GIẢI THÍCH PHẨM VÔ
TẬN THỨ 67
(Kinh Ma Ha Bát Nhã
Ghi: Phẩm Bất khả tận)
KINH: - Bấy giờ Tu bồ đề nghĩ rằng: Vô
thượng Chánh đẳng chánh giác của chư Phật rất sâu, ta sẽ hỏi
Phật. Nghĩ rồi bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la
mật có thể cùng tận chăng?
Phật dạy: hư không không thể cùng tận
nên Bát nhã ba la mật không thể cùng tận.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao có thể phát
sinh Bát nhã ba la mật?
Phật dạy: Sắc không thể cùng tận nên
Bát nhã ba la mật có thể phát sinh; thọ, tưởng, hành, thức
không thể cùng tận nên Bát nhã ba la mật có thể phát sinh;
Thí ba la mật không thể cùng tận nên Bát nhã ba la mật có
thể phát sinh; Giới ba la mật, Nhẫn ba la mật, Tấn ba la
mật, Thiền ba la mật, Bát nhã ba la mật không thể cùng tận
nên Bát nhã ba la mật có thể phát sinh, cho đến trí Nhất
thiết chủng không thể cùng tận nên Bát nhã ba la mật có thể
phát sinh.
* Lại nữa, Tu bồ đề! Vô minh không,
không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có thể phát
sinh; hành không, không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba
la mật có thể phát sinh; thức không, không thể cùng tận nên
Bồ tát Bát nhã ba la mật có thể phát sinh; danh sắc không,
không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có thể phát
sinh; sáu nhập không, không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã
ba la mật có thể phát sinh; sáu nhập không, không thể
cùngtận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có thể phát sinh; sáu
xúc không, không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật
có thể phát sinh; thọ không, không thể cùng tận nên Bồ tát
Bát nhã ba la mật có thể phát sinh; ái không, không thể cùng
tận nên Bồ tát bát nhã ba la mật có thể phát sinh; thủ
không, không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có
thể phát sinh; hữu không, không thể cùng tận, nên Bồ tát Bát
nhã ba la mật có thể phát sinh; sinh không, không thể cùng
tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có thể phát sinh; sinh
không, không thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có
thể phát sinh; già, chết, lo, buồn, khổ, não không, không
thể cùng tận nên Bồ tát Bát nhã ba la mật có thể phát sinh
... Như vậy, Tu bồ đề! Mười hai nhân duyên đây là pháp riêng
của Bồ tát hay trừ các điên đảo biên kiến. Khi ngồi đạo
tràng nên quán như vậy sẽ được trí Nhất thiết chủng.
Này Tu bồ đề! Nếu có Bồ tát vì hư
không không thể cùng tận mà tu Bát nhã, quán mười hai nhân
duyên, thời không rơi vào Nhị thừa mà an trú Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Tu bồ đề! Nếu cầu đạo Bồ tát mà bị thoái
chuyển trở lại, là vì niệm lìa Bát nhã ba la mật. Người ấy
chẳng biết thế nào là tu Bát nhã ba la mật, do hư không
không cùng tận để quán mười hai nhân duyên. Tu bồ đề! nếu
người cầu đạo Bồ tát mà thoái chuyển trở lại là vì không có
sức phương tiện nên thoái chuyển đối với Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Tu bồ đề! Nếu Bồ tát không thoái chuyển đối
với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là đều vì có đủ sức
phương tiện.
Này Tu bồ đề! Bồ tát nên do hư không,
không thể cùng tận mà quán Bát nhã ba la mật, nên do hư
không, không thể cùng tận mà phát sinh Bát nhã ba la mật.
Như vậy, khi Bồ tát quán mười hai nhân duyên, không thấy
pháp nào không do nhân duyên sinh, không thấy pháp nào
thường trú bất diệt, không thấy pháp nào có ngã, nhân, chúng
sinh, thọ giả, mạng giả, cho đến kẻ biết, kẻ thấy; không
thấy pháp vô thường; không thấy pháp khổ; không thấy pháp vô
ngã; không thấy pháp tịch diệt chẳng phải tịch diệt. Như
vậy, Tu bồ đề! Bồ tát tu Bát nhã ba la mật nên quán mười hai
nhân duyên như vậy. Tu bồ đề! Nếu Bồ tát tu Bát nhã ba la
mật được như vậy, khi ấy không thấy sắc hoặc thường hoặc vô
thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịch
diệt hoặc chẳng phải tịch diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng
như vậy. Khi ấy cũng không thấy Bát nhã ba la mật, cũng
không thấy do pháp ấy thấy Bát nhã ba la mật, không thấy
Thiền ba la mật cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như
vậy Tu bồ đề! Vì hết thảy pháp không thể có được ấy là nên
tu Bát nhã ba la mật. Nếu Bồ tát khi tu Bát nhã không có gì
sở đắc, thời ác ma sầu não như bị mũi tên bắn vào tim, như
người có cha mẹ mới chết.
Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế
Tôn! Chỉ có một ma sầu muộn hay các ma trong ba ngàn đại
thiên thế giới cũng sầu muộn.
Phật bảo Tu bồ đề: Ác ma trong ba ngàn
đại thiên thế giới đều sầu muộn như bị mũi tên bắn vào tim,
không thể ngồi yên. Tu bồ đề! Bồ tát tu Bát nhã được như
vậy, khi ấy hết thảy thế gian trời, người, A tu la không thể
tìm được thuận tiện để làm cho người kia ưu não. Vì vậy, Bồ
tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hãy nên tu Bát
nhã ba la mật.
Bồ tát khi tu Bát nhã ba la mật là đầy
đủ tu Thí ba la mật, Giới ba la mật, Nhẫn ba la mật, Tấn ba
la mật, Thiền ba la mật, Bát nhã ba la mật.
Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế
Tôn! Bồ tát khi tu Bát nhã ba la mật, làm sao đầy đủ tu Thí
Ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật?
Phật bảo Tu bồ đề: Bồ tát bố thí gì
đều hồi hướng đến Nhất thiết trí, như vậy, Bồ tát khi tu Bát
nhã ba la mật đầy đủ tu Thí Ba la mật; Bồ tát tu Trì giới
đều hồi hướng đến Nhất thiết trí, thế là đầy đủ Giới ba la
mật. Bồ tát tu Nhẫn nhục đều hồi hướng đến Nhất thiết trí,
thế là đầy đủ Nhẫn ba la mật. Bồ tát tu Tinh tấn đều hồi
hướng Nhất thiết trí, thế là đầy đủ Tấn ba la mật. Bồ tát tu
Thiền định đều hồi hướng đến Nhất thiết trí, thế là đầy đủ
Thiền ba la mật. Bồ tát tu Trí tuệ đều hồi hướng đến Nhất
thiết trí, thế là đầy đủ Bát nhã ba la mật. Như vậy, Tu bồ
đề! Bồ tát tu Bát nhã ba la mật đầy đủ sáu Ba la mật.
LUẬN: Tu bồ đề theo Phật nghe nói mỗi mỗi
tướng của Bát nhã ba la mật, ban đầu nghe nói tướng rốt ráo
không; giữa nghe lời phú chúc thì tuồng như có; sau lại nghe
nói không, đó là vì nghĩa của Bát nhã ba la mật vô lượng mà
danh tự, chương cú của Bát nhã ba la mật thì có lượng. Khi
ấy, Tu bồ đề nghĩ rằng: Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của
chư Phật rất sâu, ta sẽ hỏi Phật vì sao rất sâu. Phật nói
cho Tu bồ đề một ít phần, chỉ để phá tâm điên đảo của chúng
sinh nên không nói đầy đủ, vì cớ sao? Vì không có người lãnh
thọ được. Nếu người chấp thủ tướng Như, Phật nói Như cũng
không, vì không có sinh, trụ, diệt; nếu pháp không có sinh,
trụ, diệt, pháp ấy tức là không có; pháp tính, thật tế cũng
như vậy.
Nếu có người chấp thủ rốt ráo không, Phật
cũng nói không phải, vì sao? Vì nếu rốt ráo không là định
tướng có thể thủ, thế là chẳng phải rốt ráo không. Thế nên
nói rất sâu. Ta sẽ lại hỏi Phật, Tu bồ đề nghĩ như vậy rồi,
như lời Phật tự nói: Chư Phật ba đời đều dùng Bát nhã ba la
mật mà đắc đạo, vì Bát nhã ba la mật không cùng tận; đã
không tận, nay không tận, và sẽ không tận. Thế nên ta nay
chỉ hỏi nghĩa không tận. Phật đáp: Như hư không không tận,
nên Bát nhã cũng không tận, như hư không không có thật pháp,
chỉ có danh tự; Bát nhã ba la mật cũng như vậy. Bát nhã ba
la mật như hư không, không có gì của chính nó, nên không thể
tận, làm ssao Bồ tát có thể phát sinh Bát nhã ba la mật ấy?
nếu có thể phát sinh, làm sao trong tâm Bồ tát lại phát sinh
việc tu được, chứng được? Phật đáp: Vi sắc vô tận nên Bát
nhã ba la mật có thể phát sinh; như sắc lúc đầu, lúc sau,
lúc giữa sinh không thể có được, vì sắc sinh sắc, không thể
có được; lìa sắc sinh sắc, không thể có được, sinh không thể
có được, sinh không thể có được, như đã phá tướng sinh ở
trước. Vì sinh không thể có được, nên sắc cũng không thể có
được, vì sắc không thể có được nên sắc sinh không thể có
được; vì hai pháp không thể có được nên sắc như huyễn, như
mộng, chỉ dối gạt mắt người. Nếu sắc có sinh ắt có tận, vì
sắc không sinh nên cũng không có tận; sắc chơn tướng tức là
Bát nhã ba la mật. Thế nên nói sắc không thể tận, Bát nhã ba
la mật cũng không tận, Thọ, tưởng, hành, thức, Thí ba la mật
cho đến trí Nhất thiết chủng cũng như vậy.
* Lại nữa, Kinh nói: " Có thể sinh Bát
nhã" là vì vô minh hư không không thể cùng tận. Nếu người
chỉ quán rốt ráo không, thời phần nhiều đọa vào bên đoạn
diệt; nếu quán có thời phần nhiều đọa vào bên thường. Lìa
hai bên ấy nên nói mười hai nhân duyên không. Vì sao? Vì nếu
pháp từ nhân duyên hòa hợp sanh, pháp ấy không có định tính;
nếu pháp không cò định tính tức là pháp tịch diệt rốt ráo
không; lìa hai bên ấy nên giả gọi là trung đạo. Thế nên nói
mười hai nhân duyên như hư không, không có pháp, nên không
tận. Vô minh cũng do nhân duyên hòa hợp sinh nên không có tự
tướng; không có tự tướng nên rốt ráo "không", như hư không.
* Lại nữa, vì nhân duyên sinh nên không
thật, như kinh nói: Nhân mắt duyên sắc sinh giác xúc, giác
xúc từ vô minh sinh. Giác xúc không ở trong mắt, không ở
trong sắc, không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở
chặng giữa; cũng không từ mười phương ba đời đến, địng tướng
của pháp ấy không thể có được. Vì sao? Vì hết thảy pháp vào
Như. Nếu nắm bắt được định tướng vô minh, tức là trí tuệ,
không gọi là vô minh; thế nên tướng vô minh, tướng trí tuệ
không khác nhau, thật tướng của vô minh tức trí tuệ, chấp
trước tướng trí tuệ tức vô minh. Thế nên, thật tướng vô minh
rốt ráo thanh tịnh như hư không, không sinh, không diệt. Vì
thế nói rằng: Có được quán ấy mà hồi hướng đến Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, tức gọi là Bát nhã ba la mật.
Hỏi: Nếu không có vô minh, cũng không có
các hành v.v... làm sao nói mười hai nhân duyên?
Ðáp: Nói mười hai nhân duyên có 3 loại:
Một là đối với phàm phu, dùng mắt thịt trông thấy, tâm điên
đảo chấp ngã khởi các phiền não nghiệp, qua lại trong đường
sinh tử.
Hai là đối với hiền thánh, dùng mắt pháp
phân biệt các pháp; thấy già, bệnh, chết sinh tâm nhàm chán,
muốn ra khỏi thế gian. Tìm nguyên nhân của già, chết do
sinh; sinh ấy do các phiền não nghiệp, vì sao? Vì người
không có phiền não thời không sinh, nên biết phiền não làm
nhân duyên cho sinh. Làm nhân duyên cho phiền não là vô
minh, vì vô minh, nên điều đáng bỏ lại lấy, đáng lấy lại bỏ.
Ðáng bỏ gì? Ðáng bỏ già, bệnh, khổ và phiền não; nhưng vì
điên đảo cho khổ làm vui nên lấy. Trì giới, thiền định, trí
tuệ là gốc của sự lành, là nhân duyên của cái vui Niết bàn,
việc ấy đáng lấy lại bỏ. Trong ấy không có kẻ biết, kẻ thấy,
kẻ làm, vì sao? Vi pháp ấy không có định tướng, chỉ do nhân
duyên hư dối tương tục sinh ra. Hành giả biết là hư dối
không thật thời không sinh hý luận, chỉ vì muốn diệt khổ vào
Niết bàn, không cứu xét cùng tận tướng các khổ.
Ba là đối với các đại Bồ tát, là người
đại trí, lợi căn nên chỉ cứu xét cùng tận tướng cội gốc của
mười hai nhân duyên, không vì lo sợ mà tự thoái thất. Bấy
giờ không thấy có định tướng, già và chết rốt ráo không, chỉ
do hư dối, giả gọi là có, vì cớ sao? Vì người phân biệt
tướng các pháp thì nói già, chết là pháp tâm bất tương ưng
hành, tướng ấy không thể có được. Ðầu bạc v.v... là tướng
màu sắc, không phải tướng già; hai việc không thể có được
nên không có tướng già.
* Lại nữa, người đời gọi tướng già là tóc
bạc; răng long, mặt nhăn, thân cong, gầy gò, sức yếu, các
căn mờ ám, nhưng việc ấy không đúng, vì sao? Vì tóc bạc
chẳng phải chỉ người già; có người tuổi trẻ tóc lại bạc,
người già tóc lại đen; gầy gò, thân cong, mặt nhăn ... cũng
như vậy. Có người già mà các căn sáng suốt, lanh lợi; người
trẻ mà mờ ám; lại uống thuốc hoàn đồng tuy già mà trẻ. Như
vậy, tướng già không có định tướng, chỉ do các pháp hòa hợp
giả gọi là già; lại như mượn bánh, trục, thùng, căm ... gọi
là xe, đó chỉ là giả danh, chẳng phải thật.
* Lại nữa, trong các pháp rốt ráo không,
tướng sinh không thể có được, huống gì có già! Do các nhân
duyên như vậy, tìm pháp già không thể có được. Vì không thể
có được nên không có tướng, như hư không không thể tận; cũng
như già cho đến vô minh cũng như vậy. Phá tướng vô minh như
trên nói. Bồ tát quán thực tướng các pháp rốt ráo không,
không có gì của chính nó, không có sở đắc; cũng vì không
chấp trước việc ấy nên đối với chúng sinh sanh tâm đại bi:
chúng sinh vì vô minh nên đối với pháp hư dối điên đảo không
thật, chịu các khổ não. Mười hai nhân duyên nói đầu chỉ là
vì người phàm phu không tìm phải trái trong đó; mười hai
nhân duyên nói thứ hai là chỗ quán sát của hàng Nhị thừa và
Bồ tát chưa được vô sinh pháp nhẫn; mười hai nhân duyên nói
thứ ba là chỗ quán sát của các Bồ tát từ đưọc vô sinh pháp
nhẫn cho đến khi ngồi đạo tràng. Thế nên nói, vô minh hư
không không thể tận cho đến lo, buồn, khổ, não hư không
không thể tận, nên Bồ tát tu Bát nhã ba la mật.
Quán sâu về pháp nhân duyên như vậy, xa
lìa các bên và điên đảo. Bên là bên thường, bên đoạn, bên có
bên không, bên thật, bên hư, bên thế gian hữu biên, bên thế
gian vô biên; điên dảo là nơi vô thường khởi lên phiền não
chấp thường v.v... Quán mười hai nhân duyên ấy thời các bên
và điên đảo dứt. Các phiền não có hai phần; Một là theo
người ngoại đạo tà kiến gọi là bên; hai là theo các chúng
sinh khác, phiền não gọi là điên đảo. Quán mười hai nhân
duyên thời hai thứ phiền não ấy đều dứt. Ðó là quán mười hai
nhân duyên thứ ba rất sâu, chỉ các Bồ tát ngồi đạo tràng mới
có thể quán; trước tuy nói có thể quán nhưng chưa đầy đủ.
Như trong kinh Thành Dụ, Phật nói: Khi Ta chưa đắc đạo, suy
nghĩ như vầy: Chúng sinh đáng thương, đi sâu vào đường hiểm,
thường thường sinh, thường thường già, thường thường chết,
qua lại ba cõi không biết đường ra. Ta liền nghĩ rằng: Vì
nhân duyên gì có già chết? Trong khi tìm cầu như vậy được
trí tuệ chơn thật, biết rằng sinh làm nhân duyên cho già,
chết v.v... Thế nên, biết lối quán mười hai nhân duyên nói
lần thứ ba, khi ngồi đạo tràng mới có được, như Kinh nói
rộng.
* Lại nữa, quán mười hai nhân duyên như
vậy, vượt quá hàng Nhị thừa, được trí Nhất thiết chủng. Nếu
có người thoái lui đối với Phật đạo, là vì không được lối
quán sâu xa ấy, nếu được lối quán ấy thời không thoái lui,
vì sao? Vì đã sâu vào rốt ráo không thời không thấy Thanh
văn, Bích chi Phật địa; vì không thấy nên không trú ở trong
đó.
* Lại nữa, người quán nhân duyên được như
vậy thời không thấy có một pháp nào chắc chắn, tự tại, không
do nhân duyên sinh, hết thảy pháp không tự tại đều thuộc
nhân duyên sinh, có người tuy thấy hết thảy pháp từ nhân
duyên sinh, nhưng lại cho là từ tà nhân duyên sinh. Tà nhân
duyên là cho rằng vi trần, thế tánh v.v... làm nhân duyên
sinh các pháp.Thế nên nói, không thấy pháp nào không do nhân
duyên sinh, cũng không thấy pháp nào từ thường nhân duyên
như vi trần, thế tánh sinh. Như hư không thường, thường thời
không có sinh; hư không cũng không làm nhân cho vật khác
sinh, vì thế nên không có pháp nào từ thường nhân duyên
sinh.
* Lại nữa, Bồ tát quán hết thảy pháp
thuộc nhân duyên sinh như vậy không tự tại, vì không tự tại
nên không có ta, cho đến không có kẻ biết, kẻ thấy. Bấy giờ
Bồ tát an trú trong mười hai nhân duyên rốt ráo không, không
thấy một pháp nào hoặc có hoặc không v.v... không thấy Bát
nhã, cũng không thấy dùng pháp ấy tu Bát nhã, cho đến Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng như vậy; ấy gọi là Bát nhã
ba la mật không có sở đắc của Bồ tát. Ðược Bát nhã ba la mật
không có sở đắc ấy, đối với hết thảy pháp bèn được Bát nhã
không có chướng ngại gì. Bấy giờ ác ma rất sầu khổ. Vì sao?
Vì Bồ tát ấy sâu vào mười hai nhân duyên rốt ráo không,
không vướng vào trong lưới ma về 62 tà kiến chấp có, chấp
không, chấp chẳng phải có chẳng phải không v.v... Ta nay
không có cách thuận tiện để phá Bồ tát. Thí như người bắt
cá, thấy một con cá lặn sâu trong dòng nước lớn, lưỡi câu
không tới kịp thời tuyệt vọng ưu sầu và cũng như người mới
mất cha mẹ.
* Lại nữa, Bồ tát tu Bát nhã ba la mật
không có sở đắc, được như vậy thời đầy đủ Thí ba la mật
v.v... vì sao? Vi tu pháp ấy thời các phiền não làm chướng
ngại Bát nhã đều bị bẻ gãy; ma chúa, ma dân không tìm được
thuận tiện để phá, nên các Ba la mật được đầy đủ; từ trước
lại đây tuy tu sáu Ba la mật nhưng chưa thể được đầy đủ như
vậy.
Tu bồ đề hỏi: Bạch Thế Tôn! Bồ tát làm
sao tu Bát nhã ba la mật được như vậy, có thể đầy đủ Thí ba
la mật v.v...?
Phật đáp: Nếu Bồ tát có bố thí gì đều hồi
hưóng đến Nhất thiết trí. Có hai hạng người: độn căn và lợi
căn. Người độn căn có bố thí nhiều ít đều chấp thủ tướng hồi
hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; người lợi căn phá
chấp thủ tướng những hý luận sai lầm về pháp "không", tín
lực cạn mỏng, không dùng Nhất thiết trí, chỉ tìm thật tướng
các pháp. Hai hạng người ấy đều không thể đầy đủ Thí ba la
mật. Một là hạng người vì tín lực nhiều, tuệ lực ít; hai là
người vì tuệ lực nhiều, tín lực ít. Nay Phật nói tín lực,
tuệ lực bằng nhau nên có thể hồi hướng đến Nhất thiết trí.
Tưởng niệm Nhất thiết trí là tín lực; đúng như Nhất thiết
trí mà hồi hướng là trí lực, cho đến Bát nhã ba la mật cũng
lại như vậy.
GIẢI
THÍCH: PHẨM SÁU ÐỘ TƯƠNG NHIẾP THỨ 68
(Kinh Ðại Bát Nhã Phần 2 ghi: Phẩm Tương Nhiếp thứ 67)
KINH: Tu bồ đề bạch Phật rằng: Bạch
đức Thế Tôn! Làm sao Bồ tát trú trong Thí Ba la mật mà được
Giới ba la mật?
Phật bảo Tu bồ đề: Bồ tát khi bố thí,
đem công đức bố thí ấy hồi hướng đến Nhất thiết trí, đối với
chúng sinh giữ thân nghiệp từ, khẩu nghiệp từ, ý nghiệp từ;
ấy là trú trong Thí ba la mật mà được Giới ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ tát trú
trong Thí ba la mật mà được Nhẫn ba la mật?
Phật bảo Tu bồ đề: Bồ tát khi bố thí
bị người lãnh thọ thí sân giận, mắng nhục, nói lời hung dữ,
khi ấy Bồ tát nhẫn nhục không sinh tâm giận, ấy là Bồ tát
trú trong Thí ba la mật được Nhẫn ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ tát trú
trong Thí ba la mật mà được Tấn ba la mật?
Phật dạy: Bồ tát khi bố thí bị người
lãnh thọ sân giận, mắng nhục, nói lời hung dữ, Bồ tát càng
bố thí thêm và tâm nghĩ rằng: Ta nên cấp thí, không nên tiếc
gì, tức thời thân tinh tấn, tâm tinh tấn; ấy là Bồ tát trú
trong Thí ba la mật được Tấn ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! làm sao Bồ tát trú
trong Thí ba la mật được Thiền ba la mật?
Phật dạy: Bồ tát khi bố thí chỉ hồi
hướng đến Nhất thiết trí, không hồi hướng đến Thanh văn,
Bích chi Phật địa, chỉ nhất tâm quán niệm Nhất thiết trí; ấy
là Bồ tát trú trong Thí ba la mật được Thiền ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao trú trong
Thí ba la mật được Bát nhã ba la mật?
Phật dạy: Bồ tát khi bố thí biết việc
bố thí là không, như huyễn, không thấy vì bố thí cho chúng
sinh là hữu ích, vô ích; ấy là Bồ tát trú trong Thí ba la
mật được Bát nhã ba la mật.
Tu bồ đề bạch Phật rằng: Làm sao Bồ
tát trú trong Giới ba la mật được Thí ba la mật, Nhẫn ba la
mật, Tấn ba la mật, Thiền ba la mật và Bát nhã ba la mật?
Phật bảo Tu bồ đề: Bồ tát trú trong
Giới ba la mật, thân, miệng, ý sinh phước đức bố thí, giúp
thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; với công đức ấy không
thủ chứng Thanh văn, Bích chi Phật địa; trú trong Giới ba la
mật không cướp mạng sống kẻ khác, không cướp tài vật kẻ
khác, không hành tà dâm, không nói dối, không nói hai lưõi,
không miệng dữ, không nói thêu dệt, không tham lam tật đố,
không sân giận, không tà kiến. Thực hành bố thí, người đói
cho ăn, người khát cho uống, cần xe cho xe, cần áo cho áo,
cần hương cho hương, cần chuỗi anh lạc cho chuỗi anh lạc;
hương xoa, đồ nằm, phòng nhà, đèn đuốc, các vật cần nuôi
sống đều cấp cho hết. Ðem công đức bố thí ấy chia sẻ cho
chúng sinh cùng hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng chánh
giác. Hồi hướng như vậy không đọa vào Thanh văn, Bích chi
Phật địa. Tu bồ đề! Ấy là Bồ tát trú trong Giới ba la mật
được Thí ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ tát trú
trong Giới ba la mật được Nhẫn ba la mật?
Phật dạy: Bồ tát trú trong Giới ba la
mật, nếu có chúng sinh đi đến cắt xẻ từng mảnh, Bồ tát không
sinh tâm sân giận, cho đến chỉ trong một giây lát, tự nói
rằng: Ta được lợi lớn, chúng sinh đi đến lấy từng chi tiết
thân ta để dùng, ta không một niệm sân giận; ấy là Bồ tát
trú trong Giới ba la mật được Nhẫn ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ tát trú
trong Giới ba la mật đưọc Tấn ba la mật?
Phật dạy: Nếu Bồ tát thân tinh tấn,
tâm tinh tấn thường không bỏ, nghĩ rằng: Hết thảy chúng sinh
ở trong sinh tử, ta sẽ cứu vớt đem đặt trên đất cam lồ, ấy
là Bồ tát trú trong Giới ba la mật được Tấn ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! làm sao Bồ tát trú
trong Giới ba la mật được Thiền ba la mật?
Phật dạy: Bồ tát vào Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền, Tứ thiền, không tham vào Thanh văn, Bích
chi Phật địa, nghĩ rằng: Ta sẽ trú trong Thiền ba la mật, độ
hết thảy chúng sinh khỏi sinh tử; ấy là Bồ tát trú trong
Giới ba la mật được Thiền ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Làm sao Bồ tát trú
trong Giới ba la mật được Bát nhã ba la mật?
Phạt dạy: Bồ tát trú trong Giới ba la
mật không có pháp có thể thấy, hoặc tác pháp, hoặc hữu vi
pháp, hoặc số pháp, hoặc tướng pháp, hoặc có, hoặc không;
chỉ thấy các pháp không ngoài tướng Như. Vì có Bát nhã ba la
mật và sức phương tiện nên không đọa vào Thanh văn, Bích chi
Phật địa; ấy là Bồ tát trú trong Giới ba la mật được Bát nhã
ba la mật.
LUẬN: Cuối phẩm trước nói: Làm sao Bồ tát
tu Bát nhã ba la mật đầy đủ sáu Ba la mật? Phật đã mỗi mỗi
đáp. Trong phẩm này Tu bồ đề hỏi: Làm sao Bồ tát tu một Ba
la mật mà thu nhiếp năm Ba la mật. Hỏi rằng: Sáu Ba la mật
mỗi tướng khác nhau làm sao tu một Ba la mật mà thu nhiếp
năm Ba la mật? Ðáp rằng: Bồ tát do sức phương tiện nên tu
một Ba la mật có thể thu nhiếp năm Ba la mật.
* Lại nữa, pháp hữu vi vì nhân duyên quả
báo tiếp tục nhau nên tạo thành nhau; thiện pháp làm nhân
duyên cho thiện pháp; các Ba la mật đều là thiện pháp, nên
tu một thời nhiếp được năm; lấy một Ba la mật làm chủ, các
Ba la mật khác làm chi phần. Có Bồ tát tu sâu về Thí ba la
mật, an trú trong Thí Ba la mật, khi bố thí cho chúng sinh,
được có tâm từ, từ tâm từ khởi lên thân nghiệp từ, khẩu
nghiệp từ khi ấy Bồ tát liền được Giới ba la mật, vì sao? Vì
nghiệp từ là ba thiện đạo, căn bản của Giới ba la mật là
không tham, không sân và chánh kiến. Ba nghiệp từ ấy sinh ra
ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng. Từ tức là thiện
nghiệp, vì lợi ích chúng sinh nên gọi là từ.
Ðược Tấn ba la mật
là Bồ tát vi Nhất thiết trí nên bố thí.
Bị người lãnh thọ giận
là nếu thí chủ xướng rằng: Ta có thể bố
thí hết thảy, nhưng người lãnh thọ không được vừa ý liền nói
rằng: Ai bảo ông mời ta đến mà không theo ý ta? Giận là ý
nghiệp ác, mắng là khẩu nghiệp ác, đánh hại là thân nghiệp
ác. Giận có thượng, trung, hạ. Thượng là giết hại; trung là
mắng nhiếc; hạ là tâm giận. Bấy giờ Bồ tát không sinh ba thứ
ác nghiệp, ý nghiệp là gốc nên chỉ nói ý nghiệp, nghĩ rằng:
Ðó là tội của ta. Ta mời người kia đến mà không thể làm vừa
ý họ, do ta phước mỏng nên không thể bố thí đầy đủ. Nếu ta
sân giận thời đã mất tài vật lại mất luôn phước đức, thế nên
không nên giận.
Ðược Tấn ba la mật
là nếu Bồ tát khi bố thí bị người lảnh
thọ đánh hại, tâm không thoái thất, không bỏ. Vì bố thí nên
thân tâm siêng năng tinh tấn, nghĩ rằng: Ta đời trước không
cố gắng bố thí nên nay không thể làm vừa lòng người lảnh
thọ, hãy nên siêng bố thí, không nên tính kể các việc nhỏ
khác.
Ðược Thiền ba la mật
là Bồ tát bố thí không cầu phước lạc đời
nay, không cầu làm Chuyển luân Thánh vương, vua trời, vua
người đời sau; cũng không cầu cái vui thiền định thế gian,
vì chúng sinh nên không cầu cái vui Niết bàn. Chỉ thu nhiếp
các ý vào trong trí Nhất thiết chủng không cho tán loạn.
Ðược Bát nhã ba la mật
là Bồ tát trong khi bố thí, thường quán hết thảy pháp hữu vi
tạo tác đều hư dối không kiên cố, như huyễn, như mộng. Khi
bố thí cho chúng sinh, không thấy có ích, không ích, vì sao?
Vì vật bố thí chẳng phải nhất định là nhân duyên của vui,
hoặc có khi được ăn no bụng sình trướng mà chết; hoặc có khi
được của cải mà bị giặc hại; hoặc cũng vì được của cải nên
sinh tâm xan tham mà đọa vào ngạ qủy. Lại, tài vật là tướng
hữu vi, niệm niệm sinh diệt vô thường, là nhân duyên sinh ra
khổ.
* Lại nữa, của cải vào trong các pháp
thật tướng rốt ráo không, không phân biệt có lợi, không lợi.
Thế nên, Bồ tát đối với người lảnh thọ không cầu báo ân, đối
với việc bố thí không mong quả báo. Giả sử cầu quả báo, nếu
người kia không đền đáp thì sinh oán hận. Bồ tát nghĩ rằng:
Các pháp rốt ráo không, nên ta không có cho gì; nếu cầu quả
báo, hãy nên cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rốt ráo
không. Như tướng bố thí, nên không thấy có ích; vì rốt ráo
không nên cũng không thấy có ích. Như ậy, ở nơi Thí ba la
mật có được năm Ba la mật.
Bồ tát lấy Giới ba la mật làm chủ, có
thân, miệng, ý thiện nghiệp, bố thí, đa văn, tư duy, trì
giới giúp thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; vì sức trì
giới lớn nên tổng quát gọi là Giới ba la mật, vì sao? Vì ở
trong cõi Dục, việc trì giới là trên hết, còn việc bố thí,
đa văn, tư duy, tu tập trí tuệ, vì tâm ở cõi Dục tán loạn
nên đắc lực mỏng manh. Như trong A tỳ đàm nói: Pháp để ra
khỏi sự trói buộc vào cõi Dục, Sắc và Vô Sắc chính là thiền
định thanh tịnh; pháp học, vô học, và Niết bàn, Bồ tát cho
việc trì giới v.v... ấy không hướng đến Thanh văn, Bích chi
Phật địa, chỉ an trú trong Giới ba la mật, không cướp mạng
sống của chúng sinh cho đến giới không tà kiến; đó là Giới
trợ đạo, đầy đủ mười giới thiện đạo. Bồ tát trú trong hai
thứ giới ấy mà bố thí cho chúng sinh. Nếu ân cần cho ăn
v.v... như trong phẩm đầu đã nói rõ. Ðều đem phước ấy hồi
hướng đến Phật đạo, không hướng đến Nhị thừa, vì sao? Vì Bồ
tát có hai thứ phá giới: Một là làm mười bất thiện đạo; hai
là hướng tới Thanh văn, Bích chi Phật địa, trái với hai thứ
ấy là hai thứ trì giới.
Ðược Nhẫn ba la mật
là Bồ tát ở trong Giới ba la mật muốn đầy đủ Nhẫn nhục ba la
mật. Nếu có chúng sinh đi đến cắt xẻo thân thể từng mảnh đem
đi, cho đến Bồ tát không sinh một niệm giận, huống gì khởi
lên thân, khẩu, ác nghiệp.
Hỏi: Nhẫn nhục là đối với hết thảy việc
xâm hại đều nhẫn đưọc, cớ gì chỉ nói nhẫn trước việc cắt xẻo
thân thể?
Ðáp: Vật được ưa đắm có trong, có ngoài.
Trong là tự thân đầu, mắt, tủy, não v.v...; ngoài là vợ con,
châu báu v.v... tuy đều là vật ưa đắm, nhưng vật ưa đắm bên
trong sâu hơn. Có người nói đắm đuối theo của cải mà chết,
ấy cũng là thân. Lại, người ta phần nhiều tiếc thân, có khi
tiếc của, vì tiếc của ít nên không nói. Lại, người ấy còn
không tiếc thân, huống gì tiền của! Thế nên chỉ nói việc lớn
là đủ nhiếp việc nhỏ.
Hỏi: Bồ tát cho đến không sinh một niệm
giận, đó là đối với thân biến hóa hay là đối với thân cha mẹ
sinh? Nếu đối với thân biến hoá thời không có gì kì lạ; nếu
đối với thân cha mẹ sinh thì người chưa kiết sử, làm sao
không sinh một niệm giận được?
Ðáp: Có ngưòi nói: Do phiền não nghiệp
làm nhân duyên sinh thân, Bồ tát trong vô lượng kiếp vì
chúng sinh mà ưa tu tập từ tâm, dầu có bị cắt xẻ cũng không
giận, như cha mẹ lành nuôi con dại, tuy nó đái ỉa trên thân,
vì lòng quá thương yêu mà không giận, lại thương nó không
biết gì, Bồ tát đối với chúng sinh cũng như vậy, những người
chưa được Thánh đạo đều như trẻ nít, ta là Bồ tát, nên sinh
tâm từ như cha mẹ, dầu chúng sinh có gây ác đến với ta, ta
không nên giận, vì sao? Vi chúng sinh bị phiền não sai sử,
không được tự tại.
* Lại nữa, Bồ tát từ vô lượng kiếp,lại
đây thường tu pháp rốt ráo không, không thấy người hại,
người mắng, người lành, người dữ, hết thảy đều như huyễn,
như mộng; những người sân giận đều là vô minh; nếu ta đáp
trả họ, thời ta với họ không khác.
* Lại nữa, Bồ tát nghĩ rằng: Chỗ đáng
giận mà ta không giận thời là lợi lớn.
Ðược Tinh tấn ba la mật
là ở trong Giới ba la mật phần nhiều là
hạng người xuất gia, thỉnh thoảng có hạng người tại gia. Hết
thảy người xuất gia đều được vô lượng giới luật nghi, đầy đủ
bốn mươi thứ thiên đạo, sâu vào thật tướng các pháp, vượt
quá Thanh văn, Bích chi Phật địa. ba thứ giới ấy gọi là Giới
ba la mật. Người tại gia không có vô lượng giới luật nghi,
thế nên không đầy đủ ở trong Giới ba la mật. Bồ tát nghĩ
rằng: Ta nay bỏ cái vui thế gian mà vào đạo, không thể chỉ
trú ở trì giới, vì trì giới là trú xứ của các công đức khác;
nếu chỉ được trú xứ, không được các công đức khác thời được
lợi rất ít; thí như người ở trong hòn đảo châu báu mà chỉ
lấy được ngọc thủy tinh thời lợi rất ít. Vì thế nên, Bồ tát
muốn đủ năm Ba la mật nên thân tâm siêng năng tinh tấn. Thân
tinh tấn là đúng như pháp làm ra của cải dùng đem bố thí;
tâm tinh tấn là các ác tâm xan, tham v.v... hiện đến phá sáu
Ba la mật, không để cho vào. Ðược hai thứ tinh tấn ấy rồi,
nên nghĩ rằng: Hết thảy chúng sinh chìm đắm trong sinh tử,
ta nên cứu vớt, đặt lên chỗ cam lồ, người Thanh văn chỉ độ
một thân còn không nên giải đãi, huống gì Bồ tát độ mình, độ
chúng sinh mà giải đãi; vì lẽ ấy nên ta không nên giải đãi,
phế bỏ; tuy thân khổ nhọc mà tâm không nên ngừng, vì cớ sao?
Vì pháp Ðại thừa này nếu không vận dụng thời bị bại hoại.
Ðược Thiền ba la mật
là Bồ tát ở trong Giới ba la mật hoặc vì
chưa được pháp vô sinh nhẫn nên gió phiền não thổi động cây
đại nguyện, muốn phá hoại Giới ba la mật ấy. Bấy giờ nên cầu
cái vui thiền định, trừ bỏ cái vui năm dục lạc; cái vui năm
dục trừ, nên giới được thanh tịnh, phiền não tuy chưa dứt
hết, cũng đã bị nhiếp phục nên không thể gây loạn. Thí như
rắn độc, vì bị sức chú thuật nên độc không thể phun nhằm.
Thiền là bốn thiền, bốn định vô sắc, bốn tâm vô lượng. Bồ
tát được thiền, tâm tuy mềm dịu song vì an trú trong Giới ba
la mật nên cũng không thủ lấy Thanh văn, Bích chi Phật địa.
Bồt tát nghĩ rằng: Ta nên tu Thiền ba la mật, không vì Niết
bàn Tiểu thừa, cũng không vì quả báo, chỉ vì độ chúng sinh
nên nói thật tướng các pháp. Trí thật tướng ấy từ thiền định
sinh, tâm ấy không bị giác quán làm lay động, cũng không bị
tham dục, sân nhuế làm ô trược, buộc tâm một nơi thanh tịnh,
mềm dịu, thời phát sinh thật trí. Như nước đứng lặn thời
chiếu sáng phân minh. Bồ tát ở trong Giới ba la mật được
thiền ấy, được thiền định nên tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh
nên biết các pháp như thật. Pháp hữu vi do nhân duyên hòa
hợp sinh, hư dối. Bồ tát lấy mắt tuệ quán sát không thấy
pháp hữu vi ấy có thật. Pháp hữu vi có nhiều tên gọi là tác
pháp, hữu vi, số pháp, tướng pháp, hoặc có hoặc không, vì
hữu vi nên có thể nói vô vi; tướng hữu vi còn không thể có
được, huống gì vô vi.
Hỏi: Pháp hữu vi là có tướng, pháp vô vi
là không tướng, nay sao trong pháp hữu vi lại nói không có
tướng?
Ðáp: Vô vi có hai thứ: Một là tịch diệt
không có tướng, không có hý luận, như Niết bàn; hai là đối
đãi nhau, không có nhơn nơi có mà sanh. Như ở tại miếu đường
không có con ngựa, thời có thể sinh vô tâm, vô tâm ấy là
nhơn duyên sinh phiền não, làm sao là pháp vô vi được? Vì Bồ
tát không thấy pháp có không, chỉ thấy các pháp như như,
pháp tánh, thật tế.
Hỏi: Ông trước nói lìa"có" thời không có
"không" nay sao nói thấy như như, pháp tánh thực tế?
Ðáp: Không thấy pháp hữu vi hoặc thường,
lạc, ngã, tịnh, pháp hư dối ấy nếu không có, tức là pháp
thật. Vì thấy pháp vô sinh nên có thể xa lìa pháp hữu sinh;
pháp vô sinh ấy không có định tướng có thể thủ đắc, chỉ có
khả năng khiến người ta xa lìa pháp hữu sinh hư dối, nên gọi
là vô sinh. Nếu có được trí tuệ như vậy, lại do sức phương
tiện và bổn nguyện bi tâm nên không thủ chứng Nhị thừa mà
thẳng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ấy gọi là Bồ tát
ở trong Giới ba la mật được đầy đủ năm Ba la mật.
(Hết cuốn 80
theo bản Hán)
- Hết
tập 04 -