---o0o---
Cuốn 3
Chương 4
GIẢI THÍCH: TRÚ
VƯƠNG-XÁ THÀNH
KINH:
Trú ở Thành Vương-xá
LUẬN:
Hỏi:
Sao không nói ngay pháp Bát-nhã
Ba-la-mật, mà nói Phật trú ở thành?
Đáp:
Nói phương xứ, thời gian và nhân
vật, khiến lòng người sanh tịnh tín vậy.
Sao gọi là trú?
Thân có bốn oai nghi là: Nằm, ngồi, đi, đứng, ấy gọi là trú.
Lại nữa, để làm khiếp sợ bọn Ma quân và khiến chúng đệ tử hoan
hỷ nhập vào các Thiền định, cho nên Phật trú ở thành Vương-xá
này.
Lại nữa, có ba thứ
trú là: Thiên trú, Phạm trú và Thánh trú. Trú pháp của trời
Lục dục gọi là Thiên trú. Trú pháp của Phạm-thiên cho đến
Phi-phi-tưởng-thiên, ấy gọi là Phạm trú. Trú pháp của chư
Phật, Bích-chi Phật, A-la-hán gọi là Thánh trú. Trong ba trú
pháp ấy, đức Phật trú nơi trú pháp của bậc Thánh; vì thương
xót chúng sanh nên trú ở thành Vương-xá.
Lại nữa, làm ba
việc bố thí, trì giới, thiện tâm gọi là Thiên trú. Tu bốn tâm
vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Xả gọi là Phạm trú. Tu ba tam muội là:
Không, Vô tướng, Vô tác, gọi là Thánh trú. Phật ở trong trú
pháp của bậc Thánh.
Lại nữa, có bốn thứ
trú là: Thiên trú, Phạm trú, Thánh trú và Phật trú. Ba thứ như
trên đã nói. Phật trú là: Vô lượng tam muội như Thủ Lăng
Nghiêm v.v… Mười lực, Mười tám pháp bất cọng, các thứ tuệ như
Nhất thiết trí, v.v… và mười tám vạn bốn ngàn môn Pháp tạng độ
người. Những công đức của chư Phật như vậy, là chỗ trú xứ của
Phật. Phật trú ở trong đó.
Lược nói về "Trú"
đã xong.
Nay nói về "thành
Vương-xá"
Hỏi:
Các đại thành như Xá-bà-đề,
Ca-tỳ-la, Ba-la-nại đều có các nhà vua, cớ sao chỉ gọi thành
này là Vương-xá?
Đáp:
Có người nói: Vua nước Ma-kiệt-đà
(Magadha) có người con một đầu, hai mặt, bốn cánh tay. Người
thời bấy giờ cho là bất tường. Vua liền xé thân và đầu người
con đem quăng ra đồng vắng. Nữ quỷ La-sát tên là Xà-la, hiệp
thân nó lại đem về nuôi, sau lớn thành người, sức mạnh gồm
thâu các nước, làm vua thiên hạ, bắt tám vạn bốn ngàn quốc
vương, giam ở trong năm núi này. Do lực thế mạnh trị cõi
Diêm-phù-đề, người Diêm-phù-đề nhân đó gọi núi này là thành
Vương-xá.
Lại nữa, có người
nói rằng trong thành của vua Ma-kiệt-đà ở trước đây bị lửa
cháy, mỗi lần cháy mỗi lần làm lại, như thế đến bảy lần, quốc
dân mệt mỏi, vua rất lo sợ, họp các người trí hỏi ý kiến, có
người nói nên đổi chỗ ở, vua liền tìm chỗ ở, thấy năm núi này
bao quanh như thành, liền dựng Cung điện trong đó mà ở. Do vậy
mà nó có tên là thành Vương-xá.
Lại nữa, thời cổ
đại, nước này có vua tên là Bà-tẩu, tâm nhàm chán thế pháp,
xuất gia làm tiên nhân. Lúc ấy, các Bà-la-môn tại gia cùng với
các tiên nhân xuất gia luận nghị. Bà-la-môn tại gia nói: "Kinh
thơ nói: Trong khi tế trời phải giết vật và ăn thịt". Các vị
tiên nhân xuất gia lại nói: " Trong khi tế trời, không nên
giết vật, ăn thịt".
Họ cùng nhau tranh
cãi mãi. Các Bà-la-môn xuất gia nói: "Ở đây có vị Đại vương
xuất gia làm tiên nhân, các ngươi tin tưởng chăng?" Các
Bà-la-môn tại gia nói: "Tin". Các vị tiên nhân xuất gia nói:
"Ta nhờ người này làm chứng, hôm sau sẽ hỏi". Các Bà-la-môn
tại gia ngay đêm ấy, đi đến trước chỗ tiên nhân Bà-tẩu, hỏi
mọi việc xong, nói với tiên nhân Bà-tẩu: "Ngày mai luận nghị,
ông hãy giúp chúng tôi".
Như vậy, ngày mai
khi luận nghị, các tiên nhân xuất gia hỏi tiên nhân Bà-tẩu:
"Trong khi tế trời, có nên giết vật ăn thịt chăng?" Tiên nhân
Bà-tẩu đáp: "Theo pháp của Bà-la-môn, trong khi tế trời nên
giết vật ăn thịt ". Các tiên nhân xuất gia hỏi tiếp: "Còn thật
tâm ông thì sao, có nên giết vật ăn thịt chăng?" Tiên nhân
Bà-tẩu nói: "Vì tế trời nên giết vật ăn thịt. Con vật bị chết
trong khi tế trời đó, sẽ được sinh lên trời". Các tiên nhân
xuất gia nói: "Ông nói không phải, ông đại vọng ngữ!" Rồi họ
liền thóa mạ, nói: "Ngươi là kẻ mắc tội, diệt đi!". Lúc ấy,
tiên nhân Bà-tẩu liền bị chôn xuống đất, lút mắt cá. Đó là
cánh cửa ban đầu mở ra cho kẻ có tội lớn. Các tiên nhân xuất
gia nói: "Ngươi nên nói thật, nếu cố vọng ngữ thì thây ngươi
sẽ bị chôn vào trong đất". Tiên nhân Bà-tẩu nói: "Tôi biết vì
tế trời mà giết vật ăn thịt, không tội". Tức thì lại bị chôn
vào trong đất đến đầu gối. Như vậy, chôn dần đến lưng, đến cổ.
Các tiên nhân xuất gia nói: "Ngươi nay vọng ngữ, thì phải chịu
quả báo hiện tại như thế; còn nếu như ngươi nói thật, tuy bị
chôn xuống đất nhưng chúng tôi vẫn có thể cứu ngươi ra, tha
tội cho".
Bấy giờ tiên nhân
Bà-tẩu tự suy nghĩ: "Ta là người quý trọng, không nên nói hai
lời. Lại trong bốn pháp Vệ-đà của Bà-la-môn, có nói đủ nhân
duyên khen ngợi phép tế trời; chỉ ta một người chết có gì đủ
kể", nên vẫn một lòng nói: " Trong pháp tế trời, giết vật ăn
thịt không tội". Các tiên nhân xuất gia nói: " Ngươi là kẻ
trọng tội, diệt đi, không cần nhìn thấy ngươi nữa!". Khi ấy
toàn thân Bà-tẩu bị chìm trong lòng đất.
Từ đó về sau và cho
đến ngày nay, thường theo vương pháp của tiên nhân Bà-tẩu, mỗi
khi tế trời đều giết vật. Đương lúc hạ đao giết thì nói "
Bà-tẩu giết ngươi".
Con của Bà-tẩu tên
là Quảng-xa, kế vị làm vua, sau cũng nhàm chán thế pháp, nhưng
lại không thể xuất gia. Quảng-xa suy nghĩ như vầy: "Tiên vương
cha ta xuất gia mà bị chôn sống, nếu trị vì thiên hạ, thì còn
gây tội lớn. Ta nay nên tự xử thế nào đây?" Trong lúc suy nghĩ
như thế, vua bỗng nghe trong hư không có tiếng nói: "Ngươi nếu
đi đến gặp chỗ mà ngươi thấy hiếm có, khó gặp được, thì ngươi
nên làm nhà trong đó mà ở".
Nói lời ấy xong,
liền không còn nghe tiếng nữa. Chưa bao lâu, vua đi săn, thấy
một con Nai chạy mau như gió, vua đuổi theo mà không kịp, bèn
đuổi mãi không dừng, bá quan tùy tùng không ai theo kịp cả. Đi
dần tới trước, vua thấy có năm hòn núi bao vây nghiêm ngặt
vững chắc, đất bằng phẳng, cỏ non nhỏ mịn, hoa đẹp khắp nơi,
đủ thứ cây rừng, hoa quả đầy dẫy, suối ấm, ao tắm đều trong
sạch. Đất ấy trang nghiêm, nơi nơi có rải hoa trời, hương
trời, nghe tấu nhạc trời. Lúc bấy giờ, các kỹ nhạc Càn-thát-bà
vừa thấy vua lại, đếu tự rút lui, vua nghĩ: "Đây là chỗ hy hữu
chưa từng thấy, vậy đúng là ta nên làm nhà mà ở đây".
Suy nghĩ như vậy
xong, quần thần bá quan tìm dấu mà đến. Vua nói với quần thần:
"Trước kia, ta nghe thấy trong hư không có tiếng nói: Ngươi
nếu đi đến chỗ mà thấy là chỗ hiếm có, khó gặp thì ngươi nên
làm nhà mà ở đó. Nay ta đã thấy nơi hiếm có này, ta hãy làm
nhà ở trong đó". Vua liền bỏ thành cũ mà ở núi đó. Vị vua ấy
đầu tiên trú ở nơi đó, từ đó về sau, đời đời tiếp nối ở đó. Vị
vua ấy tiên khởi tạo lập Cung xá, nên gọi là thành Vương-xá.
Lược nói "Thành
Vương-xá" đã xong.
KINH: Trong núi
Kỳ-xà-quật.
LUẬN:
"Kỳ xà" là chim
Thứu, "Quật" là núi
Hỏi:
Sao gọi là Thứu đầu sơn?
Đáp:
Núi ấy đỉnh tợ chim Thứu. Người ở
thành Vương-xá thấy núi ấy tợ chim Thứu, nên cùng nhau truyền
miệng nói là Thứu đầu sơn, nhân đó mà gọi là Thứu đầu sơn.
Lại nữa, trong rừng
Thi-đà ở phía nam thành Vương-xá, có nhiều xác người chết, các
chim Thứu thường đến ăn rồi trở lại đậu ở đầu núi, người bấy
giờ bèn gọi là Thứu đầu sơn. Núi này là núi cao lớn nhất trong
năm núi, có nhiều rừng đẹp, nước tốt, các bậc Thánh hay ở đó.
Hỏi:
Đã biết nghĩa của núi Kỳ-xà-quật,
còn vì sao Phật trú ở thành Vương-xá? Pháp của chư Phật là từ
bi đối với tất cả, như mặt trời chiếu sáng vạn vật không đâu
là không tới. Có các thành lớn như Âu-kỳ-ni, Phú-lâu-na
Bạt-đàn, A-lam-xa-đa-la, Phất-ca-la-bà-đa… những thành lớn như
vậy, đông đúc, giàu vui, sao Phật không trú ở đó, mà thường
trú ở thành Vương-xá và Xá-bà-đề (Xá-vệ)? Các thành Ba-la-nại,
Ca-tỳ-la-bà, Chiêm-bà, Ta-sí-đa, Câu-diệm-tỳ, Cưu-lâu v.v… tuy
có khi Phật trú ở các nơi đó, nhưng phần nhiều Phật trú ở
thành Vương-xá và Xá-bà-đề. Làm sao biết Phật phần nhiều trú ở
hai nơi đó? Vì thấy các kinh Phật phần nhiều nói ở hai thành
ấy, mà ít nói ở thành khác?
Đáp:
Phật tuy đại từ với khắp cả,
nhưng các đại thành Âu-kỳ-ni v.v… là nơi biên quốc nên không
trú ở. Lại không ở đất Di-ly-xa, vì kẻ tệ ác nhiều, thiện căn
chưa thuần thục, như kệ nói:
"Như ánh mặt
trời chiếu,
Hoa đến lúc thì
nở,
Nếu hoa chưa thể
nở,
Không thể ép phải
nở.
Phật cũng lại như
thế,
Bình đẳng mà thuyết
pháp,
Thiện căn chín thì
nở,
Chưa chín thời
không nở.
Vì vậy nên Thế Tôn,
Trú trong ba hạng
người,
Lợi trí, thiện căn
chín,
Kiết sử phiền
não mỏng".
Lại nữa, vì tri ân
nên Phật phần nhiều trú ở hai thành Vương-xá và Xá-bà-đề.
Hỏi:
Vì tri ân như thế nào mà phần
nhiều trú ở hai thành ấy?
Đáp:
Nước Kiều-tát-la là nơi đức Phật
đản sanh. Như Phật trả lời vua Tần-bà-ta-la (Bimbisara) rằng:
"Có Quốc độ tốt
đẹp,
Ở tại bên núi
Tuyết,
Giàu vui, nhiều báu
lạ,
Tên gọi là
Kiều-tát-la (Kosala)
Họ Thích, giống mặt
trời,
Ta sanh trong họ
đó,
Tâm chán già, bệnh,
chết
Xuất gia cầu
Phật đạo".
Lại, vua Ba-tư-nặc
(Prasenajit), Quốc chủ nước Kiều-tát-la (Kosala) trú ở trong
đại thành Xá-bà-đề (Sravatthi). Phật là Pháp chủ cũng trú ở
thành này, vì hai chủ thì nên ở một nơi, nên Phật phần nhiều
trú ở Xá-bà-đề (Xá-vệ).
Lại nữa, nước
Kiều-tát-la là nơi sanh thân của Phật, vì tri ân nên Phật trú
ở Xá-bà-đề nhiều.
Hỏi:
Nếu vì tri ân mà ở Xá-bà-đề
nhiều, thì nước Ca-tỳ-la-vệ gần chỗ Phật sanh, sao không trú ở
đó nhiều?
Đáp:
Phật đã dứt hết kiết sử, không
còn dư tập, nên dù gần thân thuộc cũng không sanh dị tưởng.
Nhưng các đệ tử giòng họ Thích phần nhiều chưa ly dục, nếu ở
gần người thân thuộc, thời tâm nhiễm trước dễ sanh.
Hỏi:
Vì sao Phật không bảo hộ cho các
đệ tử người thành Xá-bà-đề, mà lại trú ở đó nhiều?
Đáp:
Đệ tử ở Ca-tỳ-la-bà nhiều. Khi
Phật mới trở về nước cùng với một nghìn Tỳ-kheo của anh em
Ca-diếp, họ là những người trước đã tu theo pháp Bà-la-môn,
hành khổ hạnh trong núi nên thân hình tiều tụy. Lúc Phụ vương
của Ngài trông thấy họ, cho rằng các Tỳ-kheo ấy không đủ để
làm rạng rỡ cho đức Thế Tôn, vua liền chọn con em của các quý
nhân họ Thích và các tráng niên của thường nhân, mỗi hộ một
người khiến xuất gia. Trong số đó, có người thiện tâm vui đạo,
có người không vui; còn các Tỳ-kheo ấy, vua giữ lại không cho
họ trở về bản xứ. Còn chúng đệ tử người Xá-bà-đề thì không như
vậy, vì vậy nên Phật thường trú ở Xá-bà-đề mà không thường trú
ở Ca-tỳ-la-bà.
Lại nữa, phép xuất
gia không nên ở gần thân thuộc, vì gần thân thuộc tâm dễ nhiễm
trước, như lửa như rắn. Như con các Bà-la-môn tại gia, vì sự
học vấn mà không ở tại quê nhà, huống là hàng xuất gia Sa-môn.
Lại nữa, thành
Xá-bà-đề lớn, thành Ca-tỳ-la-bà không được như vậy. Thành ở
Xá-bà-đề có chín ức nhà, nếu trú ở đó ít thời gian thì không
thể độ được nhiều người, vì vậy cần phải trú ở đó lâu hơn.
Lại nữa, thành
Ca-tỳ-la-bà là nơi Phật đản sinh; người trong đó đã tập hành
lâu ngày, thiện căn thuần thục, trí tuệ lanh lợi, Phật chỉ ở
đó một thời gian ngắn để thuyết pháp, không cần đợi lâu, hóa
độ xong rồi đi. Còn người ở Xá-bà-đề, hoặc mới tập hành, hoặc
tập hành đã lâu, hoặc thiện căn thuần thục, hoặc thiện căn
chưa thuần thục, hoặc lợi căn, hoặc độn căn, vì học nhiều thứ
kinh thơ mà tâm lanh lợi, rơi vào các lưới tà kiến, thờ đủ
hạng thầy, thuộc đủ loại trời, và người tạp hành nhiều, vì vậy
Phật ở đó lâu. Như thầy trị ung nhọt, biết mụn nhọt đã chín,
phá cho vỡ mủ ra, xức thuốc rồi đi, nếu mụn nhọt chưa chín
thời ở lại lâu mà bôi, chớm thuốc. Phật cũng như vậy, nếu đệ
tử thiện căn thuần thục thì giáo hóa xong liền đi đến chỗ
khác; nếu đệ tử có thể độ mà thiện căn chưa thuần thục thời
Ngài phải ở lại lâu.
Phật xuất hiện thế
gian, chính vì muốn độ chúng sanh, đưa đến cảnh giới Niết-bàn,
nơi vui sướng an ổn, cho nên phần nhiều trú ở Xá-bà-đề mà ít
trú ở Ca-tỳ-la-bà.
Phật vì chứng được
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu pháp thân là ở xóm
Ưu-lâu-tần-loa bên sông Ni-liên-thuyền thuộc nước Ma-kiệt-đà,
nên trú ở thành Vương-xá nhiều.
Hỏi:
Đã biết nhân duyên trú ở thành
Vương-xá và Xá-bà-đề nhiều, trong hai thành ấy, sao Ngài lại
trú ở thành Vương-xá nhiều hơn?
Đáp:
Vì báo ân chỗ sanh thân nên Ngài
trú ở thành Xá-bà-đề nhiều. Hết thảy chúng sanh đều nhớ nghĩ
đến sanh địa, như kệ nói:
"Tất cả luận
nghị sư,
Yêu mến điều
mình biết,
Như người nhớ sanh
địa,
Tuy xuất gia còn
lụy".
Và, vì để báo ân
được thành tựu Pháp thân nên Ngài trú ở thành Vương-xá nhiều.
Chư Phật đều yêu mến Pháp thân. Như kệ nói:
"Chư Phật trong
quá khứ,
Hiện tại và vị
lai,
Đều cúng dường, thờ
kính,
Và tôn trọng
pháp thân".
Pháp thân thù thắng
hơn sanh thân, nên trong hai thành ấy, Ngài trú ở thành
Vương-xá nhiều hơn.
Lại nữa, vì ở đó,
tinh xá có chỗ tọa thiền nhiều, chỗ khác không có, như Trúc
Lâm (Veluvana), Bệ-bà-la-bạt-thứ, Tát-đa-ban-na-cầu-ha,
Nhân-đà-thế-la-cầu-ha, Tát-bà Thứ-hồn-trực-ca-bát-bà-la. Trong
năm núi Kỳ-xà-quật của thành Vương-xá có năm tinh xá như vậy,
Trúc Lâm tinh xá ở bình địa, các nước khác không có nhiều tinh
xá như ở đây. Thành Xá-bà-đề có một tinh xá Kỳ Hoàn và một
Ma-già-la-mẫu-đường, không có nơi thứ ba. Nước Ba-la-nại có
tinh xá ở trong vườn Nai, tên là Lê-sư-bàn-đà-na. Thành
Tỳ-gia-lê có hai nơi là Ma-ha-bàn và Lâu-xá bên bờ ao Di-hầu.
Câu-diệm-di có một nơi tên là vườn Cù-sư-la. Các nước như vậy,
hoặc một nơi có tinh xá, hoặc rừng cây trống. Vì thành
Vương-xá có nhiều tinh xá thích hợp cho người tọa thiền, nên
Phật trú ở đó nhiều.
Lại nữa, trong
thành đó có Lục sư ngoại đạo là Phú-na-la v.v… Họ tự nói ta là
người Nhất thiết trí, sánh đối với Phật. Lại có các luận nghị
sư ngoại đạo như Trường trão Phạm-chí họ Bà-ta, Câu-ca-na-đại
v.v… là những oan gia của Phật, không tin Phật pháp, ôm lòng
tật đố. Vì có bọn người đó, nên Phật trú ở đó nhiều. Ví như
chỗ có cỏ độc thì gần bên đó nhất định có thuốc hay. Lại như
kệ nói:
"Ví như con sư
tử.
Là vua trăm loài
thú,
Mà thét với sâu
con,
Tất bị chúng chê
cười.
Nếu ở giữa cọp beo,
Là loài thú dũng
mãnh,
Mà hăng hái thét
to,
Kẻ trí nên như
vậy".
"Các thầy luận nghị
như mãnh hổ,
Ở trong chúng không
còn sợ hãi.
Bậc đại trí tuệ
thấy nghe nhiều,
Là tối đệ nhất
trong chúng đó".
Vì các người đại
trí đa văn đều ở thành Vương-xá, nên Phật trú ở đó nhiều.
Lại nữa, vua
Tần-bà-tà-la đến ở đền thờ Già-gia, rước Phật và một ngàn
A-la-hán đã trừ kiết sử. Lúc ấy Phật thuyết pháp cho vua, vua
được đạo quả Tu-đà-hoàn, liền thỉnh Phật: "Xin Phật và tăng đi
đến thành Vương-xá của con, suốt đời thọ nhận y phục, ẩm thực,
ngọa cụ, y dược". Phật liền nhận lời. Vì vậy Phật trú ở thành
Vương-xá nhiều.
Lại nữa, trong bốn
phương của Diêm-phù-đề, phương Đông kể đầu, vì nơi mặt trời
mọc, tiếp đến phương Nam, Tây, Bắc. Tại phương Đông, nước
Ma-kiệt-đà là tối thắng. Trong nước Ma-kiệt-đà, thành Vương-xá
là tối thắng, trong đó có mười hai ức nhà. Sau khi Phật
Niết-bàn, vua A-xà-thế vì lẽ nhân dân ít dần nên bỏ đại thành
Vương-xá, mà dựng một thành nhỏ bên đó, rộng và dài một do
tuần, đặt tên là Ba-ta-lhất-đa-la (Pataliputra) còn lớn hơn
các thành khác, huống gì thành cũ Vương-xá.
Lại nữa, trong
thành đó người phần nhiều thông minh, đều học rộng biết nhiều,
các nước khác không như thế.
Lại nữa, Phật dự
biết có người đáng được độ, chờ thời, chờ nói, chờ người giáo
hóa mới có thể đắc đạo, đó là Thích-đề-hoàn-nhơn và tám vạn
chư thiên, phải ở trong thạch thất của Ma-già-đà mà đắc đạo,
vì thế nên Phật trú ở thành Vương-xá nhiều.
Lại nữa, nước
Ma-già-đà giàu vui, khất thực dễ được, các nước khác không
bằng. Vì ba nhân duyên: Một, vua Tần-bà-ta-la ước sắc trong
cung thường sắm sửa thức ăn cho một ngàn Tỳ-kheo. Hai,
Thọ-đề-già (Yiska) tuy sanh ở trong loài người mà hưởng thọ
khoái lạc chư thiên; lại có nhiều Ưu-bà-tắc giàu sang. Ba,
Long vương Ba-la-la có thiện tâm vâng theo giáo hóa, làm đệ tử
Phật, thường làm mưa tốt, trừ cơ cẩn cho đời, nên nước được no
đủ. Như sau khi đức Phật Niết -bàn, Trưởng lão Đại Ca-diếp
muốn kết tập Pháp tạng, suy nghĩ: "Nước nào no đủ an vui, khất
thực dễ được, để dễ chóng được kết tập pháp tạng?", suy nghĩ
như vậy xong, nhớ trong thành Vương-xá, có vua Tần-bà-ta-la
ước sắc thường sắm sửa thức ăn cho một ngàn Tỳ-kheo. Vua
Tần-bà-ta-la tuy đã chết, mà lệ ấy vẫn còn, ở đó khất thực dễ
được, dễ kết tập pháp tạng. Các chỗ khác không thể thường cúng
dường như vậy. Nếu lúc đi khất thực, gặp các ngoại đạo đến
luận nghị, nếu luận nghị với họ thì việc kết tập pháp tạng bị
bê trễ, nếu không luận nghị với họ, thời họ sẽ nói các Sa-môn
không bằng ta". Suy nghĩ như vậy, Ngài Ca-diếp chọn lấy một
ngàn A-la-hán tối thượng, dẫn đến núi Kỳ-xà-quật kết tập Kinh
tạng. Như trong A-hàm và Tỳ-ni nói rằng nước Tỳ-gia-ly có lúc
cũng đói khát. Như trong kinh Hàng-nan-đà-bà, Nan-đà Long
vương nói: "Nước Bà-xá-đề đói kém, các nước khác cũng thường
khi đói kém, còn trong nước Ma-kiệt-đà không có chuyện đó".
Vì vậy nên biết
nước Ma-kiệt-đà sung túc yên vui, khất thực dễ được.
Lại nữa, thành
Vương-xá ở giữa các núi nhàn tĩnh, tinh xá các nước khác ở
bình địa, nhiều người phức tạp ra vào, vì qua lại dễ nên không
được nhàn tĩnh. Lại trong các núi này có nhiều tinh xá, các
người tọa thiền, các người thánh nhân đều ưa chỗ nhàn tĩnh,
nên phần nhiều ở núi. Phật là chủ tể của các bậc Thánh và
người tọa thiền, nên trú ở thành Vương-xá nhiều.
Hỏi:
Nếu Phật trú ở thành
Vương-xá, được rồi, nhưng sao không trú ở Trúc viên mà thường
trú ở Kỳ-xá-quật?
Đáp:
Tôi đã trả lời là
Thánh nhân và người tọa thiền ưa ở chỗ nhàn tĩnh.
Hỏi:
Còn bốn núi khác, là
Bệ-bà-la-bạt-thứ v.v… sao không thường ở mà thường ở
Kỳ-xà-quật?
Đáp:
Kỳ-xá-quật là tối
thắng trong năm núi, tối thắng thế nào? Kỳ-xá-quật có tinh xá
gần thành mà núi thì khó lên, nên hạng người tạp không hay
đến, gần thành nên đi khất thực không nhọc, vì vậy Phật thường
trú ở Kỳ-xà-quật, mà không ở các chỗ khác.
Lại nữa, Trưởng lão
Đại Ca-diếp ở trong Kỳ-xà-quật kết tập ba Pháp tạng, độ xong
những chúng sanh khả độ, muốn theo Phật vào Niết-bàn nên sáng
sớm đắp y, ôm bát vào thành Vương-xá khất thực rồi lên
Kỳ-xà-quật nói với các đệ tử: "Ta nay muốn vào Vô-dư
Niết-bàn". Nói như vậy xong, vào phòng ngồi kiết-già, các
thiền định vô lậu tự huân ướp thân. Đệ tử của Đại Ca-diếp nói
với các quý nhân: "Các người biết không, hôm nay Tôn giả Đại
Ca-diếp vào Vô-dư Niết-bàn ?" Các quý nhân nghe được đều hết
sức u sầu nói: "Phật đã diệt độ, Đại Ca-diếp hộ trì Phật pháp
nay lại muốn vào Vô-dư Niết-bàn!".
Các quý nhân, các
Tỳ-kheo, vào lúc xế chiều tụ tập ở Kỳ-xà-quật. Trưởng lão Đại
Ca-diếp lúc xế chiều từ thiền định dậy, vào giữa chúng ngồi
tán thuyết về vô thường, rằng hết thảy pháp hữu vi vì nhân
duyên sanh nên vô thường. Trước không nay có, có rồi hoàn
không nên vô thường. Nhân duyên sanh nên vô thường, vô thường
nên khổ, khổ nên vô ngã, vì vô ngã nên người có trí không nên
chấp ngã và ngã sở. Nếu chấp ngã và ngã sở thì bị vô lượng ưu
sầu khổ não. Trong hết thảy thế giới, tâm nên nhàn chán mà cầu
ly-dục. Thuyết các thứ khổ não như thế trong thế giới, khai mở
tâm cho đại chúng, khiến vào Niết-bàn.
Nói lời ấy xong,
Tôn giả liền mặc y Tăng-già-lê nhận được từ Phật, mang y bát,
cầm tích trượng, như chim Kim-sí hiện bay lên hư không, với
bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi của thân; một thân hiện ra vô
lượng thân, khắp cả thế giới phương Đông; từ vô lượng thân trở
lại một thân, phần thân trên xuất lửa, phần thân dưới xuất
nước, phần thân trên xuất nước, phần thân dưới xuất lửa. Ở
phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy, làm cho chúng tâm nhàm chán
đời, đều hoan hỷ xong, Tôn giả ở tại đỉnh Kỳ-xà-quật, cùng y
bát đầy đủ, phát nguyệ⮺ "Nguyện cho thân tôi không hoại, khi
đức Di-lặc thành Phật, cốt thân này của tôi xuất hiện trở lại,
lấy nhân duyên ấy để độ chúng sanh". Phát nguyện như vậy, Tôn
giả đi thẳng vào trong đá ở trên đỉnh Kỳ-xà-quật, như đi vào
bùn nhuyễn, vào xong, núi khép lại. Về sau, khi con người sống
tám vạn bốn ngàn tuổi, thân cao tám mươi thước. Phật Di-lặc ra
đời, thân Phật cao một trăm sáu mươi thước, mặt Phật hai mươi
bốn thước, vòng hào quang mười dặm. Lúc ấy chúng sanh nghe đức
Phật Di-lặc ra đời, vô lượng người theo Phật xuất gia. Lúc
Phật ở giữa đại chúng thuyết pháp lần đầu tiên, có chín mươi
chín ức người chứng được đạo quả La-hán, đầy đủ sáu thông. Hội
thứ hai, có chín mươi ức người chứng được đạo quả La-hán. Hội
thứ ba, có chín mươi ba ức người chứng được đạo quả La-hán. Từ
đó về sau, độ vô số người.
Nhân dân bấy giờ
dần dần về sau sinh biếng nhác, chán nản. Phật Di-lặc thấy
chúng nhân như vậy, dùng ngón chân mà mở núi Kỳ-xà-quật ra.
Lúc ấy, cốt thân của Trưởng lão Đại Ca-diếp mặc y Tăng-già-lê
hiện ra, đảnh lễ chân Phật Di-lặc, rồi bay lên hư không hiện
các thần biến như trước, liền ở giữa hư không tự diệt thân mà
vào Niết-bàn.
Bấy giờ, các đệ tử
của Phật Di-lặc trông thấy, lấy làm lạhỏi: "Đó là giới nào, tợ
như người mà nhỏ, thân mặc pháp y mà có thể làm biến hóa?" Đức
Phật Di-lặc đáp: ""Đó là đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni ở đời
quá khứ tên là Đại Ca-Diếp, tu hạnh A-lan-nhã; ít muốn, biết
đủ; bậc nhất về hạnh tu Đầu Đà trong hàng Tỳ-kheo, chứng được
Sáu thần thông, cọng giải thoát và là đại A-la-hán. Lúc ấy,
con người sống một trăm tuổi, tăng thì ít mà giảm thì nhiều,
cho nên thân nhỏ mà có thể làm chuyện to như thế. Các người
thân lớn, lợi căn, tại sao không làm được công đức như vậy?"
Bấy giờ các đệ tử
đều hổ thẹn, sanh tâm rất nhàm chán, Phật Di-lặc tùy theo tâm
chúng sanh mà thuyết các pháp cho họ. Có người được A-la-hán,
A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Tư-đà-hoàn, có người gieo giống thiện căn
Bích-chi Phật, có người được vô sanh pháp nhẫn, Bất thối
Bồ-tát, có người sanh trong loài trời, loài người hưởng thọ
phước báo.
Do vậy, nên biết
núi Kỳ-xà-quật là chỗ phước đức cát tường, các bậc Thánh ưa ở.
Phật là chủ tể của các bậc Thánh, nên Phật thường ở núi
Kỳ-xà-quật.
Lại nữa, núi
Kỳ-xà-quật, là trú xứ của các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện
tại. Như trong Kinh Phú-lâu-na nói: "Phật nói với Phú-lâu-na:
Giả sử cho Tam thiên đại thiên thế giới đến kiếp thiêu cháy
rồi lại sanh. Ta vẫn thường trú trong núi này. Hết thảy chúng
sanh, vì kiết sử buộc ràng, không tạo công đức để thấy Phật,
nên không thấy Ta".
Lại nữa, núi
Kỳ-xà-quật làchỗ thanh tịnh, tươi tốt của Tam thế Phật và các
Bồ-tát, không còn chỗ nào như vậy, nên Phật hay trú ở núi
Kỳ-xà-quật.
Lại nữa, các kinh
Đại thừa đều thuyết ở núi Kỳ-xà-quật, các chỗ khác thì ít, vì
sao vậy? Vì ở đó là chỗ thanh tịnh, có phúc đức, nhàn tĩnh, là
chỗ tam thế chư Phật ở và Mười phương các Bồ-tát cùng tán thán
cung kính chỗ đó. Chư Thiên, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Ca-lầu-la,
Càn-thát-bà, Chân-đà-la, Ma-hầu-la-già v.v… Các Quỷ thần đại
lực thủ hộ, cúng dường cung kính chỗ đó, như kệ nói:
"Núi Kỳ-xà-quật
này,
Trú xứ của chư
Phật,
An nghỉ của Thánh
nhân,
Vì che mát tất cả,
Các khổ được giải
thoát,
Chỉ còn chân pháp
thôi".
Lại nữa, vì ở đó,
vô lượng đại Bồ-tát có trí tuệ phước đức lực trong mười phương
thường đến chiêm ngưỡng đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ cung
kính nghe pháp. Phật thuyết kinh Đại thừa phần nhiều ở núi
Kỳ-xà-quật. Trong các kinh Đại thừa, Kinh Bát nhã là tối đại,
sao không thuyết ở núi Kỳ-xà-quật được!?
Lược nói núi
Kỳ-xà-quật xong.
CHƯƠNG 5
GIẢI THÍCH: CỌNG
MA-HA TỲ-KHEO TĂNG
KINH: Cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng
LUẬN:
"Cùng" là cùng một chỗ,
cùng một thời, cùng một tâm, cùng một giới, cùng một sự thấy
(kiến), cùng một đạo, cùng một giải thoát, ấy gọi là "Cùng".
"Ma-ha" là
lớn (đại) hoặc nhiều, hoặc hơn. Vì sao gọi là"Lớn"?
Nghĩa là ở trên tất cả mọi người, là đã dứt hết mọi chướng
ngại, là được Thiên vương, đại nhân cung kính, ấy gọi là lớn.
Vì sao gọi là "Nhiều"? Số đến năm mươi ngàn nên gọi là
nhiều. Sao gọi là "Hơn"? Nghĩa là có thể phá hết luận
nghị của chín mươi sáu phái ngoại đạo, nên gọi là hơn.
Vì sao gọi là "Tỳ-kheo"?
Tỳ-kheo còn gọi là Khất sĩ, vì nuôi sống mình một cách trong
sạch nên gọi là Khất sĩ. Như trong kinh nói: "Xá-lợi-phất vào
thành khất thực, được rồi hướng vào vách ngồi ăn. Lúc ấy có nữ
Phạm-chí tên là Tịnh Mục đi đến, thấy Xá-lợi-phất, hỏi:
"Sa-môn, ông ăn phải không?"
Đáp: "Phải, tôi
ăn".
-
Ông là Sa-môn cúi
miệng xuống mà ăn phải không?
-
Không phải.
-
Ngửa miệng lên mà
ăn phải không?
-
Không phải.
-
Ông vuông miệng
mà ăn phải không?
-
Không phải.
-
Ông quay miệng
theo bốn phía mà ăn phải không?
-
Không phải.
Tịnh mục nói: "Cách
ăn có bốn, tôi hỏi ông, ông đều trả lời không phải; tôi không
hiểu, xin ông hãy nói cho".
- Có người xuất gia
mà nuôi sống mình một cách bất tịnh như hòa hiệp thuốc men,
gieo lúa, trồng cây v.v…; ấy gọi là cúi miệng xuống mà ăn.
- Có người xuất gia mà nuôi sống mình một cách bất tịnh như
xem tinh tú, trời trăng, đoán gió mưa, sấm sét v.v…; ấy gọi là
ngửa miệng mà ăn.
- Có người xuất gia mà nuôi sống mình một cách bất tịnh như
dua vạy theo cường hào thế lực, thông sứ bốn phương, nói lời
xảo trá để cầu được nhiều v.v…; ấy gọi là vuông miệng mà ăn.
- Có người xuất gia mà nuôi sống mình một cách bất tịnh như
học các chú thuật, bói toán tốt xấu v.v…; ấy gọi là quay miệng
theo bốn phía mà ăn.
- Này cô, tôi không rơi vào bốn cách ăn bất tịnh đó. Tôi theo
phép khất thực thanh tịnh mà nuôi sống mình".
Lúc ấy Tịnh Mục nghe nói một cách thanh tịnh như vậy, sanh tâm
hoan hỷ tín giải. Xá-lợi-phất nhân đó nói pháp cho nghe mà
chứ được đạo quả Tu-đà-hoàn.
Thanh tịnh khất
thực để nuôi sống mình như vậy, nên gọi là Khất sĩ.
Lại nữa, "Tỳ" có
nghĩa là phá, "Kheo" có nghĩa là phiền não. Phá được phiền não
nên gọi là Tỳ-kheo.
Lại nữa, người xuất
gia gọi là Tỳ-kheo, cũng như người Hồ, Hán, Khương, Lỗ đều có
danh tự riêng.
Lại nữa, khi thọ
giới tự nói: "Tôi là … Tỳ-kheo, suốt đời giữ giới" nên gọi là
Tỳ-kheo.
Lại nữa, "Tỳ" có
nghĩa làm cho sợ, "Kheo" có nghĩa là có thể, là có thể làm cho
Ma vương và Ma dân sợ. Đương khi xuất gia, cạo tóc, mặc pháp
y, thụ giới, là lúc làm cho Ma sợ, vì sao sợ? Ma vương nói:
"Người ấy ắt được vào Niết-bàn". Như Phật nói: "Người nào hay
cạo đầu, mặc pháp y, nhất tâm thụ giới, người ấy dần dần dứt
kiết sử, lìa khổ mà vào Niết-bàn".
Sao gọi là Tăng
già? "Tăng già" Tàu dịch là "Chúng". Nhiều Tỳ-kheo hòa hợp một
chỗ, gọi là Tăng già. Như các cây lớn tụ lại rậm rạp gọi là
rừng, mỗi một cây không phải là rừng, trừ mỗi một cây ra cũng
không là rừng. Như vậy mỗi một Tỳ-kheo không gọi là Tăng, trừ
mỗi một Tỳ-kheo ra cũng không là Tăng. Các Tỳ-kheo hòa hợp lại
mới gọi là Tăng. Tăng có bốn hạng: Tăng biết xấu hổ, Tăng
không biết xấu hổ, Tăng như dê câm, Tăng chơn thật.
- Sao gọi là
Tăng biết xấu hổ Trì giới không phá giới, thân miệng thanh
tịnh, có thể phân biệt tốt xấu, chưa đắc đạo, ấy gọi là Tăng
biết xấu hổ.
- Sao gọi là
Tăng không biết xấu hổ Phá giới, thân miệng không thanh
tịnh, không việc ác nào không làm, ấy gọi là Tăng không biết
xấu hổ.
- Sao gọi là
Tăng như dê câm? Tuy không phá giới, nhưng độn căn không
trí tuệ, không phân biệt được tốt xấu, không biết phạm khinh
phạm trọng, không biết có tội không tội. Nếu có việc, Tăng hai
người cùng cãi, thời không thể quyết đoán, im lặng không nói.
Ví như dê trắng, cho đến bị người ta đem giết, cũng không thể
la lên một tiếng, ấy gọi là Tăng dê câm.
- Sao gọi là
Tăng chơn thật? Hoặc bậc Hữu học, hoặc bậc Vô học, trụ
trong bốn quả, thường hành đạo tứ hướng, ấy gọi là Tăng chơn
thật. Trong đây, hai hạng Tăng (Tăng có biết xấu, Tăng như dê
câm) có thể cùng chung làm một trăm lẻ một Kiết-ma, như
Kiết-ma thuyết giới, thọ tuế; các việc đều được phép làm.
Trong đó thiệt Thanh-văn Tăng có sáu ngàn năm trăm. Bồ-tát
Tăng có hai hạng là Tăng có biết xấu hổ và Tăng chơn thiệt;
còn Thanh-văn Tăng có một hạng là Tăng chơn thiệt, vì đây là
thiệt Tăng. Các hạng khác đều gọi là Tăng. Do đó nên gọi là
Tăng.
KINH: Một phần
năm ngàn trong số lớn.
LUẬN:
Sao gọi là số lớn? Ít tăng lên ít
giảm xuống, ấy gọi là số lớn. Sao gọi là một phần? Là trong số
đại chúng đông đảo chỉ lấy một phần, ấy gọi là phần. Các
Tỳ-kheo ấy từ trong đại chúng ngàn vạn người kể lấy một phần
năm ngàn người. Do đó nên gọi là một phần năm ngàn trong số
lớn.
KINH: Đều là
A-la-hán.
LUẬN:
Sao gọi làA-la-hán? "A-la" có
nghĩa là giặc, "Hán" có nghĩa là phá. Phá hết thảy giặc phiền
não, ấy gọi là A-la-hán.
Lại nữa, A-la-hán
đã dứt sạch hết các lậu, nên đáng được nhân gian và chư thiên
cúng dường.
Lại nữa, "A" có
nghĩa là không, "La-hán" có nghĩa là sanh. Nghĩa là không còn
sanh lại trong đời sau, nên gọi là A-la-hán.
KINH: Các lậu đã
hết.
LUẬN:
Ba thứ lậu của ba cõi đã dứt sạch
hết không còn, nên gọi là "các lậu đã hết".
KINH: Không còn
phiền não.
LUẬN:
Đã đoạn trừ hết thảy các kiết sử,
dòng trôi, tham ái, ách, trói, che lấp, buộc v.v… nên nói
"không còn phiền não".
KINH: Tâm được
giải thoát tốt đẹp, huệ được giải thoát tốt đẹp.
LUẬN: Hỏi:
Vì sao nói tâm được giải
thoát tốt đẹp, huệ được giải thoát tốt đẹp?
Đáp:
Hàng ngoại đạo ly dục, tâm chỉ
được giải thoát ở một xứ, một đạo, chẳng phải được giải thoát
hết thảy pháp chướng ngại. Vì vậy, A-la-hán gọi là "tâm được
giải thoát tốt đẹp, huệ được giải thoát tốt đẹp".
Lại nữa, các A-la-hán ở trong hai
đạo tâm được giải thoát là Kiến đế đạo và Tư duy đạo; vì thế
nên gọi là tâm được giải thoát tốt đẹp. Học nhân tâm tuy được
giải thoát mà chẳng phải giải thoát tốt đẹp, vì cớ sao? Vì còn
kiết sử dư tàn.
Lại nữa, các ngoại đạo, không đầy
đủ pháp trợ đạo, hoặc làm một việc công đức, hoặc làm hai việc
công đức mà cầu đạo, tất không cầu được. Như người chỉ bố thí
để cầu thanh tịnh, như người tế trời nói là có thể thoát khỏi
ưu não, suy đồi, có thể sanh trong quốc độ thường lạc, cũng
lại nói trong tám thanh tịnh đạo là: 1- Tự giác, 2- Nghe, 3-
Đọc kinh, 4- Sợ nỗi khổ bên trong, 5- Sợ nỗi khổ của chúng
sanh lớn, 6- Sợ nỗi khổ của người, trời, 7- Được thầy hay, 8-
Bố thí. Chỉ nói điều thứ tám là thanh tịnh đạo. Lại nữa, có
ngoại đạo chỉ bố thí, trì giới cho là thanh tịnh; có người chỉ
bố thí, cầu trí tuệ cho là thanh tịnh. Các trợ đạo như vậy
không đầy đủ, hoặc không công đức, hoặc ít công đức cho là
thanh tịnh. Người ấy tuy từ một xứ tâm được giải thoát, không
gọi là giải thoát tốt đẹp, vì Niết-bàn đạo không đầy đủ, như
kệ nói:
"Người không
công đức không thể qua,
Biển cả của
sanh, già, bệnh, chết,
Người ít công đức
cũng không qua,
Thiện hành đạo
pháp của Phật thuyết".
Ở đây nên nói đến
Kinh Tu-bạt-đà Phạm-chí (Subharabrahma - Càrisutra): Tu-bạt-đà
Phạm-chí một trăm hai mươi tuổi được năm thứ thần thông, ở bên
ao A-ma-bạt-đạt-đa. Đêm nọ, Phạm-chí mộng thấy một người mất
mắt, lõa hình, đứng trong bóng tối, mặt trời rớt, đất vỡ, nước
biển cả khô, gió lớn nổi lên thổi núi Tu-di vỡ tan. Thức dậy
sợ hãi, ông ta suy nghĩ: "Cớ sao như vậy, mạng ta sắp hết, hay
chúa tể trời đất sắp đọa?" Do dự không tự rõ vì cớ sao lại
thấy có ác mộng ấy? Có vị trời là thiện tri thức, bạn từ đời
trước, từ trên trời xuống nói với Tu-bạt-đà: "Ông đừng sợ hãi,
có một bậc Nhất thiết trí gọi là Phật, nửa cuối đêm sẽ vào
Vô-dư Niết-bàn, nên ông mộng thấy như thế chớ không phải vì
bản thân của ông đâu".
Sáng hôm sau,
Tu-bạt-đà đi đến rừng cây trong vườn Câu-di-na-kiệt
(Kusinayara) thấy A-nan kinh hành, nói với A-nan: "Tôi nghe
nói Thầy của ông thuyết pháp về đạo Niết-bàn mới, vào nửa đêm
nay Ngài sẽ vào Niết-bàn, tâm tôi có chỗ nghi, xin được gặp
Phật nhờ giải quyết chỗ nghi của tôi". A-nan nói: "Thân thể
của Thế Tôn đã suy yếu quá chừng, nếu ông đến hỏi, sẽ làm cho
Thế Tôn mệt nhọc thêm". Tu-bạt-đà-la ba lần cầu thỉnh, A-nan
vẫn đáp một lời. Phật từ xa nghe được, dậy A-nan: "Hãy để cho
Tu-bạt-đà đến trước Ta mà tự do nạn vấn. Đây là lần đàm đạo
cuối cùng của Ta và Tu-bạt-đà là đệ tử sau chót của ta".
Lúc ấy, Tu-bạt-đà
được đến trước Phật, hỏi han Thế Tôn xong, ngồi xuống một bên,
nghĩ như vầy: "Các bọn ngoại đạo xả bỏ ân ái tài bảo mà xuất
gia, đều không đắc đạo, chỉ một mình Sa-môn Cù-đàm đắc đạo".
Nghĩ như vậy xong, liền hỏi Phật: "Lục sư ngoại đạo ở cõi
Diêm-phù-đề này đều tự xưng ta là người Nhất thiết trí, lời
nói ấy đúng không?" Bấy giờ Thế Tôn đáp lại bằng kệ:
"Ta mới mười
chín tuổi,
Xuất gia học
Phật đạo,
Ta xuất gia đến
nay,
Đã qua năm mươi
năm.
Tịnh giới, thiền,
trí, tuệ,
Ngoại đạo không một
phần,
Ít phần cũng không
có,
Hà huống Nhất
thiết trí".
Nếu không có Bát
chánh đạo, thì ở đó không có đạo quả thứ nhất, thứ nhì, thứ
ba, thứ tư. Nếu có Bát chánh đạo, thì ở đó có đạo quả thứ
nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư . Này Tu-bạt-đà, trong pháp của
Ta đây có Bát chánh đạo nên ở trong đó có đạo quả thứ nhất,
thứ nhì, thứ ba, thứ tư . Trong pháp của các ngoại đạo đều
không, không có đạo, không có quả, không có Sa-môn, Bà-la-môn.
Ta, ở giữa đại chúng, thật đã cất lên tiếng rống Sư tử như
vậy."
Phạm-chí Tu-bạt-đà
nghe pháp ấy liền chứng được đạo quả A-la-hán, rồi suy nghĩ:
"Ta không nên Bát Niết-bàn sau Phật". Suy nghĩ như vậy xong, ở
trước Phật ngồi kiết già, tự dùng thần lực, từ trong thân xuất
ra lửa đốt thân mà thủ lấy diệt độ.
Vì vậy, Phật nói
không có công đức hay ít công đức, là pháp trợ đạo không đầy
đủ, đều không độ thoát được. Phật Thuyết đủ hết thảy công đức,
nên Ngài hay độ thoát được các đệ tử, như vị thầy thuốc nhỏ
(lang y) chỉ dùng một, hai thứ thuốc không đầy đủ, nên không
thể chữa lành trọng bệnh. Các thầy thuốc lớn (giỏi) biết đủ
các thứ thuốc nên có thể chữa lành các bệnh.
Hỏi:
Nếu xa lìa hết thảy phiền não
trong tam giới, tâm được giải thoát, sao Phật nói xa lìa nhiễm
ái thì tâm được giải thoát?
Đáp:
Ái có sức mạnh to lớn,
trói buộc, đóng kín tâm, cho nên nói đến ái mà không nói đến
các phiền não khác. Ái dứt thì các phiền não khác dứt.
Lại nữa, nếu khi
nghe người ta nói "vua đến" thì biết chắc chắn có các kẻ tùy
tùng. Nhiễm ái cũng như vậy, như nắm lấy đầu khăn thì cả cái
khăn đều đi theo. Ái nhiễm cũng như vậy, hễ ái dứt thì biết
các phiền não khác đều dứt.
Lại nữa, các kiết
sử đều thuộc ái và kiến. Phiền não thuộc ái thì che đậy tâm;
phiền não thuộc kiến thì che đậy tuệ. Như vậy, hễ ái xa lìa
thì kiết sử thuộc ái cũng xa lìa, được tâm giải thoát; hễ vô
minh xa lìa thì kiết sử thuộc kiến cũng xa lìa, được tuệ giải
thoát.
Lại nữa, năm ngàn
A-la-hán này đã được pháp bất thoái, được trí vô sanh, vì thế
nên tâm được giải thoát tốt đẹp, huệ được giải thoát tốt đẹp,
vì không bị thối. Thối pháp A-la-hán được thời giải thoát, như
Cù-đề-ca v.v… tuy được giải thoát song không phải giải thoát
tốt đẹp, vì còn bị thối pháp.
KINH: Tâm đã
điều phục nhu nhuyến.
LUẬN:
Hoặc được cung kính cúng dường,
hoặc bị sân hận mắng nhiếc, đánh đập, tâm vẫn bình đẳng, không
thay đổi; hoặc gặp trân bảo, hay ngói đá, tâm vẫn xem như
nhau; hoặc có người cầm dao cắt chặt tay chân, hay có người
đem Chiên đàn thoa thân, tâm cũng bình đẳng, không thay đổi.
Lại nữa, vì đã dứt
hết cội gốc dâm dục, sân nhuế, kiêu mạn, nghi, kiến nên gọi là
tâm đã được điều phục nhu nhuyến.
Lại nữa, các
A-la-hán ấy, ở nơi dục nhiễm mà không nhiễm, ở nơi đáng giận
mà không giận, ở nơi si mà không si, thủ hộ sáu căn, thế nên
gọi là tâm đã được điều phục nhu nhuyến, như kệ nói:
"Người thủ hộ
các căn,
Như ngựa tốt
khéo dậy,
Như vậy, người thật
trí,
Được chư thiên
kính thị".
Những kẻ phàm nhân
không hay thủ hộ sáu căn, không dứt dục, sân, mạn, si, nghi
nên không gọi là điều phục nhu nhuyến.
KINH: Ma-ha
Na-già.
LUẬN:
"Ma-ha" có nghĩa là lớn; "Na"
nghĩa là không; "Già" nghĩa là tội. A-la-hán đã dứt hết các
phiền não, nên gọi là đại vô tội.
Lại nữa, Na-già
(Naga) hoặc gọi là Rồng, hoặc gọi là Voi. Năm ngàn A-la-hán ấy
là bậc tối đại lực trong các hàng A-la-hán, nên gọi là như
Rồng như Voi. Vì đi trong nước sức Rồng lớn nhất, đi trên đất
sức thì Voi mạnh nhất.
Lại nữa, như voi
chúa khéo được điều trị, có thể phá đại quân, xông thẳng tới
không quay lui, không sợ đao gậy, không ngại nước lửa, không
bỏ chạy, không thối lui, đến chết không tránh. Các A-la-hán
cũng lại như thế, do tu thiền định trí tuệ, có thể phá dẹp Ma
quân và các giặc kiết sử, cho dù bị mắng chửi, đánh đập, không
hối không giận; già chết hay nước lửa, không sợ không ngại.
Lại nữa, như đại
Long vương, từ biển cả bay lên bủa mây che khắp cả hư không,
phóng điển chớp sáng, chiếu sáng trời đất, tuông trận mưa lớn,
thấm nhuần muôn vật. Các A-la-hán cũng lại như thế, từ trong
biển cả thiền định trí tuệ mà ra, giăng bủa mây từ bi che khắp
những căn cơ đáng được độ, hiện ánh sáng lớn và các thứ biến
hóa, nói pháp thật tướng, mưa vào tâm đệ tử, làm sanh khởi
thiện căn.
KINH: Những gì
phải làm đã làm xong.
LUẬN: Hỏi:
Sao gọi là "những gì phải
làm"; và sao gọi là "đã làm xong"?
Đáp:
Đã được các thiện pháp tín, giới,
định, xã, v.v… nên gọi là "những gì phải làm"; đã được các
thiện pháp trí tuệ, tinh tấn, giải thoát v.v… nên gọi là "đã
làm xong". Vì hai pháp ấy đầy đủ nên gọi là "những gì phải làm
đã làm xong".
Lại nữa, phiền não
gồm có hai thứ: Một thứ thuộc ái, một thứ thuộc kiến. Thứ
phiền não thuộc ái dứt nên gọi là "những gì phải làm"; thứ
phiền não thuộc kiến dứt nên gọi là "đã làm xong ".
Lại nữa, sắc pháp
đã khéo thấy rõ nên gọi là "những gì phải làm"; vô sắc pháp đã
khéo thấy rõ nên gọi là "đã làm xong". Đối hai pháp khả kiến
bất khả kiến, hữu đối vô đối v.v… cũng như thế.
Lại nữa, dứt pháp
bất thiện và vô ký nên gọi là "những gì phải làm"; pháp thiện
đã tư duy nên gọi là "đã làm xong". Văn tuệ, tư tuệ thành tựu
nên gọi là "những gì phải làm"; tư tuệ thành tựu nên gọi là"đã
làm xong". Những loại ba pháp cũng như thế.
Lại nữa, được noãn
pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp nên gọi là "những
gì phải làm"; được các thiện căn vô lậu về Khổ pháp nhẫn v.v…
nên gọi là "đã làm xong". Được kiến đế đạo gọi là "những gì
phải làm"; được tư duy đạo gọi là "đã làm xong". Được học đạo
gọi là "những gì phải làm"; được vô học đạo gọi là "đã làm
xong". Được tâm giải thoát gọi là "những gì phải làm"; được
tuệ giải thoát gọi là "đã làm xong". Lậu tận nên gọi là "những
gì phải làm"; được cọng giải thoát nên gọi là "đã làm xong".
Trừ tất cả kiết sử nên gọi là "những gì phải làm"; được phi
thời giải thoát nên gọi là "đã làm xong". Tự lợi ích xong nên
gọi là "những gì phải làm"; làm lợi ích người khác nên gọi là
"đã làm xong".
Nghĩa của "Những gì
phải làm đã làm xong" như vậy, tự do giải thuyết.
KINH: Vứt bỏ
gánh và có thể gánh.
LUẬN:
Năm uẩn thô nặng thường gây khổ
não gọi là "gánh", như Phật đã nói: "Sao gọi là gánh? Năm uẩn
là gánh nặng". Các A-la-hán đã trừ bỏ gánh ấy nên nói là "vứt
bỏ gánh". "Có thể gánh" là trong Phật pháp có hai gánh: Một là
tự lợi, hai là lợi tha. Hết thảy các lậu đã sạch, được các
công đức giải thoát, không còn phải hối hận, ấy là tự lợi. Các
công đức tín, giới, xả, định, tuệ có thể đem cho người gọi là
lợi tha. Các A-la-hán ấy, có thể gánh gánh của mình, gánh của
người, nên gọi là "có thể gánh".
Lại nữa, ví như
trâu lớn sức mạnh, có thể chở nặng. Các A-la-hán ấy cũng như
thế, được vô lậu căn, lực, giác, đạo, có thể gánh gánh Phật
pháp đại sự.
Do đó nên các
A-la-hán gọi là "có thể gánh".
KINH: Đã làm
được lợi mình.
LUẬN:
Sao gọi là lợi mình, và sao gọi
là không phải lợi mình? Làm các thiện pháp ấy là lợi mình, làm
các điều phi pháp khác, ấy gọi là không phải lợi mình.
Lại nữa, các công
đức tín, giới, xả, định, tuệ là hơn hết thảy tài bảo, vì đời
này, đời sau thường được vui, vì có thể đưa đến thành cam lồ;
vì ba nhân duyên đó nên gọi là lợi mình, như bài kệ trong phẩm
Tín nói:
"Người có được
tín, tuệ,
Là tài bảo bậc
nhất.
Các tài lợi ở đời,
Không bằng pháp
bảo ấy".
Lại nữa, nếu người
đời nay được vui, đời sau được vui, và được Niết-bàn thường
vui, ấy là lợi mình. Ngoài ra không phải lợi mình, như kệ nói:
"Đời biết các
thứ vô đạo pháp,
Cùng với cầm thú
không có khác,
Hãy cầu chánh trí
và đạo pháp,
Được thoát già
chết vào Niết-bàn".
Lại nữa, Bát chánh
đạo và Sa-môn quả, ấy gọi là các A-la-hán lợi mình. Năm ngàn
A-la-hán ấy được đạo và quả. Cả hai sự đều được nên gọi là lợi
mình.
KINH: Sạch hết
các hữu, kết.
LUẬN:
Có ba thứ hữu: Dục hữu, Sắc hữu,
Vô sắc hữu. Thế nào là Dục hữu? Nhân duyên của nghiệp và thủ
hệ thuộc vào Dục giới có thể sanh ra đời sau, đây cũng là
nghiệp báo; ấy gọi là Dục hữu. Sắc hữu, vô sắc hữu cũng như
thế, ấy gọi là "hữu". "Kết hết" là: kết có chín thứ kết là ái
kết, nhuế kết, mạn kết, si kết, nghi kết, kiến kết, thủ kết,
xan kết, tật kết. Kết sử ấy dứt hết cùng với "hữu", "hữu" ấy
dứt hết cùng với kết sử. Vì vậy nên gọi là "hữu, kết hết".
Hỏi:
Các A-la-hán, về kết sử thô thì
đã dứt hết vĩnh viễn, vì đã dứt hết phiền não; còn "hữu" thì
chưa phải dứt hết, vì sao? Vì A-la-hán khi chưa diệt độ thì
còn có các hữu nhãn căn v.v… năm ấm, mười hai nhập, mười tám
giới?
Đáp:
Không quan ngại gì, ấy là ở trong
quả mà thuyết nhân. Như Phật dạy khi cúng thí đồ ăn thì sẽ
được năm điều: Sống lâu, sắc đẹp, sức mạnh, an vui, biện tài.
Đồ ăn không phải bao giờ cũng làm cho người ta có được năm
điều ấy, vì có người được ăn uống nhiều mà chết, có người được
ăn uống ít màsống. Nhưng vì đồ ăn là nhân của năm điều ấy, cho
nên Phật dạy thí đồ ăn sẽ có được năm điều, như kệ nói:
"Không ăn thì
chắc chết,
Có ăn, chết chưa
định,
Cho nên Phật thuyết
rằng:
Cho ăn, được năm
điều".
Cũng như người ăn
năm trăm cân vàng ròng, vàng không thể ăn, nhưng vàng là nhân
của ăn nên nói ăn vàng. Phật nói: "Nữ nhân là giới cấu (cấu,
uế của giới). Nữ nhân không phải là giới cấu, nhưng là nhân
của giới cấu, nên nói nữ nhân là giới cấu. Như người từ chỗ
cao rơi xuống chưa thấu đất mà nói người ấy chết. Như vậy, các
A-la-hán do đã sạch hết kiết sử, mà biết "hữu" chắc chắn sẽ
hết, nói là "hữu, kết hết".
KINH: Do chánh
trí được giải thoát.
LUẬN:
Như đệ tử của Phạm-chí Ma-kiện-đề
đem thân ông để trên giường, rồi khiêng đi giữa thành thị chỗ
nhiều người, vàxướng lên: "Nếu người có mắt chỉ thấy được thây
của Ma-kiện-đề, thời người đó đều được đạo thanh tịnh, huống
là người lễ bái cúng dường?"
Có nhiều người tin
theo lời đó. Các Tỳ-kheo nghe lời ấy bạch Phật: "Bạch Thế Tôn
, việc ấy thế nào?" Phật nói kệ:
"Tiểu nhân mắt
thấy, cầu thanh tịnh,
Như vậy không
trí, không thật đạo,
Các kết, phiền não
đầy trong tâm,
Làm sao mắt thấy,
được tịnh đạo.
Nếu có mắt thấy
được thanh tịnh,
Cần gì trí tuệ và
công đức,
Mắt thấy cầu tịnh,
không việc ấy,
Công đức, trí
tuệ mới là tịnh".
Vì vậy nên nói "Do
chánh trí được giải thoát".
Hỏi:
Các A-la-hán, những gì phải làm
đã làm xong, không cần cầu tiến, cớ sao thường ở bên Phật,
không đi nơi khác mà độ sanh?
Đáp:
Hết thảy chúng sanh trong mười
phương tuy đều nên cúng dường Phật, nhưng A-la-hán thọ ân Phật
nặng hơn nên cúng dường gấp bội, vì cớ sao? Vì A-la-hán ấy
theo Phật mà được lãnh thọ vô lượng công đức, biết kiết sử đã
dứt, tín tâm càng nhiều, thế nên các đại đức A-la-hán ở bên
Phật lãnh thọ mùi vị an vui của công đức và cung kính cúng
dường báo ân đức Phật; vì vậy mà ở bên Phật. Các A-la-hán vây
quanh Phật thì Phật đức thêm tôn quý; như người dân Phạm-thiên
vây quanh vua Phạm-thiên, như trời Ba-mươi-ba vây quanh trời
Thích-đề-hoàn-nhơn. Như các quỷ thần vây quanh vua Tỳ-sa-môn,
như các Tiểu vương ở quanh Chuyển luân Thánh vương, như người
bệnh khi lành ở quanh người thày thuốc giỏi. Như vậy các
A-la-hán ở hai bên Phật, các A-la-hán vây quanh cúng dường
Phật, nên Phật đức thêm tôn nghiêm.
Hỏi:
Nếu các A-la-hán, những gì phải
làm đã làm xong, đã được lợi mình không cần nghe pháp, cớ sao
khi Phật nói Bát-nhã Ba-la-mật, lại cùng với năm ngàn
A-la-hán?
Đáp: :
Các A-la-hán tuy những gì phải
làm đã làm xong, nhưng Phật muốn đem trí tuệ thậm thâm để thử,
như đã thử Xá-lợi-phất. Như trong kinh Bà-la-môn (Bàràyana),
A-kỳ-đà-na mà thuyết kệ:
"Các hạng người
hữu học,
Và các người đếm
pháp,
Xin như Phật mà
nói,
Pháp sở hành của
họ".
Trong ấy, thế nào
là người học? Thế nào là người đếm pháp? Bấy giờ, Xá-lợi-phất
im lặng. Phật hỏi như vậy ba lần, Xá-lợi-phất đều im lặng.
Phật muốn chỉ bày đầu mối của nghĩa lý, mới hỏi Xá-lợi-phất:
"Có sanh chăng?" Xá-lợi-phất thưa: "Bạch Đại đức Thế Tôn, có
sanh".
Có sanh là vì muốn
diệt pháp hữu vi có sanh nên gọi là người học. Do trí tuệ được
pháp vônh, nên gọi là người đếm pháp.
Kinh này nên nói
rộng ra trong ấy.
Lại nữa, hoặc hữu
lậu, hoặc vô lậu, các thiền định chưa được nên muốn được, đã
được muốn cho bền sâu, nên các A-la-hán ở bên Phật để nghe
pháp.
Lại nữa, vì vui
hiện tiền, như trong Nan-đà-ca nói: "Vì đời này được vui nên
nghe pháp".
Lại nữa, các
A-la-hán ở bên Phật nghe pháp, tâm không nhàm chán, như trong
kinh Tỳ-lô-đề-ca (Pilotikasutra) nói: "Xá-lợi-phất nói với
Tỳ-lô-đề-ca rằng: "Trong pháp của ta, được nghe pháp không
biết nhàm chán".
Lại nữa, như Phật
Đại sư mà còn nhất tâm ở bên đệ tử để nghe họ thuyết pháp. Do
đó không nên nạn rằng: "A-la-hán là những gì phải làm đã làm
xong, cớ sao còn nghe pháp?" Ví như có người đủ no mà gặp món
ăn ngon còn ăn nữa, huống chi người đang đói khát mà không nên
ăn? Vì thế nên các A-la-hán tuy những gì phải làm đã làm xong,
vẫn thường ở bên Phật để nghe pháp.
Lại nữa, Phật trú
trong pháp giải thoát, các A-la-hán cũng trú trong pháp giải
thoát. Cùng trú pháp như nhau nên cùng làm quyến thuộc để
trang nghiêm. Như trong Kinh Chiên-đàn Thí dụ nói: "Rừng có
cây Chiên-đàn thì có cây Y-lan vây quanh, rừng có cây Y-lan
thì có cây Chiên-đàn vây quanh. Có Chiên-đàn thì Chiên-đàn họp
lại thành rừng cây, có Y-lan thì Y-lan thì họp lại vây quanh
lẫn nhau. Phật và các A-la-hán cũng như vậy. Phật trú trong
thiện pháp giải thoát, các A-la-hán cũng trú trong thiện pháp
giải thoát. Cùng trú pháp như nhau nên cùng làm quyến thuộc để
trang nghiêm. Phật có đại chúng vây quanh, như núi chúa Tu-di
có mười núi báu vây quanh, như voi chúa bạch huơng có voi bạch
huơng vây quanh, như sư tử vương có chúng sư tử vây quanh.
Phật cũng như vậy, Phật là phước điền vô thượng của thế gian,
cọng trú với các đệ tử vây quanh.
KINH: Chỉ trừ
A-nan, đang ở Học địa, được quả Tu-đà-hoàn.
LUẬN: Hỏi:
Cớ sao nói chỉ trừ A-nan?
Đáp:
Các A-la-hán được tán thán trên
đây, A-nan không ở trong số đó, vì sao? Vì đang ở Học địa,
chưa lìa hết dục.
Hỏi:
Đại đức A-nan là vị Thầy thứ ba,
là vị tướng lãnh về Chánh pháp của đại chúng, từng gieo giống
Niết-bàn qua vô lượng kiếp, thường gần Phật, gìn giữ Pháp
tạng. Đại đức là bậc lợi căn như vậy sao đến nay vẫn chưa lìa
hết dục, mà còn làm Học nhân?
Đáp:
Đại đức A-nan vốn nguyện như vầy:
"Ta là bậc nhất trong chúng đa văn", lại cũng vì pháp của chư
Phật, các A-la-hán đã làm xong những gì phải làm, thì không
nên làm người cung cấp cúng dường, vì các A-la-hán ở trong
Phật pháp có thể thành tựu việc lớn, đã phá giặc phiền não,
cùng với Phật ngồi trên giường giải thoát.
Lại nữa, Trưởng lão
A-nan, đối với các kinh thường nghe, thọ trì, đọc tụng thông
lợi, quán sát nên trí tuệ nhiều mà sự nhiếp tâm ít. Hai thứ
công đức này phải bằng nhau, mới có thể được lậu tận; vì lẽ đó
mà A-nan còn là vị Học nhân Tu-đà-hoàn.
Lại nữa, vì ham
cung cấp cho Thế Tôn, nên A-nan làm người cung cấp cho Phật.
A-nan lại suy nghĩ như vầy: "Nếu ta sớm thủ chứng lậu tận,
thời phải xa Thế Tôn, không còn được làm người cung cấp. Vì
vậy nên A-nan tuy có thể chứng đắc đạo quả A-la-hán mà tự chế
không thủ chứng.
Lại nữa, xứ, thời,
và người chưa hợp lại. Ngàn A-la-hán có khả năng kiết tập Pháp
tạng chưa họp ở núi Kỳ-xà-quật, đó là xứ. Thời mà Thế Tôn qua
đi chưa đến và Trưởng lão Kỳ-bà-tử chưa ở đó (nhờ Kỳ-bà-tử
khuyên A-nan mới lậu tận); vì thế nên Trưởng lão A-nan lậu
chưa sạch. Phải khi Thế Tôn qua đi, chúng kiết tập Pháp hợp mộ
chỗ, và Kỳ-bà-tử thuyết pháp cơ hiềm, khuyên can, cả ba sự đó
hợp lại thì A-nan mới được lậu tận.
Lại nữa, Đại đức
A-nan nhàm chán thế pháp ít, không như người khác, đó là do
A-nan đời đời ở giòng Vương giả, đoan chánh vô song, phước đức
vô lượng, là bà con gần với Thế Tôn, thường hầu hạ Phật, ắt có
ý nghĩ: "Ta hầu gần Phật, biết tạng Pháp bảo, đạo pháp lậu
tận, ta không sợ mất"; vì sự ấy mà không ân cần lắm đến việc
lậu tận.
Hỏi:
Tên Đại đức A-nan là do nhân
duyên nào? Do nhân duyên đời trước, hay do cha mẹ đặt, hay
nương theo nhân duyên mà đặt?
Đáp:
Do nhân duyên đời trước, cũng do
cha mẹ đặt, và cũng nương theo nhân duyên mà đặt.
Hỏi:
Nhân duyên đời trước như thế nào?
Đáp:
Thích-ca Văn Phật đời trước là
người thợ làm ngói tên là Đại-quang-minh (Prabhasa). Bấy giờ
có Phật hiệu là Thích-ca Văn, đệ tử tên là Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên, A-nan. Phật và đệ tử cùng đi đến nhà người thợ
làm ngói nghỉ một đêm. Bấy giờ người thợ ngói cúng dường Phật
và Tỳ-kheo tăng ba thứ: Chiếu cỏ, đèn và mật, rồi phát nghuyện
rằng: "Đương lai trong đời năm ác, già, bệnh, chết, khổ não
tôi sẽ làm Phật cũng hiệu là Thích-ca Văn như Phật ngày nay.
Đệ tử tôi cũng có tên như đệ tử Phật ngày nay". Do lời nguyện
của Phật như vậy mà có tên là A-nan.
Lại nữa, A-nan đời
đời lập nguyện rằng: "Ta ở trong chúng đệ tử đa văn của Phật
Thích-ca Văn, nguyện là bậc nhất và tên là A-nan".
Lại nữa, A-nan đời
đời nhẫn nhục, trừ sân hận, vì nhân duyên ấy, khi sanh ra đoan
chánh. Cha mẹ vì chỗ đoan chánh làm cho ai nấy đều hoan hỷ,
nên đặt tên là A-nan.
A-nan, Tàu dịch là
Hoan hỷ. Đó là tên do nhân duyên đời trước. Nhân duyên do cha
mẹ đặt tên như thế nào? Xưa có vua Nhật Chủng (giòng mặt trời)
tên là Sư-tử-hiếp (Simhahanu). Vua có bốn người con trai,
người con thứ nhất tên là Tịnh-Phạn (Sudhodana), thứ hai tên
Bạch-phạn (Suklodana), thứ ba tên Hộc-phạn (Pronodana), thứ tư
tên Cam-lộ-phạn (Amrtodana) và một người con gái tên là
Cam-lộ-vị (Amrtàrasa). Vua Tịnh-Phạn có hai con trai là
Tất-đạt-đa và Nan-đà. Vua Bạch-phạn có hai con trai là Bạt-đề
và Đề-sa (Bhadrika và Tisya). Vua Hộc-Phạn có hai con trai là
Đề-bà-đạt-đa và A-nan (Devadatta và Ananda). Vua Cam-lộ-Phạn
có hai con trai là Ma-ha-nam và A-nê-lô-đậu (Mahanaman và
Anirudha). Công chúa Cam-lộ-vị có một con trai tên Thi-bà-la
(Danapala).
Trong số đó, Bồ-Tát
Tất-đạt-đa, dần dần lớn lên, bỏ địa vị Chuyển luân Thánh
vương, nửa đêm xuất gia, đi đến trong nước Âu-lâu-tỳ-la
(Uruvela) bên bờ sông Ni-liên-thuyền, sáu năm khổ hạnh.
Bấy giờ, vì thương
nhớ con nên vua Tịnh-phạn thường sai sứ đi tìm, muốn biết tin
tức con mình đắc đạo chăng? Bệnh hay chết? Sứ giả trở về tâu
vua: "Bồ-tát chỉ còn da bọc xương gân, thân mạng rất suy vi;
hoặc nay, hoặc mai, chẳng còn bao lâu nữa". Vua nghe nói hết
sức sầu nhớ, chìm trong biển ưu não mà than: "Con ta đã không
làm Chuyển luân vương, lại không được làm Phật, sao lại chỉ
chịu suy nhược khổ sở, không được chi cả, mà chết!". Vua ưu
não như vậy đến hoang mang, mờ mịt, bối rối, bế tắc!
Bấy giờ, Bồ-tát bỏ
lối tu khổ hạnh, ăn cháo sữa trăm vị, thân thể no đủ, xuống
sông Ni-liên-thuyền tắm rửa xong, đi đến dưới cội Bồ-đề, ngồi
toà Kim-cang mà thề rằng: "Ta thề không bỏ chỗ ngồi kiết già
này cho đến khi thành đạt Nhất thiết trí, nếu không đạt được
Nhất thiết trí, thì không rời bỏ chỗ này".
Bấy giờ Ma vương
dẫn chúng mười tám vạn ức đến chỗ Bồ-tát, dám quyết hơn thua
cùng Bồ-tát. Bồ-tát dùng sức trí tuệ cả phá Ma quân. Ma không
hơn được phải rút lui mà tự nghĩ: "Không thắng được Bồ-tát thì
hãy đến làm khổ cha của người", liền đến chỗ vua Tịnh-phạn nói
dối rằng: "Con ông vừa cuối đêm nay đã qua đời rồi". Vua nghe
lời ấy, sợ hãi té trên giường, như cá vùi trong cát nóng. Vua
khóc và nói:
"A-di-đà (Ajita
- A-tư-đà) nói quấy,
Điềm lành cũng
chẳng linh,
Được lợi, tiếng
thơm tho,
Tất cả đều chẳng
có".
Bấy giờ thọ thần
Bồ-đề rất hoan hỷ, cầm hoa trời Mạn-đà-la đến chỗ vua
Tịnh-phạn nói kệ:
"Con ngài đã Đắc
đạo,
Đã phá tan chúng
Ma,
Sáng như mặt trời
mọc,
Soi thấu cả mười
phương.
Hoan hỷ được lợi
lớn,
Giải thoát hết thảy
khổ,
Nay đã Chuyển xe
pháp,
Không đâu không
thanh tịnh".
Vua nói: "Trước đây
có một vị Trời đến nói con ta đã chết, nay ngươi đến nói phá
hoại Ma quân, đắc đạo, hai lời nói trái nhau, biết ai đáng
tín?" Thần cây lại nói: "Thật không vọng ngữ. Vị trời trước
nói dối đã chết, đó là Ma ôm lòng ganh tnên đến xúc não. Ngày
nay các vị Trời, Rồng và Thần đem hoa hương cúng dường, giăng
đầy giữa hư không. Con Ngài thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp
trời đất".
Vua nghe lời ấy,
cởi bỏ tất cả tâm ưu sầu khổ não, nói: "Con ta tuy bỏ ngôi
Chuyển luân Thánh vương, nay được ngôi Pháp chuyển luân vương,
thật được đại lợi, chẳng mất mát gì", nên lòng vua rất hoan
hỷ.
Bấy giờ sứ giả của
Hộc-phạn vương đến tâu cùng Tịnh-phạn vương: "Hộc-phạn vương
vừa sanh được con trai". Tâm của vương rất hoan hỷ, nói: "Ngày
nay thật là đại cát, là ngày hoan hỷ". Vua nói với sứ giả
rằng: "Đứa trẻ ấy nên đặt tên là A-nan", đó là tên cha mẹ đặt.
Nương theo nhân
duyên mà đặt tên là như thế nào? Thân hình của A-nan đoan
chánh, thanh tịnh, như tấm gương sáng đẹp, dung nhan tướng mạo
già hay trẻ, đẹp hay xấu đều hiện cả trong thân. Thân ấy tươi
sáng trong sạch, người nữ trông thấy, dục tâm liền động, cho
nên Phật cho phép A-nan mang y che vai.
Vì A-nan thường
khiến người khác trông thấy thì tâm và mắt đều hoan hỷ, cho
nên gọi là A-nan. Bấy giờ người tạo luận tán rằng:
"Mắt như trăng
tròn sáng,
Mắt như hoa sen
xanh,
Nước biển cả Phật
pháp,
Chảy vào tâm A-nan.
Hay làm tâm mắt
người,
Trông thấy tâm hoan
hỷ,
Ai đều cầu thấy
Phật,
Hiện đủ không
thiếu vẻ".
Như vậy A-nan tuy
có thể chứng được đạo quả A-la-hán, song vì sự cúng dường
Phật, nên không dứt hết lậu. Do có đại công đức đó, tuy không
phải là bậc Vô học mà được ở trong số Vô học, tuy chưa ly dục
mà ở trong số ly dục. Do vậy nên trong số năm ngàn, vì thật
chưa phải đều là A-la-hán nên nói "chỉ trừ A-nan".
Chương 6
GIẢI THÍCH: "NGHĨA BA
CHÚNG"
KINH: Lại có năm trăm Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di, đều đã
thấy được Thánh đế
LUẬN: Hỏi:
Vì sao chúng Tỳ-kheo có
năm ngàn còn ba chúng kia mỗi chúng chỉ có năm trăm?
Đáp:
Người nữ phần nhiều trí tuệ kém,
phiền não nặng nề, chỉ mong hỷ lạc, ái hành nhiều, ít có thể
đoạn kiết sử để chứng được giải thoát, như Phật nói: "Pháp
nhân duyên khởi ấy sâu xa bậc nhất, khó thấy được. Đoạn hết
thảy phiền não, ly dục, chứng được Niết-bàn lại càng khó thấy
hơn". Cho nên người nữ không thể chứng được nhiều, không bằng
chư Tỳ-kheo.
Chúng Ưu -bà-tắc,
Ưu-bà-di là hàng cư gia, tâm bất tịnh, không thể đoạn hết các
lậu, chỉ có thể thấy được lý Tứ đế, mà ở vào hàng Hữu học, như
kệ nói:
"Khổng tước tuy
có thân sắc đẹp,
Không bằng hồng
nhạn bay được xa,
Bạch y tuy có được
phú quý,
Không bằng xuất
gia công đức hơn".
Các Tỳ-kheo-ni tuy
xuất gia, từ bỏ vinh hoa ở đời, mà trí tuệ kém, nên chỉ có năm
trăm Tỳ-kheo-ni A-la-hán.
Hai chúng Bạch y cư
gia, công việc bận rộn, nên đắc đạo ít, chỉ có năm trăm.
Hỏi:
Như năm ngàn A-la-hán đều được
tán thán, sao ba chúng này không được tán thán ?
Đáp:
Đại chúng đã được tán thán, thời
biết các chúng kia cũng được tán thán.
Lại nữa, nếu tán
thán riêng từng chúng thì bọn ngoại đạo sẽ chê trách: "Sao lại
tán thán Tỳ-kheo-ni, và sanh tâm phỉ báng họ", hoặc nếu tán
thán Bạch y, thì sẽ bị nói "để đuợc cúng dường"; cho nên không
tán thán.
Hỏi:
Trong các kinh Đại thừa khác,
Phật cùng với chúng đại Tỳ-kheo hoặc tám ngàn người, hoặc sáu
vạn, mười vạn người. Còn kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật ấy, là lớn
bậc nhất trong các kinh, như trong phẩm Chúc lụy nói: "Các
kinh khác đều quên hết tội đó rất ít, còn quên một câu kinh
Bát-nhã Ba-la-mật, thì tội đó rất nhiều", cho nên biết kinh
Bát-nhã Ba-la-mật là lớn bậc nhất. Ngay trong đại hội thứ nhất
của kinh bậc nhất ấy, tại sao chúng Thanh-văn số ít, chỉ có
Tỳ-kheo năm ngàn, Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di mỗi chúng
chỉ có năm trăm?
Đáp:
Vì đại kinh ấy sâu xa khó hiểu,
nên chúng Thanh-văn ít. Ví như vua có thứ báu thật, thì không
bày ra cho phàm nhân xem mà chỉ cho đại nhân đáng tin yêu xem
mà thôi. Cũng ví như khi vua mưu nghị thì chỉ bàn với các đại
thần và người trí đáng tin yêu, còn các bề tôi thời không được
dự vào.
Lại nữa, sáu ngàn
năm trăm người ấy đều đã đắc đạo, tuy không hiểu hết Bát-nhã
Ba-la-mật sâu xa này, nhưng đều có thể tín thọ, vì đã được bốn
thứ thuộc vô lậu. Ở các kinh khác, chúng Thanh-văn tuy nhiều
nhưng hỗn tạp, không phải tất cả đều đắc đạo.
Lại nữa, ở trong
đó, trước khi tán thán ngàn vạn A-la-hán, chọn lấy số tối
thắng là năm ngàn người. Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di cũng
thế. Người tối thắng khó được cho nên không nhiều.
(Hết cuốn 3 theo
bản Hán)
--o0o --
Mục Lục
Tập 01
Cuốn 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
11
| 12
| 13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19
| 20
--o0o --
Mục Lục Tổng Quát Luận Đại Trí Độ
Tập 01
|
Tập 02
|
Tập 03
|
Tập 04
|
Tập 05
--o0o --
Cập nhật: 01-07-2003