...... ... |
. |
Luận Đại
Trí Độ
( Mahàprajnàparamitàsatra)
Tác giả:
Nàgàrjuna (Long Thọ)
Dịch Phạn ra Hán:
Cưu Ma La Thập
Dịch Hán ra Việt:
Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt
Nam
Ấn hành 1997
---o0o---
Tập
5
Cuốn 85
Giải thích: Phẩm Đạo
Thọ Thứ 71
(Kinh Đại Bát
nhã, Hội 2 ghi: Phẩm Thọ Dụ thứ 69)
Kinh: Tu Bồ Đề bạch
Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, Bát nhã ba la mật ấy rất sâu, các
Bồ Tát không thấy có chúng sinh, mà vì chúng sinh nên cầu Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, việc ấy rất khó. Thí như người
muốn trồng cây giữa hư không, Bạch Đức Thế Tôn, Bồ Tát cũng
như vậy. Vì chúng sinh nên cầu Vô thượng chánh đẳng chánh
giác, mà chúng sinh cũng không thể có được.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Như vậy, như vậy, việc làm của các Bồ Tát rất khó. Vì chúng
sinh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, độ chúng sinh
điên đảo chấp ngã. Thí như người trồng cây không biết gốc,
cành, nhánh, lá, hoa, quả của cây sẽ thế nào, mà ưa săn sóc,
tưới tẩm, dần dần cây lớn, hoa, lá, quả thành tựu đều dùng
được. Như vậy, các Bồ Tát vì chúng sinh nên cầu Vô thượng
chánh đẳng chánh giác, dần dần hành sáu Ba la mật, được trí
Nhất thiết chủng, thành cây Phật, dùng lá, hoa, quả làm lợi
ích chúng sinh.
Này Tu Bồ Đề, thế
nào là dùng lá lợi ích chúng sinh? Là nhân nơi Bồ Tát mà được
lìa ba ác đạo, ấy là lá lợi ích chúng sinh.
Thế nào là hoa lợi
ích chúng sinh? Là nhân nơi Bồ Tát được sinh dòng Sát đế lợi,
sinh dòng Bà la môn, đại gia cư sĩ, chỗ bốn thiên vương, cho
đến Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, vô tưởng, ấy là hoa lợi ích
chúng sinh.
Thế nào là quả lợi
ích chúng sinh? Ấy là nhân Bồ Tát được trí Nhất thiết chủng,
làm cho chúng sinh được quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hoàm, quả A
na hàm, quả A la hán, đạo Bích chi Phật và Phật đạo; chúng
sinh ấy dần dần dùng pháp ba thừa thủ chứng Vô dư Niết bàn; ấy
là quả lợi ích chúng sinh. Bồ Tát ấy không thấy có chúng sinh
thật mà độ chúng sinh, khiến xa lìa điên đảo chấp ngã, nghĩ
rằng: Trong hết thảy pháp không có chúng sinh. Ta vì chúng
sinh, cầu trí Nhất thiết chủng, mà chúng sinh ấy thật không
thể có được.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, nên biết Bồ Tát ấy như Phật, vì sao?
Vì nhân Bồ Tát ấy mà dứt hết thảy giống địa ngục, súc sinh,
ngạ quỷ dứt; dứt hết các nạn, dứt con đường nghèo cùng hạ
tiện; dứt hết cõi Sắc, cõi Vô sắc.
Phật dạy: Như vậy,
như vậy, Tu Bồ Đề, nên biết Bồ Tát ấy như Phật. Nếu Bồ Tát
không phát tâm cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác thì thế
gian không có Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không có
Bích Chi Phật, A la hán, A na hàm, Tư đà hàm, Tu đà hoàn; ba
đường ác và ba cõi cũng không có khi nào dứt. Này Tu Bồ Đề,
ông nói Bồ Tát ấy như Phật? Đúng như vậy. Nên biết Bồ Tát ấy
thật như Phật, vì sao? Vì Như nên nói là Như Lai; Vì Như nên
nói là Bích chi Phật, A la hán, hết thảy hiền thánh; vì Như
nên nói sắc cho đến thức; vì Như nên nói hết thảy pháp, cho
đến tính hữu vi, tính vô vi. Các Như ấy như thật không khác,
vì thế nên gọi là Như. Bồ Tát học Như ấy được trí Nhất thiết
chủng, được gọi là Như Lai. Vì nhân duyên ấy nên nói Bồ Tát
như Phật, vì tướng "Như" vậy. Như vậy, Bồ Tát nên học Như Bát
nhã ba la mật. Bồ Tát học Như Bát nhã ba la mật thì học được
hết thảy pháp Như; học hết thảy pháp Như thì được đầy đủ hét
thảy pháp Như; đầy đủ hết thảy pháp Như rồi, đối với hết thảy
pháp Như được tự tại; đối với hết thảy pháp Như được tự tại
rồi, khéo biết căn cơ của chúng sinh; khéo biết căn cơ của
chúng sinh rồi, biết chúng sinh có căn đầy đủ, biết chúng sinh
có nghiệp nhân duyên; biết chúng sinh có nghiệp nhân duyên rồi
được đầy đủ nguyện trí; đầy đủ nguyện trí rồi được thanh tịnh
trí tuệ ba đời; thanh tịnh trí tuệ ba đời rồi lợi ích hết thảy
chúng sinh; lợi ích hết thảy chúng sinh rồi nghiêm tịnh cõi
Phật; nghiêm tịnh cõi Phật rồi được trí Nhất thiết chủng; được
trí Nhất thiết chủng rồi chuyển pháp luân; chuyển pháp luân
rồi, an lập chúng sinh nơi ba thừa, khiến vào Vô dư Niết bàn.
Như vậy, Bồ Tát muốn được hết thảy công đức lợi mình, lợi
người, nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, các Bồ Tát hành được Bát nhã ba la mật
sâu xa đúng như kinh nói, thì hết thảy thế gian người, trời, A
tu la hãy nên kính lễ.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Như vậy, như vậy. Bồ Tát ấy hành được Bát nhã như kinh nói,
thì hết thảy thế gian người, trời, A tu la hãy nên kính lễ.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Nếu chúng sinh trong một ngàn thế giới đều phát tâm cầu Thanh
văn, Bích chi Phật, ý ông nghĩ sao, phước ấy nhiều chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Rất
nhiều, vô lượng.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Phước ấy không bằng Bồ Tát mới phát tâm trăm lần, ngàn lần;
ngàn vạn ức lần cho đến toán số thí dụ không thể sánh kịp, vì
sao? Vì người phát tâm cầu Thanh văn, Bích chi Phật đều nhân
nơi Bồ Tát mà ra, chứ Bồ Tát trọn không nhân nơi Thanh văn,
Bích chi Phật mà ra. Chúng sinh trong hai ngàn thế giới, thế
giới đại thiên ba ngàn cũng như vậy. Gác qua việc hàng Thanh
văn, Bích chi Phật trong thế giới đại thiên ba ngàn, nếu chúng
sinh trong thế giới đại thiên ba ngàn đều trú địa vị Càn tuệ,
phước ấy nhiều chăng?
Tu Bồ Đề thưa: Rất
nhiều, vô lượng.
Phật dạy: Chẳng
bằng Bồ Tát mới phát tâm trăm lần, ngàn lần; ngàn vạn ức lần
cho đến toán số thí dụ không thể sánh kịp. Gác qua việc chúng
sinh trú địa vị Càn tuệ, nếu chúng sinh trong thế giới đại
thiên ba ngàn đều trú ở Tính địa, Bát nhân địa, Tín địa, Bạ
địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Bích chi Phật địa, hết thảy
phước đức ấy muốn sánh với Bồ Tát mới phát tâm gấp trăm, gấp
ngàn; ngàn ức vạn lần cho đến toán số thí dụ cũng không thể
sánh kịp. Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát mới phát tâm trong thế giới
đại thiên ba ngàn không bằng Bồ Tát vào pháp vị gấp trăm,
ngàn, vạn, ngàn ức vạn lần cho đến toán số thí dụ không thể
sánh kịp. Nếu Bồ Tát vào Pháp vị trong thế giới đại thiên ba
ngàn không bằng Bồ Tát hướng đến Phật đạo gấp trăm, ngàn, vạn,
ngàn ức vạn lần cho đến toán số thí dụ không thể sánh kịp. Nếu
Bồ Tát hướng đến Phật đạo trong thế giới đại thiên ba ngàn
không bằng công đức của Phật gấp trăm, ngàn, vạn; ngàn ức vạn
lần cho đến toán số thí dụ không thể sánh kịp.
Tu Bồ Đề bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, Bồ Tát mới phát tâm nên niệm đến pháp nào?
Phật dạy: Nên niệm
trí Nhất thiết chủng.
Tu Bồ Đề thưa: Thế
nào là trí Nhất thiết chủng? Trí Nhất thiết chủng duyên thế
nào, tăng thượng thế nảo, hành thế nào, tướng thế nào?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
trí Nhất thiết chủng không có gì của chính nó; không niệm,
không sinh, không chỉ bày, như lời Tu Bồ Đề hỏi: Trí Nhất
thiết chủng duyên thế nào, tăng thượng thế nào, hành thế nào,
tướng thế nào? Này Tu Bồ Đề, trí Nhất thiết chủng không có
pháp duyên; niệm là tăng thượng, tịch diệt là hành, vô tướng
là tướng; ấy gọi là duyên, tăng thượng, hành, tướng của trí
Nhất thiết chủng.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, chỉ trí Nhất thiết chủng không có
pháp, hay sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có pháp; pháp
trong ngoài cũng không có pháp; bốn thiền, bốn tâm vô lượng,
bốn định vô sắc, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc,
năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám phần thánh đạo, tam muội
Không, tam muội Vô tướng, tam muội Vô tác, tám bội xả, định
chín thứ lớp, mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn trí
không ngại, mười tám pháp không chung, đại từ đại bi, đại hỷ
đại xả, thần thông đầu, thần thông thứ hai, thứ ba, thứ tư,
thứ năm, thứ sáu; tướng hữu vi, tướng vô vi v.v... cũng là
không có pháp chăng?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Sắc cũng không có pháp, cho đến tướng hữu vi, tướng vô vi cũng
không có pháp.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch
Đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà trí Nhất thiết chủng không có
pháp, sắc không có pháp, cho đến tướng hữu vi, tướng vô vi
cũng không có pháp?
Phật dạy: Trí Nhất
thiết chủng tự tính không có, nếu pháp tự tính không có, ấy
gọi là không có pháp. Sắc cho đến tướng hữu vi, tướng vô vi
cũng như vậy.
Phật dạy: Trong các
pháp nhân duyên hòa hợp sinh, không có tự tính. Nếu không có
tự tính, ấy là không có pháp. Vì vậy, Bồ Tát nên biết hết thảy
pháp không có tính, vì sao? Vì hết thảy tính pháp không. Thế
nên biết hết thảy pháp không có tính.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, nếu hết thảy pháp không có tính, thời
Bồ Tát mới phát tâm dùng sức phương tiện gì có thể tu Thí ba
la mật, nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng
sinh; có thể tu Giới Ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật; tu
sơ thiền cho đến tứ thiền; tu tâm từ cho đến tâm xả; tu định
Không xứ cho đến Phi hữu tưởng Phi vô tường định xứ; tu ngoại
không cho đến vô pháp hữu pháp không; tu bốn niệm xứ cho đến
tám phần Thánh đạo; tu tam muội Không, tam muội Vô tướng, tam
muội Vô tác, tám bội xả, định chín thứ lớp, mười lực của Phật,
bốn điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không
chung, đại từ đại bi, trí Nhất thiết chủng, nghiêm tịnh cõi
Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sinh?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Bồ Tát có thể học các pháp không có tự tính, cũng có thể
nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sinh. Biết
thế giới và chúng sinh không có tự tính, tức là sức phương
tiện. Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát tu Thí Ba la mật, ấy là tu học Phật
đạo; tu Giới Ba la mật; ấy là tu học Phật đạo, cho đến tu trí
Nhất thiết chủng, ấy là tu học Phật đạo; cũng biết Phật đạo
không có tự tính. Bồ Tát ấy tu sáu Ba la mật, ấy là tu học
Phật đạo cho đến khi chưa thành tựu mười lực của Phật, bốn
điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp không chung,
đại từ đại bi, trí Nhất thiết chủng; ấy là tu học Phật đạo.
Đầy đủ được nhân duyên về Phật đạo rồi, dùng một niệm tương
ưng với tuệ được trí Nhất thiết chủng. Bấy giờ hết thảy phiền
não tập khí vĩnh viễn đứt sạch, không sinh lại nữa. Khi ấy
dùng mắt Phật xem thấy đại thiên ba ngàn thế giới pháp vô còn
không thể có được, huống gì hữu pháp, nhu vậy, Bồ Tát nên hành
Bát nhã ba la mật tự tính không vô. Này Tu Bồ Đề, ấy gọi là
sức phương tiện của Bồ Tát. Vô pháp còn không thể có được,
huống gì hữu pháp, Bồ Tát ấy trong khi bố thí, bố thí vô pháp
còn không biết, huống gì là hữu pháp. Người thọ thí và tâm Bồ
Tát, vô pháp còn không biết, huống gì là hựu pháp, cho đến trí
Nhất thiết chủng, người được thí, pháp được, chỗ được là vô
pháp còn không biết, huống gì là hữu pháp, vì sao? Vì bản tính
của hết thảy pháp là như vậy, chẳng phải Phật làm, chẳng phải
Thanh văn, Bích chi Phật làm, cũng chẳng phải người khác làm,
vì hết thảy pháp không có người làm.
Bạch Đức Thế Tôn,
các pháp, tính các pháp xa lìa chăng?
Phật dạy: Như vậy,
như vậy. Các pháp, tính các pháp xa lìa.
Bạch Đức Thế Tôn,
nếu các pháp, tính các pháp xa lìa, thì làm sao pháp xa lìa có
thể biết pháp xa lìa hoạc có hoặc không, vì sao? Vì vô pháp
chẳng thể biết vô pháp, hữu pháp chẳng thể biết hữu pháp; vô
pháp chẳng thể biết hữu pháp, hữu pháp chẳng thể biết vô pháp?
Như vậy, hết thảy pháp không có tướng gì của chính nó, làm sao
Bồ Tát khởi tâm phân biệt pháp ấy hoặc có, hoặc không?
Phật dạy: Bồ Tát vì
theo nghĩa thế tục đế chỉ bày cho chúng sinh hoặc có, hoặc
không, chứ chẳng phải theo đệ nhất nghĩa.
Bạch Đức Thế Tôn,
thế tục đế và đệ nhất nghĩa đế có khác nhau chăng?
Này Tu Bồ Đề, thế
tục đế và đệ nhất nghĩa đế không khác nhau, vì sao? Vì thế tục
đế Như tức là đệ nhất nghĩa đế Như. Do chúng sinh không thấy
không biết tính Như ấy, nên Bồ Tát dùng thế tục đế để chỉ bày
hoặc có, hoặc không.
*Lại nữa, chúng
sinh đối với năm thọ uẩn vì có tâm chấp trước tướng nên không
biết nó không có sở hữu. Bồ Tát vì chúng sinh ấy nên chỉ bày
hoặc có hoặc không, khiến biết năm uẩn thanh tịnh, không có gì
của chính nó. Như vậy, Bồ Tát nên hành Bát nhã ba la mật như
vậy.
Luận: Tu Bồ Đề theo
Phật nghe nói không có gì được tức là được, liền tán thán chưa
từng có, bạch Phật rằng: Bát nhã ấy rất sâu, như trong kinh đã
nói rộng. Nêu cây làm ví dụ: Lá, hoa, quả tự cạn dần đến sâu;
như bóng râm của lá cây, lúc nóng bức, che mát rất vui. Chúng
sinh nhân bóng râm của cây Bồ Tát đạo, được xa lìa sự khổ nóng
bức trong ba đường ác, vì sao? Vì ngăn ngừa được tội ác. Như
hoa sắc đẹp, hương nhu nhuyến, chúng sinh nhân Bồ Tát đem việc
bố thí, trì giới giáo hóa cho, nên được hường phước lạc cõi
người, cõi trời. Như trái cây có màu sắc, hương thơm, vị ngon,
chúng sinh nhân nơi Bồ Tát nên được các quả thánh đạo Tu đà
hoàn v.v... Tu Bồ Đề nghe liền hoan hỉ, nói rằng: Bồ Tát ấy
như Phật không khác. Trong đây Phật tự nói nhân duyên: Nhân
nơi Bồ Tát nên dứt các đường ác địa ngục, súc sinh v.v... Phật
chấp thuận ý ấy, lại nói nhân duyên: Bồ Tát không phát tâm cầu
Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thời cho đến không có khi nào
dứt ba cõi.
*Lại nữa, vì được
"các pháp tính Như" nên gọi là Như Lai, cho đến gọi là Tu đà
hoàn; vì tính Như nên nói sắc cho đến tính vô vi, các pháp
tính Như ấy đều là một, không khác. Bồ Tát học tính Như ấy,
chắc chắn được Nhất thiết trí, nên nói là như Phật không khác,
không phải vì tâm ta ưa quý Bồ Tát mà nói là như Phật, song vì
được tính Như nên nói như Phật. Tính như ấy ở nơi Phật, cũng ở
nơi Bồ Tát, vì là một tướng, nên gọi Bồ Tát như Phật; lìa tính
Như, lại không có pháp gì không vào tính Như.
Hỏi: Nếu vì đồng
tính như mà nói Bồ Tát như Phật, thế thì cho đến trong súc
sinh cung có tính như ấy, cớ sao không nói như Phật?
Đáp: Súc sinh tuy
cũng có tính như, song vì nhân duyên chưa phát khởi, không thể
làm lợi ích chúng sinh nên không thể hành tính như, cho đến
Nhất thiết trí. Như vậy, Bồ Tát nên học tính như của Bát nhã
ấy. Bồ Tát học tính như của Bát nhã ấy thời được đầy đủ tính
như của hết thảy pháp. Đầy đủ tức là được thật tướng các pháp,
có thể dùng mỗi mỗi pháp môn làm cho chúng sinh được hiểu. Vì
được đầy đủ nên đối với hết thảy pháp Như được tự tại. Được tự
tại rồi, khéo biết căn tính của chúng sinh, biết các căn tính
của chúng sinh đầy đủ. Các căn là năm căn lành: Tín, tấn,
niệm, định, tuệ; hàng ba thừa đều có, có thể phân biệt người
ấy có, người ấy không có; người ấy được lục, người ấy không
được lực. Đầy đủ là các thiện căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ
đầy đủ; người như vậy có thể ra khỏi thế gian. Tín căn được
lực thời quyết định thọ trì, không nghi ngờ; vì sức tinh tấn
nên tuy chưa thấy pháp mà nhất tâm cầu đạo, không tiếc thân
mạng, không ngừng nghỉ; vì sức ghi nhớ nên thường nhớ lời dạy
của Phật, thiện pháp đến cho vào, ác pháp đến không cho vào,
như người giữ cửa; vì sức định nên nhiếp tâm một chỗ, không
lay động, đề giúp cho trí tuệ; vì sức trí tuệ nên có thể như
thật quán các pháp tướng. Được căn có hai hạng: Một là ở trong
thân người có tâm lớn thời thành căn Bồ Tát; hai là ở trong
thân người có tâm mỏng thời thành căn Tiểu thừa. Được đầy đủ
căn ấy thời có thể độ. Hoặc có Bồ Tát thấy người tuy được năm
căn mà không thể độ, vì do tội nghiệp ác đời trước nặng; thế
nên nói biết nghiệp nhân duyên của hết thảy chúng sinh. Muốn
biết nghiệp nhân duyên trong vô số kiếp phải có được túc mạng
thông; đã biết rồi, vì chúng sinh mà nói đến tội nghiệp nhân
duyên quá khứ; chúng sinh do tội quá khứ ấy cho nên không sợ.
Vì thế nên cầu nguyện được trí tuệ muốn biết việc ba đời. Đã
biết rồi, vì chúng sinh chỉ rõ tội nghiệp nhân duyên đời vị
lai sẽ đọa địa ngục. Chúng sinh nghe rồi thời tâm sợ hãi, sợ
hãi rồi tâm điều phục dễ độ. Chúng sinh nếu muốn biết nhân
duyên phước báo đời vị lai thời vì họ nói, họ hoan hỷ, có thể
độ. Vì thế mà nói biết nghiệp nhân duyên rồi, nguyện trí đầy
đủ nên được trí tuệ thanh tịnh biết ba đời, thông suốt vô
ngại; biết nghiệp thiện, ác quá khứ; biết quả báo thiện ác vị
lai; biết chúng sinh hiện tại các căn lợi, độn đó nói pháp
giáo hóa, được nhiều lợi ích, không hư dối. Vì làm lợi ích lớn
cho chúng sinh nên có thề nghiêm tịnh cõi Phật; nghiêm tịnh
cõi Phật rồi được trí Nhất thiết chủng; được trí Nhất thiết
chủng nên chuyển pháp luân; chuyển pháp luân rồi; đem pháp ba
thừa an lập chúng sinh vào Vô dư Niết bàn. Các lợi ích như vậy
đều do học Như đưa đến. Vì thế nên Phật nói Bồ Tát muốn được
hết thảy công đức lợi mình, lợi người, nên phát tâm Vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Tu Bồ Đề nghe công
đức của Bồ Tát ấy rất nhiều, bạch Phật rằng: Bồ Tát có thể
hành Bát nhã ba la mật như kinh nói, tất cả thế gian hãy nên
kính lễ, như trong kinh nói rộng, phân biệt công đức của Bồ
Tát mới phát tâm.
Bấy giờ Tu Bồ Đề
biết Bát nhã ba la mật rất sâu, không có ức tưởng, chằng phải
hàng mới học biết được, thế nên hỏi Phật: Bồ Tát mới phát tâm
nên niệm pháp gì? Phật đáp: Nên niệm trí Nhất thiết chủng. Trí
Nhất thiết chủng tức là Vô thượng chánh đẳng chánh giác; Nhất
thiết trí, pháp Phật, Phật đạo đều là tên khác của trí Nhất
thiết chủng.
Hỏi: Cớ gì Phật đáp
nên niệm trí Nhất thiết chủng?
Đáp: Vì Bồ Tát mới
phát tâm chưa được trí tuệ sâu xa, chưa bỏ cái vui ngũ dục của
thế gian. Vì vậy nên Phật dạy buộc tâm, niệm tường Nhất thiết
trí, nên nghĩ rằng: Nếu bỏ được cái vui nhỏ nhặt uế tạp sẽ
được cái vui thanh tịnh lớn lao; bỏ cái vui điên đảo hư dối sẽ
được cái vui chơn thật, bỏ cái vui trong vòng trói buộc sẽ
được cái vui giải thoát; bỏ cái vui lành của riêng mình sẽ
được cái vui lành chung của cả chúng sinh. Vì được lợi ích như
vậy, nên Phật dạy hàng mới phát tâm thường niệm đến Nhất thiết
trí.
Tu Bồ Đề hỏi: Trí
Nhất thiết chủng ấy là hữu pháp hay là vô pháp? Thế nào duyên,
thế nào tăng thượng, thế nào hành, thế nào tướng?
Phật đáp: Trí Nhất
thiết chủng không có gì của chính nó; không có gì của chính nó
ấy là chẳng phải pháp, không sinh, không diệt. Như thật duyên
các pháp, cũng không có gì của chính nó; niệm là tăng thượng;
tịch diệt là hành; vô tướng là tướng.
Hỏi: Đều là rốt ráo
không, cớ sao chỉ nói niệm là tăng thượng?
Đáp: Các pháp đều
có sức, trí tuệ Phật là rốt ráo không, như như, pháp tính,
thật tế, vô tướng; nghĩa là tướng tịch diệt. Phật được trí tuệ
Nhất thiết chủng, không còn suy nghĩ, không còn khó dễ, gần
xa, niệm gì cũng đều được, nên nói niệm là tăng thượng.
Tu Bồ Đề hỏi: Chỉ
trí Nhất thiết chủng không có pháp; hay sắc pháp v.v... cũng
không có pháp?
Phật đáp: Hết thảy
sắc pháp v.v... cũng không có pháp. Phật tự nói nhân duyên:
Nếu pháp từ nhân duyên hòa hợp sinh thời không có tự tính; nếu
pháp không có tự tính tức là không, không có pháp. Vì nhân
duyên ấy nên biết tính của hết thảy pháp không có gì của chính
nó.
Tu Bồ Đề hỏi: Bồ
Tát mới phát tâm lấy phương tiện gì hành Thí Ba la mật cho đến
trí Nhất thiết chủng, nghiêm tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng
sinh?
Phật đáp: Học trong
pháp tính không có gì của chính nó vào định quán sát, cũng có
thể chứ nhóm công đức, giáo hóa chúng sinh, nghiêm tịnh cõi
Phật; đó tức là sức phương tiện, vì hai pháp có và không, có
thể hành trong một lúc. Nghĩa là rốt ráo không và chứa nhóm
phước đức. Người ấy khi tu sáu Ba la mật, cũng tu tập Phật
đạo; như tâm Phật vì pháp rốt ráo không, không có gì của chính
nó, mà tu sáu Ba la mật cho đến trí Nhất thiết chủng. Bồ Tát
hành đạo ấy có thể đầy đủ mười lực của Phật, bốn điều không
sợ, bốn trí vô ngại, mười tám pháp không chung, đại từ đại bi.
Khi hành Bồ Tát đạo, đầy đủ pháp ấy; đến lúc ngồi đạo tràng,
dùng một niệm tương ưng với tuệ mà được trí Nhất thiết chủng.
Như người ban đêm mất châu báu, ánh sáng điện tạm hiện lên,
liền trở lại được, phiền não và tập khí vĩnh viễn dứt sạch,
không còn sinh trở lại. Được thành Phật rồi, Phật xem mười
phương thế giới, hết thảy vật còn chẳng thấy không, huống gì
thấy có! Pháp rốt ráo không, phá trừ được điên đảo, làm cho Bồ
Tát được thành Phật, việc ấy còn không thể có được, huống gì
pháp phàm phu điên đảo chấp có? Vì thế, nên biết hết thảy pháp
không có tướng gì của chính nó, ấy là phương tiện của Bồ Tát.
Không, còn không thể có được, huống gì có.
Bồ Tát nên hành Bát
nhã ba la mật không có sở hữu. Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật
không có sở hữu ấy, hoặc trong khi bố thí liền biết vật bố thí
không, không có gì của chính nó; người nhận thí và tâm Bồ Tát
cũng không có gì của chính nó, cho đến trí Nhất thiết chủng,
người được, pháp được, chỗ được, vô pháp còn không thể biết,
huống gì là hữu pháp. Người được là Bồ Tát, pháp được la Vô
thượng chánh đẳng chánh giác; pháp dùng để được là đạo Bồ Tát,
đều biết pháp ấy không có gì của chính nó, vì sao? Vì hết thảy
pháp bản tính như vậy, không vì trí tuệ nên đổi khác; chẳng
phải phàm phu làm, chẳng phải thánh hiền làm; hết thảy pháp
không làm, không người làm. Ý của Tu Bồ Đề là, nếu các pháp
hoàn toàn là tướng không có gì của chính nó, thời ai biết là
không có gì của chính nó? Thế nên hỏi Phật: Các pháp, tính các
pháp xa lìa, làm sao tính xa lìa biết được các pháp xa lìa
hoặc có, hoặc không, vì sao? Vì vô pháp không thể biết vô
pháp, hữu pháp không thể biết hữu pháp; vô pháp không thể biết
hữu pháp, hữu pháp không thể biết vô pháp. Bạch Đức Thế Tôn,
như vậy, hết thảy pháp không có tướng gì của chinh nó, làm thế
nào Bồ Tát phân biệt pháp ấy hoặc có, hoặc không?
Phật đáp: Bồ Tát
theo nghĩa thế tục mà vì chúng sinh nói hoặc có, hoặc không,
chẳng phải theo đệ nhất nghĩa. Nếu có là thật có, thời không
có cũng nên thật có; nếu có không thật có, thời không có làm
sao lại có thật?
Tu Bồ Đề hỏi: Thế
tục và đệ nhất nghĩa có khác nhau chăng? Nếu khác thời là phá
hoại pháp tính nên nói không khác? Thế tục tính như tức là đệ
nhất nghĩa tính Như. Chúng sinh không biết tính Như ấy, nên
theo nghĩa thế tục nói hoặc có, hoặc không.
Lại nữa, chúng sinh
có chỗ chấp trước đối với năm thọ ấm, vì muốn chúng sinh ấy xa
lìa sở hữu, được vô sở hữu, nên Bồ Tát nói vô sở hữu; theo
pháp thế tục phân biệt các pháp, muốn làm cho chúng sinh biết
tính cách vô sở hữu ấy. Như vậy, Bồ Tát nên học Bát nhã ba la
mật vô sở hữu.
Giải thích: Phẩm
Bồ Tát Hạnh Thứ 72
Kinh: Tu Bồ Đề bạch
Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn nói Bồ Tát hạnh, thế nào
là Bồ Tát hạnh?
Phật dạy: Bồ Tát
hạnh là hành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bạch đức Thế Tôn,
thế nào là Bồ Tát hành Vô thượng chánh đẳng chánh giác là Bồ
Tát hạnh?
Phật dạy: Nếu Bồ
Tát hành sắc không, hành thọ, tưởng, hành, thức không; hành
nhãn không cho đến ý; hành sắc không cho đến pháp; hành nhãn
giới không cho đến ý thức giới; hành Thí Ba la mật cho đến Bát
nhã ba la mật; hành nội không, ngoại không, nội ngoại không
cho đến vô pháp hữu pháp không; hành sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền; hành từ, bi, hỉ, xả; hành Vô biên hư không
xứ, Vô biên thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng Phi vô tưởng
xứ; hành bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn,
năm lực, bảy giác phần, tám phần Thánh đạo; hành tam muội
Không, tam muội Vô tướng, tam muội Vô tác; hành tám bội xả,
định chín thứ lớp, mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn
trí vô ngại, mười tám pháp không chung, đại từ đại bi, nghiêm
tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sinh, các vô ngại
biện tài, hành văn tự vào vô văn tự, hành các môn Đà la ni,
hành tính hữu vi, tính vô vi; giống như Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, không thấy hai pháp. Như vậy, Bồ Tát hành Bát nhã
ba la mật gọi là hành Vô thượng chánh đẳng chánh giác; ấy là
hạnh Bồ Tát.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, Thế Tôn nói phật, Phật có nghĩa là gì?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Biết nghĩa thật của các pháp nên gọi là Phật. Lại nữa, chứng
được thật tướng các pháp, nên gọi là Phật; thông suốt nghĩa
thật của các pháp, nên gọi là Phật. Lại nữa, như thật biết hết
thảy pháp, nên gọi là Phật.
Tu Bồ Đề thưa: Bồ
đề nghĩa là gì?
Phật dạy: Nghĩa
không là nghĩa Bồ đề; nghĩa Như, nghĩa pháp tính, nghĩa thật
tế, là nghĩa Bồ đề. Lại nữa, danh tướng ngôn thuyết, là nghĩa
Bồ đề. Thật nghĩa Bồ đề không thể hoại, không thể phân biệt,
là nghĩa Bồ Đề. Lại nữa, thật tướng các pháp không dối, không
khác, là nghĩa Bồ đề. Vì vậy nên gọi là Bồ đề. Lại nữa, Bồ đề
ấy, chư Phật có được, gọi là Bồ đề. Lại nữa, trí biết chơn
chánh cùng khắp của chư Phật, gọi là Bồ đề.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, nếu Bồ Tát vì Bồ đề ấy mà hành sáu Ba
la mật cho đến hành trí Nhất thiết chủng, đối với các pháp gì
được, gì mất, gì thêm, gì bớt; gì sinh, gì diệt, gì cấu, gì
tịnh?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Nếu Bồ Tát hành sáu Ba la mật cho đến hành trí Nhất thiết
chủng, đối với các pháp không được, không mất, không thêm,
không bớt, không cấu, không tịnh, vì sao? Vì Bồ Tát hành Bát
nhã ba la mật không vì sự được mất, thêm, bớt, sinh, diệt,
cấu, tịnh.
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, nếu Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật,
không vì sự được, mất, cho đến không vì cấu, tịnh, thế nào Bồ
Tát hành Bát nhã, có thể nhiếp thủ được Thí Ba la mật cho đến
Bát nhã ba la mật? Làm sao hành nội không cho đến vô pháp hữu
pháp không? Làm sao hành thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô
sắc, bốn niệm xứ cho đến tám phần thánh đạo? Làm sao hành
Không, Vô tướng, Vô tác giải thoát môn? Làm sao hành mười lực
của Phật, bốn điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp
không chung, đại từ đại bi? Làm sao hành mười địa của Bồ Tát?
Làm sao vượt quá Thanh văn, Bích chi Phật mà vào Bồ Tát vị?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Bồ Tát khi hành Bát nhã ba la mật không do hai pháp hành Thí
Ba la mật, cho đến Bát nhã ba la mật; không do hai pháp hành
nội không, cho đến trí Nhất thiết chủng.
Tu Bồ Đề thưa: Bạch
Đức Thế Tôn, nếu Bồ Tát không do hai pháp hành Thí Ba la mật
cho đến Bát nhã ba la mật, không do hai pháp hành nội không
cho đến trí Nhất thiết chủng, vậy Bồ Tát từ khi mới phát tâm
cho đến tâm sau cùng, làm sao tăng trưởng căn thiện?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Nếu hành hai pháp thời căn thiện không được tăng trưởng, vì
sao? Vì hết thảy phàm phu đều nương hai pháp, nên không được
tang trưởng căn thiện. Bồ Tát hành pháp không hai, nên từ khi
mới phát tâm cho đến tâm sau cùng, ở khoảng trung gian ấy được
tăng trưởng căn thiện. Vì thế nên đối với Bồ Tát, hết thảy thế
gian trời, người, A tu la không thể chiết phục, không thể phá
hoại thiện căn ấy, làm cho đọa vào địa vị Thanh văn, Bích chi
Phật và các pháp ác không thiện không thể chế ngăn Bồ Tát, làm
cho không thể hành Thí Ba la mật, tăng trưởng căn thiện; cho
đến hành Bát nhã ba la mật cũng như vậy. Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát
nên hành Bát nhã ba la mật như vậy.
Bạch Đức Thế Tôn,
Bồ Tát vì căn thiện nên hành Bát nhã ba la mật chăng?
Phật đáp: Không. Bồ
Tát cũng không vì căn thiện nên hành Bát nhã ba la mật, vì
sao? Vì theo pháp của Bồ Tát nếu chưa cúng dường chư Phật,
chưa đầy đủ căn thiện, chưa được chơn tri thức không thể được
trí Nhất thiết chủng.
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Bồ Tát từ khi mới phát tâm, cúng dường chư Phật, mười hai bộ
kinh của Phật nói là khế kinh cho đến luận nghị, Bồ Tát nghe
rồi thọ trì, đọc tụng thông lợi, tâm quán sát thấu suốt. Thấu
suốt rồi nên được Đà la ni, được Đà la ni nên có thể khởi lên
trí vô ngại, khởi lên trí vô ngại nên từ chỗ sinh ra cho đến
Nhất thiết trí trọn không quên mất; cũng đối với chỗ chư Phật
gieo trồng căn lành, được căn lành thủ hộ, trọn không đọa vào
ác đạo và các nạn. Do nhân duyên căn thiện nên được thân tâm
thanh tịnh, được thân tâm thanh tịnh nên có thể nghiêm tịnh
cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sinh. Được thiện căn
thủ hộ nên thường không rời chơn tri thức, là không rời chư
Phật, các Bồ Tát, các Thanh văn và những người tán thán Phật,
Pháp, Tăng. Như vậy, Bồ Tát nên cúng dường chư Phật, gieo
trồng căn lành, thân cận thiện tri thức.
Luận: Trong phẩm
trên, Tu Bồ Đề hỏi Phật: Kinh thường nói Bát nhã ba la mật,
sao gọi là Bát nhã ba la mật? Phật dùng mỗi mỗi nhân duyên
đáp. Nhân việc ấy nên trong phẩm này lại hỏi Phật: Kinh thường
nói Bồ Tát tu hành, vậy thế nào là hạnh Bồ Tát? Thế nên Tu Bồ
Đề hỏi Bồ Tát hạnh.
Hỏi: Nếu trong Bát
nhã thu nhiếp hết thảy pháp, lại Bát nhã tức là Bồ Tát hạnh,
cớ sao còn hỏi?
Đáp: Hết thảy Bồ
Tát đạo gọi là Bồ Tát hạnh. Trí tuệ biết khắp thật tướng các
pháp gọi là Bát nhã ba la mật, ấy là chỗ sai khác. Nếu kinh
Bát nhã và Bồ Tát hạnh nhiếp vào nhau thời không khác.
*Lại nữa, có người
nói: Bồ Tát hạnh là thân, nghiệp. Nghiệp khẩu, nghiệp ý của Bồ
Tát, các việc của Bồ Tát làm gọi là Bồ Tát hạnh. Vì việc ấy
nên Tu Bồ Đề chỉ muốn phân biệt chánh hạnh của Bồ Tát, nên
hỏi. Vì vậy Phật đáp: Bồ Tát hạnh là làm các hạnh lành, vì cầu
Vô thượng chánh đẳng chánh giác; ấy là chánh hạnh của Bồ Tát.
Nếu Bồ Tát làm việc bất thiện, vô kí và làm việc thiện mà tâm
chấp trước thời chẳng phải là Bồ Tát hạnh; chỉ đem tâm từ bi
và trí tuệ về không tính, vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác
mà làm, ấy gọi là Bồ Tát hạnh. Thế nào là hạnh thanh tịnh?
Nghĩa là hành sắc không, hành thọ, tưởng, hành, thức không,
cho đến hành tính hữu vi, tính vô vi không. Đối với các pháp
ấy không phân biệt là không, là thật, là hữu vi, là vô vi.
Cũng như Vô thượng chánh đẳng chánh giác, diệt hết hí luận
không có hai tướng, ấy gọi là hạnh Bồ Tát; không ai có thể phá
hoại, cũng không có lỗi lầm. Tu Bồ Đề nghe Bồ Tát hạnh rồi,
hoan hỉ hỏi: Quả báo của Bồ Tát hạnh là được làm Phật. Kinh
thường nói Phật, vậy Phật có nghĩa là gì?
Phật đáp: Biết thật
nghĩa của các pháp nên gọi là Phật. Hỏi: Nếu như vậy, A la
hán, Bích chi Phật và đại Bồ Tát cũng biết thật nghĩa các
pháp, cớ sao không gọi là Phật? Phật đáp: Trên đã nói ví dụ
Phật đốt đèn, đối với phàm phu là thật, đối với Phật không
thật. Vì phàm phu bị phiền não, tập khí che lấp nên không cho
là thật, không thể được trí Nhất thiết chủng, không dứt hết
nghi hối đối với hết thảy pháp, nên không gọi là chánh trí
thật nghĩa, như trên phân biệt.
Hỏi: Biết thật
nghĩa các pháp, được thật tướng các pháp, thông suốt thật
nghĩa và như thật biết hết thảy pháp, bốn việc ấy có gì khác
nhau?
Đáp: Có người nói:
Nghĩa không khác nhưng danh tự khác. Có người nói: Nghĩa là
thật tướng các pháp chẳng sinh chẳng diệt, pháp tướng thường
trú như Niết bàn; vì hiểu được nghĩa ấy nên gọi là Phật; đối
với nghĩa ấy, thường giác ngộ không sai lầm, dùng các danh
tướng nói cho chúng sinh hiểu thật nghĩa đệ nhất. Thế nên,
trong bốn vô ngại nói riêng nghĩa vô ngại và pháp vô ngại, nên
có sai khác. Có người tuy được thật nghĩa các pháp mà không
thể thông suốt, vì hai nhân duyên: Một là phiền não chưa hết.
Hai là chưa được Nhất thiết trí. Như Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A
na hàm chưa dứt phiền não nên không thể thông suốt. A la hán,
Bích Chi Phật, đị Bồ Tát đã dứt hết phiền não, vì chưa được
trí Nhất thiết chủng nên không thể thông suốt. Thế nên nói
thông suốt thật nghĩa gọi là Phật. Câu "như thật biết hết thảy
pháp" là tóm hết ba điều trên, cũng nghĩa cũng pháp và hết
thảy pháp hoặc có, hoặc không, mỗi mỗi hiểu rõ như đã nói
trong nghĩa trí Nhất thiết chủng; cũng biết tướng tịch diệt,
cũng biết tướng hữu vi.
*Lại nữa, Bồ Tát là
trí, Phật là người trí, vì được trí ấy nên gọi là người trí.
Tu Bồ Đề hỏi: Bạch
Đức Thế Tôn, sao gọi là Bồ đề?
Phật đáp: Không,
như như, pháp tính, thật tế gọi là Bồ đề. Trí tuệ thật tướng
tương ưng với tam muội Không; duyên như, pháp tính, thật tế,
nên Bồ đề gọi là trí tuệ thật tướng. Hạng người còn ở trong ba
học đạo (Kiến đạo, tu đạo và vô học đạo. ND), chưa dứt phiến
não, tuy có trí tuệ mà không gọi là Bồ đề. Ba hạng người vô
học dứt hết vô minh không còn thừa nên trí tuệ gọi là Bồ đề.
Hai hạng người vô học, không được Nhất thiết trí chơn chanh
biết khắp các pháp, nên không được gọi là Vô thượng chánh đẳng
chánh giác, duy chỉ trí tuệ Phật mới gọi là Vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
*Lại nữa, danh
tướng, ngôn ngữ, văn tự gọi là Bồ đề. Thật nghĩa Bồ đề thời
không thể phân biệt, phá hoại.
*Lại nữa, Bồ đề là
Như không sai khác, thường không hư dối, vì sao? Vì trí tuệ
của chúng sinh triển chuyển cao hơn cho đến Phật, không ai hơn
nữa; các pháp cũng triển chuyển cao hơn, trước là hư vọng, sau
là chơn thật, cho đến không còn pháp nào thật hơn Bồ đề; thế
nên Bồ đề gọi là thật.
*Lại nữa, Như vì
được Bồ đề nên gọi là Phật, nay vì Phật được nên gọi là Bồ đề.
Lại, có người nói:
Tận trí biết sự sinh đạ tận, ấy gọi là Bồ đề. Có người nói:
Tận trí, vô sinh trí gọi là Bồ đề. Có người nói: Vô ngại giải
thoát gọi là Bồ đề, vì sao? Vì được giải thoát ấy đối với hết
thảy pháp đều thông suốt. Có người nói: Bốn trí vô ngại là Bồ
đề, vì sao? Vì Phật biết thật tướng các pháp, \ấy là nghĩa vô
ngại; biết phân biệt danh tướng của các pháp, ấy là pháp vô
ngại; phân biệt mỗi mỗi ngữ ngôn, khiến chúng sinh được hiểu,
ấy là từ vô ngại; thuyết pháp giáo hóa không cùng tận, ấy là
lạc thuyết vô ngại. Vì bốn vô ngại đầy đủ, lợi ích chúng sinh
nên gọi là Bồ đề. Có người nói: Mười lực của Phật, bốn điều
không sợ, mười tám pháp không chung, đại từ đại bi, trí Nhất
thiết chủng, vô lượng pháp Phật như vậy đều gọi là Bồ đề, vì
sao? Vì trí tuệ lớn nên các pháp đều gọi là Bồ đề. Có người
nói: Chơn Bồ đề là Phật, vì đủ mười trí vô lậu; thọ, tưởng,
hành, thức, nghiệp thân, nghiệp khẩu và tâm bất tương lưng
hành tương ưng với mười trí, đều gọi là Bồ đề. Cùng duyên cùng
sinh, cùng giúp nhau nên đều gọi là Bồ đề. Lại có người nói:
Nghĩa Bồ đề thì vô lượng vô biên, chỉ có Phật mới có thể biết
khắp, người khác biết được phần ít. Thí như các châu báu của
Chuyển Luân Thánh Vương không ai có thể phân biệt biết được
giá trị của nó; Thánh vương xuất kho báu ngo người, người khác
mới có thể biết được. Trong đây Tu Bồ Đề hỏi Phật về tướng Bồ
đề xong, lại hỏi: Nếu tướng Bồ đề là rốt ráo không, không thể
phá hoại, Bồ Tát hành sáu Ba la mật, tăng trưởng căn thiện gì?
Phật đáp: Nếu Bồ
Tát hành thật tướng Bồ đề, đối với hết thảy pháp không có tăng
trưởng gì, huống gì thiện căn, vì sao? Vì Bát nhã không, vì
được mất cho đến nhơ sạch mà xuất hiện, bởi vì rốt ráo thanh
tịnh. Phật hứa khả ý ấy Tu Bồ Đề lại hỏi: Nếu không thêm bớt,
làm sao Bồ Tát hành Bát nhã mà nhiếp thủ các hạnh Bồ Tát khác?
Phật đáp: Bồ Tát
khi hành pháp ấy chẳng vì hai pháp nên hành, mà cùng hành hòa
hợp với rốt ráo không; thế nên không nên vấn nạn.
Tu Bồ Đề lại hỏi:
Nếu Bồ Tát không hành hai pháp, thì làm sao từ khi mới phát
tâm cho đến tâm sau cùng tăng trưởng thiện căn? Phật đáp: Nếu
người hành hai pháp tức là điên đão, không thể tăng trường căn
thiện. Thí như người nằm mộng, tuy được của lớn, rốt cuộc
không có được gì, trong khi thức được nhiều ít mới thật là
được. Phật bảo Tu Bồ Đề: Hết thảy người phàm đều đắm vào hai
pháp nên không thể tăng trưởng căn thiện. Bồ Tát hành theo
thật tướng các pháp, đó là pháp không hai, nên từ khi mời phát
tâm, cho đến khi tâm sau cùng, tăng trưởng thiện căn, không có
sai lầm. Vì thế nên đối với Bồ Tát ấy, hết thảy trời, người, A
tu la không thể phá hoại thiện căn kia, khiến phải đọa vào Nhị
thừa; những điều ác khác cũng không thể phá hoại. Những điều
ác khác là các phiền não xan, tham, v.v... phá hoại Thí Ba la
mật...
Lại hỏi: Bồ Tát vì
căn thiện nên hành Bát nhã chăng?
Phật đáp: Không vì
thiện, không vì bất thiện mà hành Bát nhã.
Hỏi: Không vì căn
bất thiện mà hành Bát nhã có thể được, cớ sao lại không vì
thiện căn nên hành?
Phật đáp: Vì quý Vô
thượng chánh đẳng chánh giác nên tuy hành các thiện căn, mà vì
thành tựu việc chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác chứ không
vì quý thiện căn. Như trong kinh ví dụ chiếc bè nói: Thiện
pháp còn nên bỏ, huống gì pháp bất thiện! Thiện căn là giúp
cho Phật đạo, như người không phải vì chiếc bè nên qua sông,
mà vì đến bờ kia. Trong đây Phật vì nói nhân duyên: Bồ Tát
chưa cúng chư Phật, chưa được chơn thiện tri thức thời không
thể được trí Nhất thiết chủng; thế nên tuy gieo trồng căn
thiện không cho là quý, mà chỉ quý vì Vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Tu Bồ Đề thưa: Làm
sao Bồ Tát tuy không vì thiện căn mà có thê cúng dường chư
Phật, cho đến được trí Nhất thiết chủng?
Phật đáp: Bồ Tát từ
khi mới phát tâm lại đây cúng dường chư Phật như trong kinh
nói. Vì cúng dường Phật lớn là lớn, nên chỉ nói Phật, nhưng
nên biết đã cúng dường Bích chi Phật cho đến Bồ Tát trú địa vị
Càn tuệ. Người phàm phu vì nghe pháp nên theo Bồ Tát nghe
giảng mười hai bộ kinh, vì không thể thường được thầy có luôn
bên mình, nên đều nên thọ trì. Vì hay quên nên đọc tụng làm
cho thông lợi. Tâm quán sát là thường buộc tâm vào quyển kinh,
thứ lớp nhớ nghĩ, trước do ngôn ngữ, tuyên giảng nghĩa lý, sau
được thấu rõ, tức được Đà la ni. Đà la ni có hai: Một là Đà la
ni Văn trì, nghĩa là nghe đâu nhớ đó; hai là Đà la ni Biết
được thật tướng các pháp. Đọc tụng, tu tập, thường nhớ nghĩ
nên được Đà la ni Văn trì; thông suốt nghĩa lý nên được thật
tướng Đà la ni. Ở trong hai Đà la ni ấy có thể sinh trí vô
ngăn ngại; vì chúng sinh thuyết pháp nên đầy đủ bốn trí vô
ngại.
Tu Bồ Đề hỏi: Nếu
Bồ Tát có trí vô ngăn ngại, thời khác gì với Phật?
Phật đáp: Vô ngăn
ngại có hai: 1. Là thật vô ngại. 2. Là danh từ vô ngăn ngại.
Trong đây, trừ Phật vô ngăn ngại, các người khác theo Bồ Tát
được vô ngăn ngại. Do Bồ Tát tụng kinh nên từ chỗ sinh ra cho
đến khi được Nhất thiết trí, trọn không quên mất, vì sao? Vì
vào sâu, đọc tụng kinh pháp nên phiền não bị chẻ mỏng, được
căn thiện hộ trì nên không đọa vào ác đạo và các nạn. Thí như
người mù được người sáng mắt giúp đỡ, trọn không bị sa hầm sỉa
hố. Nhờ phước căn thiện nên được thâm tâm thanh tịnh. Thân tâm
thanh tịnh là thương yêu hết thảy chúng sinh, tuy đối với kẻ
giặc oán cũng không gia ác, nghĩa là không cướp mạng sống.
Lại,
trí tuệ và phước
đức lớn nên phiền não nho ít, không thể che lấp thiện tâm
của Bồ Tát. Lại, tâm sâu xa là đối với chúng sinh có được tâm
từ bi, tâm không xả bỏ, tâm cứu độ và tâm đối với các pháp
biết được vô thường, khổ, không, vô ngã, rốt ráo không, cho
đến đối với Phật không sinh tưởng Phật, tưởng Niết bàn; ấy gọi
là thâm tâm thanh tịnh. Vì thanh tịnh thâm tâm nên có thể giáo
hóa chúng sinh, vì sao? Vì phiền não mỏng nên không khởi tâm
cống cao, tâm chấp ngã, tâm sân giận, nên chúng sinh ưa mến,
tín thọ lời dạy bảo. Vì giáo hóa chúng sinh nên nghiêm tịnh
cõi Phật như trong phẩm Phật quốc của kinh Tỳ ma la cật nói:
Vì chúng sinh tịnh nên cõi nước tịnh. Vì được căn thiện hộ trì
nên trọn không lìa thiện tri thức. Thiện tri thức là chư Phật,
đại Bồ Tát, A la hán. Lược nói tướng thiện tri thức, nghĩa là
người có thể tán thán Tam bảo. Như vậy, Bồ Tát nên cúng dường
chư Phật, gieo trồng căn lành, gần gũi thiện tri thức, vì sao?
Vì như người bệnh nên tìm thầy thuốc hay và cỏ thuốc. Phật là
thầy thuốc hay, các thiện căn là cỏ thuốc, xem người bệnh là
thiện tri thức; người bệnh có đủ ba việc ấy nên bệnh được
lành. Bồ Tát cũng như vậy, có đủ ba việc ấy nên dứt các phiền
não, làm lợi ích chúng sinh.
Giải
thích: Phẩm Gieo Trồng Thiện Căn Thứ 73
(Kinh Đại Bát
nhã, hội 2 ghi: Phẩm Thân Cận thứ 71)
Kinh: Tu Bồ Đề bạch
Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn. Bồ Tát nếu không cúng dường Phật,
không đầy đủ căn thiện, không được chơn tri thức, có được Nhất
thiết trí chăng?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Bồ Tát cúng dường chư Phật, gieo trồng thiện căn, được chơn
tri thức mà được Nhất thiết trí còn khó, huống gì không cúng
dường Phật, không gieo trồng căn thiện, không được chơn tri
thức!
Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: Bạch Đức Thế Tôn, Bồ Tát cúng dường chư Phật, gieo trồng
căn thiện, được chơn tri thức, vì sao khó được trí Nhất thiết
chủng?
Phật bảo Tu Bồ Đề:
Vì Bồ Tát xa lìa sức phương tiện, không theo Phật nghe nói sức
phương tiện, gieo trồng căn thiện không đầy đủ, không thường
theo lời dạy của thiện tri thức.
-Bạch đức Thế Tôn,
thế nào là sức phương tiện, mà Bồ Tát hành sức phương tiện ấy
được trí Nhất thiết chủng?
Phật dạy: Bồ Tát từ
khi mới phát tâm hành Thí Ba la mật, niệm tương ưng với Nhất
thiết trí mà bố thí cho Phật, hoặc Bích chi Phật, hoặc Thanh
văn, hoặc người, hoặc chẳng phải người, khi ấy khong sinh ý
tưởng bố thí, ý tưởng người nhận thí, vì sao? Vì quán xem tự
tướng không hết thảy pháp, không sinh, không có tướng chắc
thật, không có chuyển đổi, vào trong thật tướng các pháp;
nghĩa là tướng không làm của hết thảy các pháp, không khởi. Bồ
Tát do sức phương tiện ấy nên tăng tưởng thiện căn; tăng
trưởng thiện căn nên hành Thí Ba la mật, nghiêm tịnh cõi Phật,
thành tựu tuệ giác cho chúng sinh; bố thí mà không lãnh thọ
quả báo thế gian, chỉ vì muốn cứu độ chúng sinh nên bố thí.
*Lại nữa, Tu Bồ Đề,
Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu trì giới, niệm tương ưng với
Nhất thiết trí; trong khi trì giới không rơi vào dâm, nộ, si,
cũng không rơi vào các phiền não trói buộc và các pháp không
thiện phá đạo, hoặc xan tham phá giới, sân gian, giải đãi,
loạn ý, ngu si, kiêu mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng
thượng mạn, bất như mạn, tà mạn; hoặc không rơi vào tâm Thanh
văn, Bích chi Phật, vì sao? Vì Bồ Tát ấy quán thấy tự tướng
hết thảy pháp không, không sinh, không có tướng chắc thật,
không có chuyển đổi, vào thật tướng các pháp; nghĩa là tướng
hết thảy pháp không làm, không khởi. Bồ Tát thành tựu sức
phương tiện ấy nên tăng trưởng căn thiện; tăng trưởng căn
thiện nên tu Giới Ba la mật, nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu
tuệ giác cho chúng sinh; trì giới mà không thọ quả báo của thế
gian, chỉ vì muốn cứu chúng sinh nên tu trì giới.
*Lại nữa, Tu Bồ Đề,
Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu Nhẫn nhục Ba la mật, niệm tương
ưng với Nhất thiết trí, thành tựu sức phương tiện nên tu kiến
đế đạo, tư duy đạo và cũng không thủ chứng quả Tu đà hoàn, Tư
đà hàm, A na hàm, A la hán, vì sao? Vì Bồ Tát ấy biết tự tướng
các pháp không, không sinh, không có tướng chắc thật, không có
chuyển đổi; khi tu pháp trợ đạo mà vượt quá địa vị Thanh văn,
Bích chi Phật. Tu Bồ Đề, ấy gọi là pháp vô sinh nhẫn.
*Lại nữa, Tu Bồ Đề,
Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu Nhẫn nhục Ba la mật, vào Sơ
thiền cho đến đệ tứ thiền, vào bốn tâm vô lượng, bốn định vô
sắc, tuy ra vào các thiền mà không thọ quả báo, vì sao? Vì Bồ
tát ấy thành tựu sức phương tiện ấy, nên biết tự tướng các
thiền định không, không sinh, không có tướng chắc thật, không
có chuyển đổi, nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho
chúng sinh. Tinh tấn mà không thọ quả báo thế gian, chỉ vì
muốn cứu độ chúng sinh nên tu tinh tấn.
*Lại nữa, Tu Bồ Đề,
Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu Thiền Ba la mật, niệm tương ưng
với Nhất thiết trí, vào tám bội xả, định chín thứ lớp, cũng
không thủ chứng quả Tu đà hoàn cho đến A la hán, vì sao? Vì Bồ
Tát ấy biết tự tướng các pháp không, không sinh, không có
tướng chắc thật, không có chuyển đổi.
*Lại nữa, Tu Bồ Đề,
Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu Bát nhã ba la mật, học mười lực
của Phật, bốn điều không sợ, bốn trí không ngại, mười tám pháp
không chung, đại từ đại bi cho đến chưa được trí Nhất thiết
trí, chưa nghiêm tịnh cõi Phật, chưa thành tựu tuệ giác cho
chúng sinh, ở khoảng trung gian ấy nên tu hành như vậy, vì
sao? Vì Bồ Tát biết tự tướng các pháp không, không sinh, không
có tướng chắc thật, không có chuyển đổi. Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát
nên hành Bát nhã ba la mật như vậy mà không thọ quả báo.
Luận: Hỏi: Cớ gì Tu
Bồ Đề hỏi câu thô thiển rằng: không cúng dường chư Phật, không
đầy đủ căn thiện, không được chơn trí thức, có được Nhất thiết
trí chăng?
Đáp: Có người nói:
Như tính hết thảy pháp rốt ráo không, không có gì của chính
nó, trong rốt ráo không, gieo trồng căn thiện và không gieo
trồng căn thiện không khác nhau. Nếu như vậy có thể không cúng
dường chư Phật, không gieo trồng thiện căn, không được chơn
tri thức, cũng được Nhất thiết trí chăng? Lại có người nghi
rằng: Có nhiều cách được Nhất thiết trí, có thể không cần gieo
trồng thiện căn; vì vậy thế nên hỏi Phật. Phật đáp: Nếu cúng
dường chư Phật, gieo trồng căn lành, được chơn tri thức còn
khó được, huống gì không cúng dường!
Tu Bồ Đề hỏi: Vì
trong rốt ráo không, không có phước và chẳng phải không có
phước, cớ gì nói chỉ do phước đức nên được? Phật đáp: Ở trong
thế đế, có phước nên được. Tu Bồ Đề vì thấy chúng sinh đắm
trước điều không có gì của chính nó, nên hỏi. Phật lấy việc
không đắm trước pháp mà đáp. Nghĩa là tinh tấn tu phước còn
không thể được, huống gì không tu phước! Như người hành đạo đi
khất thực đến một xóm làng, từ một nhà đến một nhà khát thực
không được, thấy một con chó đói nằm liệt, lấy gậy đánh nó nói
rằng: Đồ súc sinh vô trí, ta dùng mọi cách đến từng nhà xin ăn
còn không được, huốn gì mày nằm đó mà mong được? Tu Bồ Đề hỏi:
Có nhân duyên cúng dường chư Phật ấy, cớ sao không được quả
báo? Phật đáp: Vì xa lìa sức phương tiện. Sức phương tiện là
Bát nhã ba la mật. Tuy thấy sắc thân Phật mà không lấy mắt trí
thấy pháp thân; tuy gieo trồng chút ít thiện căn mà không đầy
đủ; tuy được thiện tri thức mà không gần gũi hỏi han, lãnh
thọ. Lại Phật tự nói nhân duyên: Bồ Tát từ khi mới phát tâm,
vì hữu tâm và vô tâm nên tu Thí Ba la mật. Hữu tâm là tâm
tương ưng với Nhất thiết trí mà bố thí, niệm đến vô lượng công
đức của chư Phật, thương xót chúng sinh nên bố thí. Vô tâm là
nếu bố thí cho Phật, cho đến kẻ phàm phu mà không sinh ba
tưởng là tưởng người thí, người nhận thí và vật bố thí, vì
sao? Vì tất cả pháp tự tướng không từ xưa lại đây thường chẳng
sinh, không có tướng định hoặc một, hoặc khác, hoặc thường,
hoặc vô thường v.v... Vì pháp ấy tự tướng không, nên không thể
chuyển đổi, an trú trong Như. Quán sát như vậy tức vào thật
tướng các pháp, nghĩa là tướng không làm, không khởi. Hết thảy
pháp không có năng tác, sở tác, không sinh tâm cao ngạo, không
có hy vọng gì. Vì sức phương tiện như vậy nên có thể tăng
trưởng căn thiện, xa lìa căn bất thiện, giáo hóa chúng sinh
nghiêm tịnh cõi Phật. Bố thí hoặc nhiều, hoặc ít, không thọ
quả báo thế gian, chỉ muốn cứu độ chúng sinh. Bồ Tát bố thí
cho chúng sinh có hạn, có lượng, nghĩ rằng: Ta đời trước không
làm phước đức sâu dày nên đời nay không thể bố thí rộng rãi
cho chúng sinh, ta nay nên hành bố thí thật nhiều, thật sâu
xa; được quả báo ấy rồi có thể làm lợi ích đầy đủ, bố thí rộng
rãi cho vô lượng chúng sinh, hoặc được lợi đời nay, hoặc được
lợi về sau, lợi về đạo đức. Không có sức phương tiện như vậy,
Bồ Tát tuy cúng dường Phật, gieo trồng căn lành, được chơn trí
thức còn không được Nhất thiết trí, huống gì không cúng dường!
Năm Ba la mật kia cũng như vậy.
(Hết cuốn 85 theo bản Hán)
--o0o --
Mục
Lục Tập 5
Cuốn 81
|
82
|
83
|
84
|
85
|
86
|
87
|
88
|
89
|
90
91
|
92
|
93
|
94
|
95
|
96
|
97
|
98
|
99
|
100
--o0o --
Mục Lục Tổng Quát Luận Đại Trí Độ
Tập 01
|
Tập 02
|
Tập 03
|
Tập 04
|
Tập 05
--o0o --
Cập nhật: 01-07-2003
|
|