SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ
4
PHẨM VỊ TẰNG
HỮU PHÁP
38. KINH ÚC-GIÀ TRƯỞNG GIẢ (I)[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa
tại Bệ-xá-li, trong Đại lâm.
Bấy giờ Trưởng giả
Úc-già,
chỉ có một số phụ nữ theo hầu hạ và ông đang ở trước các phụ nữ ấy, từ
Bệ-xá-li ra đi. Ở khoảng giữa Đại lâm và Bệ-xá-li,
chỉ để hoan lạc với các kỹ nữ, như vị quốc vương.
Rồi thì, Trưởng giả
Úc-già, uống rượu say túy lúy, bỏ các phụ nữ kia ở lại đó, đi vào trong
Đại lâm. Đang lúc Trưởng giả Úc-già say rượu lúy túy, từ đàng xa trông
thấy Đức Thế Tôn ở giữa rừng cây, đoan chánh đẹp đẽ như vầng trăng giữa
đám sao, ánh sáng chói lọi rực rỡ, ánh sáng như tòa núi vàng, đầy đủ tướng
tốt, oai thần nguy nga, các căn tịch tĩnh, không bị ngăn che, thành tựu sự
điều ngự, tâm vắng lặng tịch mặc. Trưởng giả thấy Đức Phật rồi, lập tức
tỉnh rượu. Sau khi tỉnh rượu, Trưởng giả Úc-già liền đến chỗ Đức Phật, cúi
đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn
thuyết pháp cho ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng
vô lượng phương tiẹân thuyết pháp cho ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho
hoan hỷ rồi, như thông lệ của chư Phật, trước hết nói về pháp đoan chánh
cho người nghe hoan duyệt; tức là nói về thí, về giới, nói pháp sanh
thiên, chê bai dục là tai hoạn, sanh tử là ô uế, khen ngợi vô dục là vi
diệu, đạo phẩm thanh tịnh trong trắng. Sau khi Đức Thế Tôn nói những pháp
ấy cho ông rồi, ngài biết ông có tâm hoan hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến,
tâm nhẫn nại, tâm thăng tấn, tâm chuyên nhất, tâm không nghi, tâm không bị
che lấp, có khả năng, có sức mạnh, có thể kham thọ Chánh pháp. Rồi như
thông lệ của chư Phật, Ngài nói về pháp yếu chân chánh,
Đức Thế Tôn thuyết cho ông nghe về Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Lúc ấy Trưởng giả
Úc-già, ngay trên chỗ ngồi, thấy được bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Cũng như vải trắng dễ nhuộm thành màu. Trưởng giả Úc-già, cũng giống như
vậy, ngay nơi chỗ ngồi thấy được bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Rồi thì, Trưởng giả
Úc-già thấy pháp và đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi, vượt
qua hoặc, không còn tôn sùng ai khác, không còn theo ai khác, không còn do
dự, đã trụ nơi quả chứng, được vô sở úy đối với giáo pháp của Thế Tôn,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ và thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, con
nay tự thân xin quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo, cúi mong Đức Thế Tôn
chấp nhận cho con làm Ưu-bà-tắc; bắt đầu từ hôm nay trọn đời, xin tự quy y
cho đến mạng chung. Bạch Thế Tôn, từ ngày hôm nay, con xin theo Đức Thế
Tôn, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu,
thọ trì năm giới.”
Sau khi Trưởng giả
Úc-già xin theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm
giới, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật nhiễu quanh ba vòng rồi ra đi.
Ông liền trở về nhà,
triệu tập các người vợ
lại nói rằng:
“Các ngươi biết
không? Ta đã theo Đức Thế Tôn trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm
giới. Các ngươi nếu còn muốn được sống ở nơi đây thì có thể ở và làm việc
bố thí tạo phước. Nếu không muốn ở, ai về nhà nấy. Nếu các ngươi muốn có
chồng thì ta sẽ gả chồng cho.”
Bấy giờ người vợ cả
thưa Trưởng giả Úc-già rằng:
“Nếu tôn ông đã theo
Đức Phật, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới, thì nên đem
tôi gả cho người đàn ông kia.”
Trưởng giả Úc-già
liền gọi người đàn ông kia đến, tay trái cầm tay người vợ cả, tay phải
bưng chậu nước bằng vàng, bảo người kia rằng:
“Nay ta đem người vợ
cả này cho ngươi làm vợ.”
Người ấy nghe rồi,
liền vì quá sợ hãi, nên lông trong thân đều dựng đứng, thưa Trưởng giả
Úc-già rằng:
“Thưa Trưởng giả,
ngài muốn giết tôi chăng? Ngài muốn giết tôi chăng?”
Trưởng giả trả lời
rằng:
“Ta không giết ngươi
đâu. Vì ta đã theo Phật trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới,
do đó ta sẽ đem người vợ cả này cho ông làm vợ.
Trưởng giả Úc-già
khi đã cho người vợ cả này và ngay trong khi đó, hoàn toàn không có lòng
hối tiếc.
Bấy giờ, với vô
lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, Đức Thế Tôn ở trong đó tán thán khen
ngợi Trưởng giả Úc-già rằng Trưởng giả Úc-già có tám pháp vị tằng hữu.
Rồi thì, có một vị
Tỳ-kheo, khi đêm đã qua, vào lúc hừng sáng, khoác y ôm bát, đi đến nhà
Trưởng giả Úc-già.
Trưởng giả Úc-già từ
đàng xa trông thấy Tỳ-kheo đi đến, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai
sửa áo, chắp tay hướng về Tỳ-kheo mà thưa rằng:
“Kính chào Tôn giả.
Tôn giả đã từ lâu không đến đây. Mời ngồi nơi giường này.
Bấy giờ Tỳ-kheo ngồi
xuống giường ấy. Trưởng giả Úc-già đảnh lễ dưới chân Tỳ-kheo rồi ngồi sang
một bên. Tỳ-kheo bảo rằng:
“Này Trưởng giả. Ông
có điều thiệân lợi, có công đức lớn. Vì sao vậy? Đức Thế Tôn, với vô lượng
trăm ngàn đại chúng vây quanh, ở trong đó tán thán khen ngợi Trưởng giả
Úc-già rằng Trưởng giả Úc-già có tám pháp vị tằêng hữu. Này trưởng giả,
ông có những pháp gì?”
Trưởng giả Úc-già
trả lời Tỳ-kheo rằng:
“Đức Thế Tôn không
hề nói sai, nhưng con không biết Đức Thế Tôn vì lẽ gì nói như vậy. Nhưng
mong Tôn giả nghe cho, về những pháp gì mà con có.
“Một thời Phật du
hóa tại Bệ-xá-li, trong Đại lâm. Bấy giờ con chỉ có một số phụ nữ theo hầu
hạ và đang ở trước các phụ nữ ấy, từ Bệ-xá-li ra đi. Con đi đến khoảng
giữa Đại lâm và Bệ-xá-li, chỉ để hoan lạc với các kỹ nữ, như vị quốc
vương. Rồi thì, thưa Tôn giả, con lúc bấy giờ uống rượu say lúy túy, bỏ
các phụ nữ kia ở lại đó, đi vào trong Đại lâm. Thưa Tôn giả, con đang lúc
say rượu lúy túy, từ đàng xa trông thấy Đức Thế Tôn ở giữa rừng cây, đoan
chánh đẹp đẽ như vầng trăng giữa đám sao, ánh sáng chói lọi rực rỡ, ánh
sáng như tòa núi vàng, đầy đủ tướng tốt, oai thần nguy nga, các căn tịch
tĩnh, không bị ngăn che, thành tựu sự điều ngự, tâm vắng lặng tịch mặc.
Con thấy Đức Phật rồi, lập tức tỉnh rượu. Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.”
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả,
Sau khi tỉnh rượu,
con liền đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi sang
một bên. Bấy giờ Đức Thế Tôn thuyết pháp cho con, khuyến giáo, khích lệ,
làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiên thuyết pháp cho con,
khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ rồi, như thông lệ của chư Phật,
trước hết nói về pháp đoan chánh cho người nghe hoan duyệt; tức là nói về
thí, về giới, nói pháp sanh thiên, chê bai dục là tai hoạn, sanh tử là ô
uế, khen ngợi vô dục là vi diệu, đạo phẩm thanh tịnh trong trắng. Sau khi
Đức Thế Tôn nói những pháp ấy cho con rồi, Phật biết con có tâm hoan hỷ,
tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến, tâm nhẫn nại, tâm thăng tấn, tâm chuyên nhất,
tâm không nghi, tâm không bị che lấp, có khả năng, có sức mạnh, có thể
kham thọ Chánh pháp. Rồi như thông lệ của chư Phật, ngài nói về pháp yếu
chân chánh, Đức Thế Tôn thuyết cho con nghe về Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Lúc ấy
con, ngay trên chỗ ngồi, thấy được bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Cũng như vải trắng dễ nhuộm thành màu, con cũng giống như vậy, ngay nơi
chỗ ngồi thấy được bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Bạch Tôn giả, con
có pháp ấy.”
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả, con thấy pháp,
giác ngộ pháp, đắc pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi, vượt qua hoặc, không còn
tôn sùng người khác, không còn theo người khác, không còn do dự, đã trụ
nơi quả chứng, được vô sở úy đối với giáo pháp của Đức Thế Tôn. Bạch Tôn
giả, lúc ấy, con liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật
thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn, hôm nay con tự thân xin quy y Phật, quy y Pháp
và Chúng Tỳ-kheo, mong Đức Thế Tôn nhận con là Ưu-bà-tắc, bắt đầu từ hôm
nay cho đến trọn đời, xin’ tự thân quy y cho đến khi mạng chung. Bạch Thế
Tôn, từ nay con xin theo Đức Thế Tôn trọn đời, lấy phạm hạnh làm đầu, thọ
trì năm giới’. Bạch Tôn giả, từ khi con theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy
phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới, chưa từng biết mình đã phạm giới.
Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả, bấy giờ sau khi
con theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới
rồi, cúi đầu nhiễu quanh Phật ba vòng rồi ra về. Trở về nhà, con liền tập
trung các phụ nữ, rồi nói rằng:
“– Các ngươi biết
không? Ta đã theo Đức Thế Tôn trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm
giới. Các ngươi nếu còn muốn được sống ở nơi đây thì có thể ở và làm việc
bố thí tạo phước. Nếu không muốn ở, ai về nhà nấy. Nếu các ngươi muốn có
chồng thì ta sẽ gả chồng cho.
“Bấy giờ người vợ cả
thưa với con rằng:
“– Nếu tôn ông đã
theo Đức Phật, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới, thì nên
đem tôi gả cho người đàn ông kia.
“Con bấy giờ gọi
người đàn ông kia đến, tay trái cầm tay người vợ cả, tay phải bưng chậu
nước bằng vàng, bảo người kia rằng:
“– Nay ta đem người
vợ cả này cho ngươi làm vợ.
“Người ấy nghe rồi,
liền vì quá sợ hãi, nên lông trong thân đều dựng đứng, thưa với con rằng:
“– Thưa Trưởng giả,
ngài muốn giết tôi chăng? Ngài muốn giết tôi chăng?”
“Con nói với người
ấy rằng:
“– Ta không giết
ngươi đâu. Vì ta đã theo Phật trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm
giới, do đó ta sẽ đem người vợ cả này cho ông làm vợ.
“Thưa Tôn giả, con
đã cho người vợ cả này và ngay trong khi cho đó, hoàn toàn không có lòng
hối tiếc.”
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả, khi con đến
chúng viên,
nếu trước hết mà gặp một vị Tỳ-kheo nào, con liền đảnh lễ. Nếu vị Tỳ-kheo
ấy kinh hành, thì con cũng kinh hành. Nếu vị ấy ngồi, con cũng ngồi theo một bên, ngồi
rồi nghe pháp. Vị Tôn giả ấy thuyết pháp cho con nghe; con cũng thuyết
pháp cho vị Tôn giả ấy nghe. Vị Tôn giả ấy vấn sự con, con cũng vấn sự vị
Tôn giả ấy. Vị Tôn giả ấy trả lời câu hỏi của con, con cũng trả lời vị Tôn
giả ấy. Con nhớ chưa từng có lần nào con khinh mạn các vị Tỳ-kheo thượng
tôn trưởng lão, trung hay hạ. Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả, khi con ở giữa
chúng Tỳ-kheo, hành sự bố thí, thì có chư Thiên trụ giữa hư không bảo con
rằng: ‘Này Trưởng giả, đây là vị A-la-hán, đây là vị Hướng A-la-hán, đây
là vị A-na-hàm, đây là vị Hướng A-na-hàm, đây là vị Tư-đà-hàm, đây là vị
Hướng Tư-đà-hàm, đây là vị Tu-đà-hoàn, đây là vị Hướng Tu-đà-hoàn. Vị này
tinh tấn, vị này không tinh tấn’. Bạch Tôn giả, khi con cúng thí cho đại
chúng Tỳ-kheo, con nhớ chưa từng có ý phân biệt. Bạch Tôn giả, con có pháp
ấy.”
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả, khi con hành sự
bố thí ở trong chúng Tỳ-kheo, có chư Thiên trên hư không bảo con rằng:
‘Này Trưởng giả, có Đức Như Lai, vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được
Thế Tôn khéo thuyết, và Thánh chúng của Như Lai khéo thú hướng’. Bạch Tôn
giả, con không do vi trời kia mà có tín, không do vị trời kia mà dục lạc,
không nghe theo vị kia, nhưng con tự có tịnh trí để biết Đức Như Lai, Vôâ
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, và Thánh chúng
của Như Lai khéo thú hướng. Bạch Tôn giả, con có pháp ấy.”
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
“Bạch Tôn giả, con
không phải chỉ có pháp này mà thôi. Lại nữa, bạch Tôn giả, Đức Phật có nói
về năm hạ phần kiết, tức tham dục, sân nhuế, thân kiến, giới thủ, và nghi.
Con thấy năm kiết sử ấy, hoàn toàn không có một kiết sử nào còn trói buộc
con thác sanh vào bào thai, trở lại thế gian này. Bạch Tôn giả con có pháp
ấy.
Thầy Tỳ-kheo khen
rằng:
“Này Trưởng giả, nếu
có pháp ấy thì thật là kỳ diệu, thật là hy hữu.”
Trưởng giả liền thưa
với thầy Tỳ-kheo rằng:
“Mong Tôn giả ở lại
đây thọ thực. Tỳ-kheo im lặng nhận lời. Sau khi biết Tỳ-kheo đã im lặng
nhận lời, Trưởng giả Úc-già liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tự mình múc nước
rửa tay, rồi đem tất cả rất nhiều món ăn cứng và mềm rất mỹ, diệu tinh
khiết, ngon lành, tự tay hầu sớt, để cho Tỳ-kheo ăn được no đủ. Ăn xong,
dọn cất đồ đạc và dùng nước rồi, lấy một giường nhỏ ngồi riêng để nghe
pháp.
Thầy Tỳ-kheo thuyết
pháp cho Trưởng giả, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng
vô lượng phương tiện thuyết pháp cho ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho
hoan hỷ rồi, Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy mà đi. Đi đến chỗ Phật, cúi
đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên, rồi đem trình bày đầy đủ
lại cuộc thảo luận giữa thầy và Trưởng giả Úc-già lên Đức Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn
bảo các thầy Tỳ-kheo rằng:
“Ta vì lẽ ấy mà khen
ngợi tán thán Trưởng giả Úc-già có tám pháp vị tằng hữu.”
Phật thuyết như vậy.
Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ
Tư
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003