫn
con
người
sống
trong
hòa
hợp
và
hòa
bình
với
chính
mình
và
người
khác"
(Buddhism
is
a
non-violent
and
compassionate
religion
taught
by
the
Buddha
to
show
Man
to
live
in
peace
and
harmony
with
oneself
and
others).
Hòa
thượng
Dhammananda
nhấn
mạnh
thêm
rằng
Đạo
Phật
dạy
cho
con
người
tu
tập
tâm
linh
và
sống
có
đạo
đức,
trong
khi
Cộng
sản
là
một
phong
trào
chính
trị.
Đoán
chắc
HT.
Dhammananda
không
phải
là
"đơn
vị
thứ
năm"
của
Cộng
sản,
toàn
quyền
Gerald
đã
mời
Hòa
thượng
giúp
đỡ
chính
quyền
về
mặt
tâm
lý
để
trấn
an
quần
chúng,
nhất
là
cộng
đồng
di
dân
người
Hoa
tại
Mã
Lai,
vì
chính
quyền
hồ
nghi
rằng
cộng
đồng
này
có
khuynh
hướng
theo
chủ
nghĩa
Cộng
sản.
Hòa
thượng
Dhammananda
đã
nắm
lấy
cơ
hội
ấy
để
mở
rộng
chương
trình
hoằng
Pháp
của
Ngài
trên
khắp
Mã
Lai.
Ngài
đã
giúp
cho
Hội
PG
Sasana
Abhiwurdhi
Wardhana
và
Trung
Tâm
PG
Selangor
cũng
như
Hội
Liên
Hữu
PG
Thế
giới
tại
Mã
Lai
đẩy
mạnh
công
tác
truyền
giáo.
Kết
quả
cho
thấy
cộng
đồng
người
Hoa
đã
quy
hướng
về
với
đạo
Phật
rất
nhiều.
Trong
hai
thập
niên
1950
và
1960,
PG
Mã
Lai
rất
nghèo
nàn
ở
trong
hầu
hết
các
cộng
đồng.
PG
trong
thời
kỳ
này
chỉ
là
một
vỏ
bọc
đầy
những
sinh
hoạt
mê
tín
dị
đoan,
tràn
lan
trên
khắp
Mã
Lai.
Phần
lớn
người
Hoa
trí
thức
đều
chán
ngán
và
bỏ
theo
đạo
Ky
Tô,
vì
họ
nhìn
thấy
Ky
Tô
giáo
có
nhiều
sinh
hoạt
tôn
giáo
tích
cực,
rõ
ràng,
hợp
lý
hơn
do
các
nhà
truyền
giáo
nước
ngoài
mang
vào.
HT.
Dhammananda
cố
gắng
loại
bỏ
những
quan
điểm
sai
lầm
về
PG
trong
tâm
trí
của
quần
chúng
ở
Mã
Lai.
Ngài
đã
phát
động
một
phong
trào
diễn
thuyết
PG
rầm
rộ
trên
toàn
Mã
Lai,
phụ
tá
của
Ngài
bây
giờ
có
các
vị
Tỳ
kheo
như
K
Gunaratana,
Chuk
Mor
and
Tỳ
kheo
Tiến
sĩ
người
Mỹ
Sumangalo
đã
làm
cho
phong
trào
ngày
càng
thêm
thu
hút
và
nhiều
kết
quả
khả
quan.
Sự
phát
triển
của
tổ
chức
hoằng
Pháp:
Năm1961,
HT.
Dhammananda
đã
thảo
luận
với
các
nhà
lãnh
đạo
cư
sĩ
PG
Mã
Lai
để
thành
lập
một
tổ
chức
truyền
bá
lời
Phật
dạy
để
đáp
ứng
lại
nhu
cầu
bức
thiết
của
Mã
Lai.
Năm
1962,
Hội
Truyền
Bá
Chánh
Pháp
(Buddhist
Missionary
Society/BMS)
đã
được
thành
lập
tại
chùa
PG
Brickfields
với
các
mục
tiêu:
Học
hỏi,
quảng
bá
PG
và
văn
hóa
PG;
khuyến
khích
và
cổ
võ
mọi
người
học
hỏi
và
hành
trì
Phật
Pháp;
in
ấn
và
phát
hành
Kinh
sách
PG;
cung
cấp
những
pháp
môn
phù
hợp
để
mọi
người
thực
hành;
an
ủi,
hướng
dẫn,
giúp
đỡ
cho
mọi
Phật
tử
trong
các
trường
hợp
đau
bệnh
hay
chết
chóc
v.v...
HT.
Dhammananda
nghĩ
rằng
một
trong
những
phương
cách
để
truyền
bá
PG
là
viết
sách
về
nhiều
lĩnh
vực
khác
nhau
để
người
tín
đồ
có
thể
nương
theo
đó
mà
hành
trì
trong
đời
sống
hằng
ngày.
Vì
thế
Ngài
bắt
đầu
viết
những
bài
báo,
rồi
những
cuốn
sách
nhỏ
bỏ
túi,
nội
dung
của
sách
phản
ảnh
những
thắc
mắc
của
người
Mã
Lai.
Một
trong
những
tập
sách
đầu
tiên
là
hướng
dẫn
cách
trì
tụng
Kinh
tiếng
Pali
của
Đạo
Phật
sao
cho
tương
hợp
với
thời
khoa
học
và
tâm
lý
học.
Từ
đó
Ngài
tiếp
tục
viết
nhiều
tác
phẩm
khác
để
cung
ứng
cho
nhu
cầu
học
Phật
của
tín
đồ
tại
Mã
Lai.
Tính
đến
nay
Ngài
đã
viết
trên
dưới
50
tác
phẩm,
trong
số
này
có
nhiều
tác
phẩm
đặc
sắc
như
"Người
Phật
Tử
phải
tin
gì
?"
(What
Buddhists
believe);
"Làm
thế
nào
để
sống
khỏi
sợ
hãi
và
lo
lâu"
(How
to
live
without
fear
and
worry);
"Bạn
có
tin
tái
sinh
không?''
(Do
you
believe
in
Rebirth);
"Hạnh
Phúc
lứa
đôi"
(A
happy
married
life);
"Thiền
Định,
con
đường
duy
nhất"
(Meditation,
the
Only
way);
"Kho
báu
của
Chánh
Pháp"
(Treasures
of
the
Dhamma)..v.v...
các
tác
phẩm
đã
nhanh
chóng
thu
hút
mọi
giới
Phật
tử
Mã
Lai
và
đến
nay
những
tác
phẩm
này
đã
được
dịch
ra
nhiều
thứ
tiếng
trên
thế
giới
như
Ấn
Độ,
Nam
Dương,
Triều
Tiên,
Mỹ
Nam
Phi,
Bangladesh,
Hòa
Lan,
Việt
Nam..v.v....
Đây
là
lần
đầu
tiên
nền
giáo
dục
PG
bằng
tiếng
Anh
được
phổ
biến
trong
giới
Phật
tử
ở
Mã
Lai,
trước
đó
chỉ
có
những
Kinh
sách
được
viết
chữ
Tàu.
Sự
tác
động
mạnh
này
nhanh
chóng
ảnh
hưởng
đến
giới
thanh
thiếu
niên
Mã
Lai.
Kết
quả,
HT.
Dhammananda
đã
nhận
hàng
núi
thư
từ
mọi
giới,
đặc
biệt
là
học
sinh
và
sinh
viên
để
tìm
hiểu
về
Phật
học.
Mặc
dù
không
phải
là
một
nhà
Pháp
sư
hùng
biện,
nhưng
HT.
Dhammananda
đã
làm
say
đắm
giới
trẻ
với
những
bài
giảng
mang
tính
khoa
học,
trong
sáng
và
rõ
ràng
của
Ngài.
Điều
này
đã
giúp
cho
nhiều
hội
đoàn
thanh
niên
Phật
tử
ra
đời
trong
thập
niên
sáu
mươi.
Rất
nhiều
giới
trẻ
hoặc
đã
nghe
giảng
hoặc
đã
đọc
sách
của
Ngài
mà
quy
hướng
về
với
Chánh
Pháp.
Ngoài
những
ảnh
hưởng
bên
ngoài
xã
hội,
HT.
Dhammananda
cũng
có
công
đưa
PG
vào
trong
học
đường
Mã
Lai.
HT.
Dhammananda
đã
kết
hợp
với
Thượng
tọa
tiến
sĩ
Sumangalo,
một
Tăng
sĩ
người
Mỹ,
thành
lập
một
Học
viện
PG
để
làm
việc
với
đại
học
Malaya,
đại
học
Sains
Malaysia,
đại
học
Pertanian,
Cao
đẳng
Kỹ
thuật
Malaysia,
Viện
Ngôn
ngữ
Mã
Lai,
Trường
Đại
Học
Sư
Phạm
Mã
Lai,
Trường
Cao
đẳng
Tunku
Abdul
Rahman,
Trường
Cao
đẳng
Quân
sự
Hoàng
gia
(Royal
Military
college)
và
gần
đây
nhất
là
đại
học
Utara
Malaysia
ở
Kedah.
Tất
cả
những
sinh
viên
của
các
trường
trên
đều
có
học
những
giờ
căn
bản
về
giáo
lý
Phật
giáo
do
HT.
Dhammananda
và
nhiều
Pháp
sư
khác
giảng
dạy.
Để
khuyến
khích
và
cổ
động
tầng
lớp
trẻ
học
và
làm
việc
Phật,
tổ
chức
của
Ngài
đã
thu
nhận
giới
trẻ
vào
làm
việc
cho
các
cơ
sở
hoằng
Pháp,
Học
viện,
in
ấn
và
phát
hành
kinh...
đã
có
rất
nhiều
cư
sĩ
tham
gia
và
đã
trở
thành
những
người
lãnh
đạo
các
hội
đoàn
cư
sĩ
Phật
tử,
nổi
bật
trong
số
hiện
nay
có
các
đạo
hữu
như
Mess
Tan
Gin
Soon,
Leong
Kok
Hing,
Ang
Choo
Hong,
Charlie
Chia
và
Victor
Wee,
tất
cả
đều
được
ảnh
hưởng
đến
đạo
đức
và
tác
phong
làm
việc
của
HT.
Dhammananda.
Sự
thừa
nhận
và
tán
dương
về
công
hạnh
hoằng
Pháp:
Để
thừa
nhận
và
tuyên
dương
các
công
đức
hoằng
pháp
của
HT.
Dhammananda
tại
Mã
Lai,
Tăng
thống
PG
Thái
Lan,
Đại
lão
Hòa
thượng
Amunugama
Rajaguru
Sri
Vipassi
Maha
Nayaka
Thera
ở
Chùa
Răng
Phật
(Buddha
Tooth
Relic),
đã
phong
ban
cho
Ngài
danh
hiệu
"Đại
đạo
sư"
(Chief
Sangha
Nayaka
Thera)
của
PG
Mã
Lai
vào
năm
1965.
Ngài
cũng
được
cung
thỉnh
vào
Ban
chứng
minh
cho
đại
hội
lần
thứ
9
của
Hội
Liên
Hữu
PG
Thế
giới
(World
Buddhist
Followship)
nhóm
tại
Kuala
Lumpur
từ
ngày
13
đến
20
tháng
4
năm
1969.
Trong
kỳ
đại
hội,
Ngài
cũng
được
tuyên
dương
là
một
danh
tăng
của
PG
Mã
Lai.
Vào
năm
1970,
HT.
Dhammananda
khởi
xướng
và
làm
cố
vấn
tinh
thần
cho
Hội
Thanh
Niên
Phật
Tử
Mã
Lai
(The
Young
Buddhist
Association
of
Malaysia
(YBAM)
đây
là
một
tổ
chức
đại
diện
cho
tất
cả
các
hội
đoàn
Phật
tử
trẻ
tuổi
tại
Mã
Lai,
hiện
nay
vẫn
còn
hoạt
động
rất
mạnh.
Từ
năm
1970
đến
1975,
HT.
Dhammananda
khởi
đầu
những
chuyến
đi
hoằng
Pháp
thế
giới.
Trước
hết
ngài
đến
Anh
quốc
giảng
tại
Lancaster
University,
Hull
University,
Manchester
University
và
Oxford
University.
Sau
đó
Ngài
đến
Hoa
Kỳ
và
được
thỉnh
giảng
tại
Dhamma
Realm
University
và
Trường
University
of
Oriental
Studies,
trong
dịp
này
Trường
đại
học
Pháp
giới
(Dhamma
Realm
University)
đã
phong
tặng
bằng
Tiến
sĩ
danh
dự
(Honorary
Doctor
of
Philosophy
degree)
để
ghi
nhận
và
tán
thán
công
hạnh
hoằng
Pháp
và
những
công
trình
sáng
tác
của
ngài.
Bằng
cấp
này
cũng
được
các
đại
học
khác
phong
tăng
cho
ngài
đại
học
Đông
Phương
(University
of
Oriental
Studies)
năm
1975,
đại
học
Nalanda
ở
Pháp
vào
năm
1976
và
đại
học
Benares
Hindu,
Ấn
Độ
năm
1980,
và
đại
học
ở
Sri
Lanka
vào
năm
1991,
ban
tặng
cấp
bằng
Tiến
sĩ
văn
chương
(D.
Litt.)
để
thừa
nhận
những
tác
phẩm
Phật
học
giá
trị
của
Ngài
đã
mang
lại
nhiều
lợi
ích
thiết
thực
nền
giáo
dục
tôn
giáo
tại
Tích
Lan.
Thiết
lập
chương
trình
đào
tạo
tăng
tài
ở
Mã
Lai:
Vào
tháng
12
năm
1976,
HT.
Dhammananda
đã
khởi
xướng
và
làm
giám
đốc
chương
trình
đào
tạo
tăng
tài
cho
PG
Mã
Lai,
chương
trình
đã
được
khắp
nơi
ở
Mã
Lai
áp
dụng
và
thành
công
đáng
kể,
ngay
cả
ở
Singapore
cũng
làm
theo
mô
hình
này.
Đến
nay
chương
trình
vẫn
được
duy
trì
và
số
thanh
niên
Mã
Lai
phát
tâm
xuất
gia
ngắn
hạn
ngày
càng
đông.
Hòa
Thượng
Dharmananda
đang
giảng
Pháp
cho
Tăng
sinh
Mã
lai
Vào
ngày
25
tháng
3
năm
1977,
HT.
Dhammananda
đã
thành
lập
Viện
Phật
Học
Paramadhamma
ở
Tích
Lan
để
tăng
sĩ
khắp
nơi
trên
thế
giới
về
tu
học.
Chương
trình
đào
tạo
từ
ba
đến
năm
năm,
hoặc
những
khóa
ngắn
hạn
cho
những
tăng
sĩ
hoặc
cư
sĩ
lớn
tuổi
để
đưa
đi
hoằng
pháp
ngay
sau
khóa
học.
Những
đóng
góp
cho
xã
hội:
Ngoài
những
hoạt
động
Phật
sự,
HT.
Dhammananda
còn
có
nhiều
đóng
góp
để
phát
triển
cộng
đồng.
Năm
1960,
Ngài
là
một
trong
những
vị
lãnh
đạo
PG
Mã
Lai
đứng
lên
đòi
hỏi
chính
phủ
Mã
Lai
tuyên
bố
ngày
lễ
Phật
Đản
là
ngày
nghỉ
của
toàn
dân,
lời
yêu
cầu
đã
được
chấp
thuận
và
vẫn
duy
trì
cho
đến
ngày
nay.
Giữa
những
năm
1960,
Ngài
hoạt
động
tích
cực
với
Tổ
chức
liên
tôn
giáo
Mã
Lai
(Malaysian
Inter-Religious
Organisation
MIRO)
để
kêu
gọi
các
tôn
giáo
có
mặt
ở
Mã
Lai
nên
sinh
hoạt
trong
sự
hài
hòa
và
tương
kính
lẫn
nhau.
Năm
1984,
Ngài
là
một
trong
những
thành
viên
sáng
lập
của
Hội
đồng
Tư
Vấn
Tôn
giáo
(Religious
Consultative
Council),
bao
gồm
PG,
Hồi
giáo,
Ky
Tô
giáo
để
giúp
cho
chính
quyền
có
những
chính
sách
đúng
đắn
đối
với
các
tôn
giáo.
Do
những
hoạt
động
tích
cực
đóng
góp
cho
xã
hội
này
mà
ngày
7
tháng
6
năm
1991,
Hoàng
đế
của
Mã
Lai
đã
phong
tặng
cho
Ngài
tước
vị
cao
quý
"Johan
Setia
Mahkota".
Sự
nghiệp
trước
tác:
Ngoài
những
thời
thuyết
giảng
giáo
lý
sâu
sắc,
rõ
ràng
và
dễ
hiểu,
Hòa
thượng
Dhammananda
còn
cống
hiến
cho
hàng
vạn
độc
giả
trên
khắp
thế
giới
qua
những
tác
phẩm
Phật
học
của
ngài.
Từ
những
tập
sách
nhỏ
bỏ
túi
cho
đến
những
tập
sách
dày
mấy
trăm
trang
với
nội
dung
phổ
cập
cho
mọi
tầng
lớp,
từ
học
giả
uyên
bác
cho
đến
học
sinh
tiểu
học
đều
có
thể
đọc
và
tiếp
nhận
lời
dạy
của
ngài.
Qua
ngòi
bút
của
ngài,
giáo
lý
thâm
diệu
của
Đạo
Phật
trở
nên
dễ
hiểu,
gần
gũi
và
giải
quyết
thỏa
đáng
từng
vần
đề
của
đời
sống
hiện
tại.
Tác
phẩm
của
ngài
đã
được
chuyển
ngữ
ra
nhiều
thứ
tiếng
trên
thế
giới,
không
những
nó
được
Phật
tử
tìm
đọc
mà
những
người
không
Phật
tử
cũng
say
mê
không
kém.
Sau
đây
là
một
số
tác
phẩm
của
ngài:
Tại
sao
phải
lo
âu
(Why
worry?)
Hạnh
phúc
lứa
đôi
(A
Happy
Married
life).
Tại
sao
phải
có
Đạo
Phật
(Why
Buddhism?)
Tại
sao
phải
có
Tôn
giáo
?
(Why
Religion
?)
Những
gì
người
Phật
tử
tin
(What
Buddhists
believe).
Nhân
loại
hướng
về
đâu
(Whither
Mankind).
Tôn
giáo
nầy
là
gì
(What
is
this
Religion)
Kho
báu
của
Chánh
pháp
(Treasure
of
the
Dhamma)
Phật
giáo
như
một
Tôn
giáo
(Buddhism
as
a
Religion)
Kinh
Nhật
Tụng
của
Phật
Tử
(Daily
Buddhist
Devotions)
Bạn
có
tin
tái
sinh
không
?
(Do
you
believe
in
Rebirth
?)
Thiền
định,
con
đường
duy
nhất
(Meditation,
the
only
way)
Cẩm
nang
của
Phật
tử
(Handbook
of
Buddhists)
Tôn
giáo
trong
thời
đại
khoa
học
(Religion
in
a
Scientific
Age)
Những
viên
ngọc
của
trí
tuệ
PG
(Gems
of
Buddhist
Wisdom)
Tại
sao
phải
có
bao
dung
về
Tôn
giáo
(Why
Religion
tolerance
?)
Địa
vị
của
Nữ
giới
trong
Phật
giáo
(Status
of
Women
in
Buddhism)
Cuộc
sống
con
người
và
những
vấn
nạn
(Human
life
and
Problems)
Phật
giáo
và
những
nhà
Tư
Tưởng
Tự
do
(Buddhism
and
the
Free
Thinkers)
Những
nhân
vật
vĩ
đại
trong
Phật
giáo
(Great
personalities
on
Buddhism)
Làm
sao
sống
mà
không
sợ
hãi
và
lo
âu
(How
to
live
without
fear
and
worry)
Phật
giáo
dưới
con
mắt
của
các
nhà
trí
thức
(Buddhism
in
the
Eyes
of
Intellectuals)
Nguyên
tắc
đạo
đức
của
PG
đối
với
phẩm
cách
của
con
người
(Buddhist
Principles
for
Human
Dignity).
Kinh
Pháp
Cú
với
tranh
minh
hoạ
và
truyện
tích
(The
Dhammapada
with
illustrations
and
stories)
Vì sao tin Phật.
HT.K. Sri Dhammananda. Thích
Tâm Quang dịch.
Mục đích cuộc đời & đường lối sống.
HT. Dhammananda. Thích
Tâm Quang dịch.
Làm sao thực hành giáo lý của Đức Phật.
HT.Dhammananda. Thích
Tâm Quang dịch.Việt
Một tôn giáo hiện đại.
HT Dhammananda. T. Nguyên Tạng dịch.

Bìa
tập
sách
"Những
gì
người
Phật
tử
tin"
xuất
bản
lần
đầu
tiên
năm
1964,
một
trong
những
tác
phẩm
phổ
biến
của
HT.
Dhammananda
Tất
cả
những
tác
phẩm
trên
đều
được
in
và
phát
không
cho
người
đọc,
xin
quý
độc
giả
liên
hệ
đến
địa
chỉ
sau
đây
để
nhận
sách
miễn
phí:
The
Corporate
Body
of
the
Buddha
Educational
Foundation
11th
Floor,
55,
Hang
Chow
S.Rd.
Sec
1,
Taipei,
Taiwan
R.O.C
.
Tel:
(02)
3951198
.
Fax:
(02)
3913415
Kết
luận:
Không
còn
nghi
ngờ
gì
nữa,
Hòa
thượng
Dhammananda
đã
có
những
đóng
góp
to
lớn
trong
phong
trào
phục
hưng
lại
PG
Mã
Lai
trong
bốn
thập
niên
qua.
Nhiều
tăng
sĩ
Therevada
gốc
Mã
Lai
đã
xuất
gia
tu
học
và
trở
thành
những
vị
tăng
tài
giỏi
cho
PG
Mã
Lai
như
đại
đức
Mahinda,
đại
đức
K.
L.
Dhammajothi
và
đại
đức
Sujivo,
đều
do
công
đào
tạo
của
Ngài.
Bên
cạnh
đó
ngài
còn
mời
gọi
những
nhà
truyền
giáo
khác
như
các
vị
Hòa
Thượng
Pandit
P
Pemaratana
Nayaka
Thera,
Hòa
Thượng
tiến
sĩ
H
Gunaratana
Thera,
Hòa
Thượng
Wimalajothi
Thera,
Hòa
Thượng
Dhammaratana
Thera,
và
nhiều
tăng
sĩ
khác
đến
Mã
Lai
để
giúp
Ngài
trong
công
tác
truyền
giáo.
Ngài
cũng
đã
hợp
tác
và
gần
gũi
với
những
nhà
truyền
giáo
Đại
thừa
khác
như
cố
Đại
lão
Hòa
Thượng
Tuyên
Hóa,
đến
từ
Vạn
Phật
Thánh
Thành,
Mỹ
quốc;
HT.
Tinh
Vân,
đến
từ
Phật
Quang
Sơn,
Đài
Loan;
Đức
Dalai
Lama
thứ
14
đến
từ
Ấn
Độ...
để
đem
lại
lợi
ích
cho
quần
chúng
Mã
Lai.
Ngài
được
xem
là
một
tăng
sĩ
Nam
Tông
phóng
khoáng,
cởi
mở
và
hợp
tác
với
những
tông
phái
khác
của
PG.
Khi
tham
dự
diễn
đàn
''Hai
bậc
Thầy
một
lời
dạy"
(Two
Masters
One
Message)
tổ
chức
ở
Penang,
với
sự
tham
dự
của
các
nhà
lãnh
đạo
PG
đến
từ
nhiều
tông
phái.
Ngài
đã
tuyên
bố
rằng:
do
nhu
cầu
của
con
người
mà
PG
có
Tiểu
Thừa
và
Đại
Thừa.
Đức
Phật
chỉ
nói
Pháp,
chứ
không
dạy
giáo
lý
cho
Tiểu
Thừa
và
Đại
Thừa
hoặc
Kim
Cương
Thừa.
Hòa
Thượng
Dharmananda
với
chư
Tăng
Ni
Mã
Lai
|
Dù
sinh
ra
và
lớn
lên
ở
Tích
Lan,
nhưng
Ngài
đã
cống
hiến
trọn
đời
mình
cho
sự
nghiệp
giáo
hóa
tại
Mã
Lai
trong
tinh
thần
vị
tha
và
vô
phân
biệt
đối
với
Phật
tử
thuộc
nhiều
sắc
tộc,
màu
da
và
truyền
thống
khác
nhau
tại
xứ
sở
này.
Đó
là
lý
do
tại
sao
Ngài
nhận
được
nhiều
sự
ủng
hộ,
tán
ngưỡng
và
kính
phục
của
quần
chúng
Phật
tử
và
nhiều
cộng
đồng
khác
ở
Mã
Lai
và
trên
thế
giới.
Rõ
ràng
là
Ngài
có
đầy
đủ
bảy
phẩm
hạnh
của
một
bậc
đại
nhân
(Seven
Noble
Qualities
of
a
Great
Man)
mà
Đức
Phật
đã
nói
trong
Kinh
Sakha
Sutta
(A.N.
4:31)
rằng:
"Ngài
là
người
đáng
yêu,
đáng
kính
trọng,
học
thức,
là
một
cố
vấn,
một
người
chịu
khó
lắng
nghe,
sâu
sắc
trong
đàm
luận
và
không
bao
giờ
chủ
trương
một
cách
vô
căn
cứ"
(He
is
lovable,
respectable,
cultured,
a
counsellor,
a
patient
listener,
profound
in
discourse
and
never
exhorting
groundlessly).
Hiện
nay
HT.
Dhammanda
tuy
đã
trên
tám
mươi
tuổi,
nhưng
ngài
vẫn
không
mệt
mỏi
trong
sứ
mệnh
giáo
hóa
ở
Mã
Lai.
Có
rất
nhiều
người
đã
đạt
được
an
lạc
và
hạnh
phúc
qua
công
lao
hoằng
Pháp
của
ngài.
Cách
tốt
nhất
để
mọi
người
đền
đáp
công
ơn
ấy
là
nghiêm
trì
Phật
hạnh
và
chia
xẻ
những
lợi
ích
ấy
cho
người
khác.
Nguyện
cầu
mười
phương
chư
Phật
gia
hộ
cho
Ngài
được
pháp
thể
khinh
an,
trụ
thế
lâu
dài
để
cho
tứ
chúng
tựa
nương
tu
học.
HT. Dhammanda
đã hành đạo không biết mệt mỏi cho đến khi viên tịch. Ngài đã
thuận thế vô thường an tường xả báo thân lúc 12.42 chiều ngày
31-08-2006. Thọ thế 87 tuổi, Hạ lạp 66 năm. Tang lễ của Cố Đại Lão Hòa
Thượng được tổ chức trọng thể tại Chùa Phật Giáo Maha ở thủ đô Kuala
Lumpur, sau đó Kim Quan của Ngài được đưa đi trà tỳ vào ngày 3-9-2006.
Thành kính nguyện cầu Giác Linh Cố Đại Lão Hòa Thượng cao đăng Phật quốc
và sớm tái sanh trở lại thế giới Ta Bà để tiếp tục công cuộc cứu khổ độ
sinh.
Quý vị có thể xem hình ảnh tang lễ và gởi điện thư kính viếng phân ưu,
kính mời vào đây,
http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=56,3100,0,0,1,0
Theo
tài
liệu:
A
Brief
Introduction
on
His
Life
and
Contributions
to
Malaysian
Buddhism
by
Benny
Liow
Woon
Khin,
9-2000,
và
nhiều
tài
liệu
khác.