Ni trưởng NHƯ HOA.
Khắp trời sen nở
^
Trụ thế năm mươi ba xuân
Ðộ đời hằng chuyển pháp luân mọi miền
Ðến đi tự tại an nhiên
Lìa thân như huyễn cõi thiền thong dong.
Thấm thoát đã hai mùa trăng tháng tám, những hàng cây chốn tổ Huệ Nghiêm
vẫn chưa thôi ủ dột, thương tiếc thầy vội vả ra đi, các giảng đường Phật
học như còn văng vẵng âm ba mưa pháp của thầy, bàn làm việc tại các văn
phòng giáo hội vẫn như thiếu vắng một bóng người không ai có thể hoàn toàn
thay thế được. Ngoài ra nữa, bao hạ trường cùng đạo tràng tu Thập Thiện và
Bát Quan trai... tất cả cũng cảm nhận không thể quên thầy - bậc đạo sư
thân thương, hiền hòa dung dị.
Vội vã mà thật an nhiên, thầy đã vĩnh viễn ra đi để lại bao nhớ tiếc cho
đời, hàng hậu học, thiếu một người thầy anh minh dìu dắt. Cả chúng xuất
gia lẫn tại gia còn đang chơi vơi giữa đôi bờ sanh tử, hướng về ân sư các
pháp lữ đều thốt lên nỗi niềm luyến tiếc khôn nguôi.
Ngẩn ngơ trước cảnh vô thường
Hiểu mà vẫn thấy đau thương ngút ngàn
Trong thâm tình linh sơn cốt nhục, ai trong chúng ta không kính thương
tưởng nhớ về thầy, bậc chân tu đạo hạnh cao dày, xứng ở ngôi chúng trung
tôn của đức Từ Phụ. Cả cuộc đời Thầy là tấm gương tận lòng phụng sự, vì
Phật Pháp trường tồn và tăng chúng an hòa, vì nhu cầu giải thoát giác ngộ
của kẻ hậu học, thầy đã lăn bánh xe chuyển pháp, với những tháng năm dài
không mõi mệt. Dưới mỗi bước chân thầy dạo đi hoằng hoá, từng cánh sen
hồng nở thắm, tô đẹp mọi miền. Theo mỗi lời thầy tuyên, Phật pháp sâu mầu,
hương giải thoát nhẹ nhàng lan tỏa, huân ướp niềm an lạc mọi nơi.
Ðể tỏ lòng kính quí và tiếc nhớ thầy - bậc ân sư khả kính, chúng ta hãy
gạt đi mọi sầu thương bi lụy thường tình, giữ trong lòng từng lời, từng ý
pháp thâm sâu, tôi luyện thành chất liệu an lạc trạm nhiên, hầu nối gót
thầy trên hành trình phổ độ. Hãy tỏa rộng tấm gương đạo hạnh của thầy đến
khắp nơi mọi chỗ, cho hoa sen đua nở ngập trời, chuyển Ta Bà thành cõi
Tịnh an vui, ấy cũng chính là bản hoài của mười phương chư Phật vậy.
Ni Trưởng Tịnh Thường
Pháp lữ không xa
^
Sự hiện hữu của thầy là một dấu ấn sâu đậm vượt thoát thời gian
trong lòng tăng ni phật tử. Thầy là một nhà mô phạm sống một đời gương
mẫu, giản dị tràn trề tình thương và rộng lượng nhân từ. Thầy đã thể hiện
tinh thần vị tha, trong sáng. Những lời giảng dạy của thầy đã đi sâu vào
tâm thức bao thế hệ học trò, tạo nên một ấn tượng không nhỏ trong đời sống
tu tập của họ.
Lần cuối cùng gặp thầy trong sự thinh lặng, trong khoảnh khắc của thời
gian bất động, trong sự xúc động thầm kín. Giây phút ấy, thầy đang thuyết
pháp bằng ngôn ngữ vô thanh, nhưng làm cho mọi người tỉnh ngộ, tiếp xúc
được với thầy qua hiện tướng vô thường, vô ngã, cái bất sanh bất diệt của
tự tánh Niết bàn muôn thuở.
Trở
về ký ức trong giao thoa mầu nhiệm, những gì tôi biết và hiểu về thầy, tất
cả giờ đây hiện hữu như nắng sớm mùa thu, như cánh hoa vàng của thiền sư
Mãn Giác. Tôi không cần phải tìm hình hài thầy nơi quá khứ, vì thầy vẫn
luôn đang hiện hữu tồn sinh thì tại sao tôi phải ngậm ngùi thương tiếc?
Nhớ nhung thương tiếc là ảo vọng của dòng đời trôi chảy, như dòng suối về
gặp đại dương, như bông hoa khoe sắc thắm. Con người sở dĩ đau khổ vì chưa
hiểu rõ được bản thể của cái sanh và cái diệt, giác ngộ được tự tánh vô
thường là Niết bàn, thì vượt thoát được phiền não khổ đau.
“Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân”.
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác, trăng trong mây trắng đều là bản thể.
Thầy đã trở về với tự tánh bất sanh bất diệt, thầy đã đạt được hạnh phúc
tối thượng (tịch diệt vi lạc). Nhưng vì quá thương thầy, nên mọi người đã
bao lần nhắc đến chuyện tử sinh. Kỳ thật thầy đang hiện hữu trong lòng mọi
người từ vô thỉ đến vô chung.
Tưởng nhớ thầy, những người còn lại phải thực hiện con đường hoằng pháp,
thực hiện ước mơ và hoài bảo mà thầy để lại cho sự nghiệp hoằng pháp.
Trong khi viết những dòng hoài niệm này, tôi xin nghiêng mình kính cảm. từ
nơi cõi lòng sâu thẳm tôi như thấy thầy đang thong dong nơi cõi Niết bàn.
Pháp đệ : Thích Nguyên Thiện
Hoa xưa vẫn nở
^
Tôi làm sao có thể quên được bao kỷ niệm trong những ngày đầu
xuân. Năm nào cũng vậy, một số anh em trong ban Hoằng pháp Trung ương Giáo
hội thường tổ chức đi khánh tuế và chúc tết chư tôn đức. Ðến chùa Huệ
Nghiêm luôn thầyï đón tiếp nồng hậu. Ngoài những lời trao đổi thân mật,
tôiø còn nhớ một câu thật mộc mạc nhưng chứa đầy tình cảm: “Tôi thì ăn tết
đơn giản như thế, nhưng anh em đến tôi cũng có chút gì để mừng tuổi với
nhau”. Rồi thầy lì xì cho mọi người và cầu chúc: “ Chúc cho quí thầy luôn
an lạc và thành tựu mọi Phật sự”. Lời chúc bình thường cũng như mọi lời
chúc nhưng tấm lòng của người chúc thì thân ái thiết tha và nhiệt thành
khiến người được chúc cảm nhận được sự thân tình. Phong thái cởi mở, đĩnh
đạc và cung cách tiếp đón hòa nhã của thầy đã mang lại cho chúng tôi niềm
vui tươi tắn của ngày xuân. Vườn hoa kiểng chùa Huệ Nghiêm đẹp hơn trong
mắt mọi người cũng nhờ có thầy. Cứ mỗi lần đến chúc tết là mỗi lần thầy
đưa đi xem, nói chuyện, giải thích và chụp hình lưu niệm. Ở chùa đa đoan
công việc, ngày tết chúng tôi bận nhiều, ít có dịp đi ra ngoài như mọi
người, chỉ đến khi đi chúc tết thầy mới có điều kiện thả lòng chiêm ngưỡng
hương sắc mùa xuân của trời đất. Thầy đã khéo nhắc chúng tôi quay về với
thực tại hồn nhiên sau những giờ đa đoan phật sự. Tôi bỗng thấm thía hơn
lời kinh Mangala Sutta:
Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng.
Vườn hoa Huệ Nghiêm mỗi lần xuân đến vẫn vô tư khoe sắc an nhiên, thầy đã
đến và đi cũng an nhiên tự tại, nhưng chúng tôi – những người ở lại – vẫn
không thể nào nguôi lòng nhớ tiếc mỗi khi nhắc đến thầy.
TT.THÍCH TẤN ÐẠT
Những đợt sóng
^
Quyển Thành Thật Luận nằm trên kệ sách lúc nào cũng như
một ánh mắt cứ dõi theo tôi. Từ ngày TT. Chơn Thanh viên tịch, tôi được
BGH trường phân công dạy thay môn này. Tôi cảm thấy một áp lực nặng nề đè
nặng. Mỗi lần cầm đến quyển kinh, tôi thấy lòng nặng trĩu, không biết rồi
mình có làm tốt được công việc còn lại này của thầy hay không?. Ðối với
tăng ni sinh, thầy như một vòm trời bao la tin cậy, sẻ chia và che chở.
Thầy để lại cho họ nhiều ấn tượng quá, thầy choáng ngợp lòng họ, bao phủ
họ bằng những tình cảm vô bờ. Hơn nữa, giờ đây, lòng tiếc thương của họ
dành cho thầy vẫn chưa phai...tất cả đều như mới hôm qua...
Ngày trước, tôi bước lên bục giảng bằng tất cả thành quả của những năm
miệt mài đèn sách, tinh tấn tu học; tôi giảng bài cũng bằng tất cả sự thao
thức, lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ mình. Nhưng qua nhiều năm truyền đạt,
tôi chợt giật mình, nhìn lại học trò, họ không như mình tưởng, sự thu thập
giáo lý của họ có khác với những suy nghĩ của mình. Từ đó, tôi thường
quan tâm nghiên cứu cách giảng của các vị giảng sư khác, hầu có thêm kinh
nghiệm cho sự nghiệp giảng dạy của mình.
Thượng tọa là vị thầy tôi thọ giáo đầu tiên khi bước lên bục giảng. Thầy
đã ân cần chỉ bảo nhiều điều hay cho tôi: “...Dạy Phật học không phải như
thế học, một vị thầy Phật học không cần chờ đợi kết quả của học trò sau 10
năm, 20 năm mà phải thấy kết quả ấy trong từng ngày, từng tháng, từng năm.
Vì vậy người thầy phải hoàn thiện mình trong từng giây, từng phút nơi lời
nói, hành động và suy nghĩ, nơi thân giáo, khẩu giáo và ý giáo. Có điều
tôi muốn nhắc nhở quí thầy, người tu mình cần nhất là ở thân giáo và ý
giáo; như vậy sự trao nhận giữa thầy và trò mới sâu sắc, hiệu quả”.
Tôi
lắng nghe một cách chân thành, cảm thấy thầy thật gần gũi. Từ lần ấy, tôi
hay tư vấn thầy trong việc giảng dạy, hoặc điện thoại, hoặc gặp trực tiếp.
Lần nào, tôi cũng cảm thấy mình như được sáng ra, tháo được những gút mắc
trong đời sống nội tâm. Bên thầy, tôi cảm nhận sự bình an, nương tựa. Năng
lực toát ra từ thầy khiến tôi nhẹ nhàng hơn giữa cuộc đời đầy sự phức tạp,
rối rắm.
Tôi
lật từng trang giáo án Thành Thật Luận, chợt nghiệm ra rằng mỗi
cuộc đời là những trang mầu nhiệm. Cuộc đời thầy cũng tợ như một quyển
kinh, rất nhiều điều hay mà chư tăng ni và phật tử đã đọc được và đang áp
dụng vào cuộc sống tu tập hằng ngày của họ.
Môn
Thành Thật Luận tôi đã vinh dự thay thầy truyền đạt cho các tăng
ni sinh, tạm xem như đã hoàn tất. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cám ơn thầy đã
gia bị cho tôi và những tăng ni sinh hoàn thành việc dạy việc học..
Tôi
thấy mình là lớp sóng sau thầy. Những lớp sóng dập dồn nối đuôi nhau.
Thầy như lớp sóng trước, tôi là lớp sóng sau, và những tăng ni sinh mà
thầy và tôi dốc lòng truyền trao giáo pháp là những lớp sóng sau nữa.
Những đợt sóng cứ như thế nối tiếp nhau trên mặt biển. Tất cả rồi cũng có
ngày về đến bến bờ giải thoát an vui.
Thích Hoằng Dự
Pháp thân bất diệt
^
Vẫn biết tử sanh là cửa ngỏ ra vào, là trò chơi cút bắt, là
định luật tất nhiên, không một ai trốn tránh được, nhưng sao lòng chúng
con vẫn quá ngậm ngùi..
Chúng con hạnh phúc biết bao vì đã có những ngày được tiếp thu lời pháp
nhũ ân cần của Thầy. Bây giờ thì đâu còn nữa, thầy đã ra đi, chúng con
biết rằng sự đến đi của thầy là tự tại vì nguyện lực độ sanh mà thầy hiện
hữu cỏi Ta Bà, mãn duyên Thầy trở về bảo sở. Nhưng chúng con còn là phàm
phu tu tập làm sao chúng con không đau thương kính tiếc bậc thầy đã ban
cho hàng tứ chúng tấm lòng từ bi – hỹ xã, trí tuệ soi đường để cho chúng
con khỏi bị sai lầm lạc lối trên con đường tu tập.
Lời
nào mà nói cho cùng! Bút mực nào mà diễn tả cho tận nỗi niềm đau thương và
tấm lòng tri ân của chúng con đối với thầy. Chúng con nghĩ rằng tuy thầy
không còn nữa, nhưng pháp thân thầy vẫn bất diệt với thời gian và hình ảnh
thân thương của thầy vẫn còn mãi ttrong tâm niệm của đại chúng trong các
đạo tràng tu tập chánh pháp Thế Tôn.
Xác thân huyễn giả tiêu tan
Pháp thân vẫn ở thế gian muôn đời
TN. HẠNH NGỌC
Ân sư
^
Ngày tôi còn nhỏ ở chùa Minh Ðức tại xã Suối Hiệp, Nha Trang,
Ni sư có nói sau này lớn lên sẽ gửi cho thầy Chơn Thanh, thế là tôi bắt
đầu khởi lên ý niệm có thầy từ thuở ấy. Tôi ao ước cái ngày đó lắm và đã
nhiều lần nhắc, xin với Ni sư: “Thầy cho con vào trong nam để theo thầy
Chơn Thanh tu học”.
Mùa
thu 1983 tôi theo Ni sư vào Sài Gòn để đảnh lễ Thầy. Lần đầu tiên gặp thầy
nhưng tôi có cảm giác như đã từng gặp thầy ở đâu đó rồi. Thầy đẹp lắm,
tướng mạo uy nghi đĩnh đạc, khả kính; giọng nói từ hòa trầm ấm. Thầy mặc
bộ đồ vạt khách màu lam, đeo kiếng trắng, ngồi nơi bàn viết với xấp tài
liệu Kinh Thập Thiện mà thầy biên soạn để dạy các trường Cơ Bản.
Thầy bảo muốn vào học các Phật Học viện thì ít nhất cũng phải học hết
những bộ Hán văn như Tam Thiên Tự, Thiền Lâm Bảo Huấn.v..v...
Tôi đem quyển sách Tam Thiên Tự về Long Thành và học theo lời chỉ
dẫn của thầy.
Lời
thầy sách tấn vẫn còn hiển hiện trong tôi như kim chỉ nam định hướng trong
cuộc đời tu hành của mình. Thầy thường dạy: “Chỉ sợ mình không đầy đủ tài
đức và tu hành giới luật, chứ đừng nghĩ mình không làm được gì để phục vụ
chúng sanh”. Thầy hoạt động Phật sự hết lòng, từ công việc Giáo hội, đến
công việc giảng dạy các lớp giáo lý cho tăng ni và phật tử, công việc nào
thầy cũng tận tâm.
Công việc bận rộn nên mỗi năm tôi chỉ hai lần vào đảnh lễ thầy vào dịp sau
khóa An Cư và tết Nguyên Ðán. Mỗi lần gặp thầy tôi luôn có cảm giác là
mình có lỗi bởi sự lơ là, “bất hiếu” của mình đối với ân sư. Vậy mà thầy
thì bao giờ cũng bao dung, độ lượng. Thầy luôn từ tốn ôn hòa khuyên bảo,
nhắc nhở tôi những điều cần thiết trong đời sống tu tập. Những lời dạy bảo
rất nhẹ nhàng, bình dị, nhưng đến khi gặp chướng duyên, vấp ngã trong đời,
thì những lời ấy lại như bàn tay từ phụ, có mặt kịp thời nâng tôi đứng
lên.
Những ngày đi học xa, mỗi lần về nước, đến thăm thầy, tôi có cảm giác như
mình vừa mới gặp thầy hôm qua đây thôi. Thầy bao giờ cũng vậy, vẫn ánh mắt
và giọng nói từ hòa không bao giờ thay đổi.
Vẫn
biết rằng vô thường lão bệnh là quy luật tất yếu kiếp nhân sinh, nhưng một
phàm tăng như tôi thì làm sao tránh khỏi những bi lụy nhân thế. Tôi thấy
quá tủi thân và cảm giác mình luôn có lỗi với thầy. Ngày xưa Ngài A Nan
dẫu sùi sụt khóc tiễn đưa nhục thân của Ðấng Từ Phụ vào cõi Vô dư Niết Bàn
nhưng Ngài còn có niềm an ủi là đã bao năm được theo hầu bên đức Phật.
Ngày nay tôi vô phước, chưa được chăm sóc thầy bao nhiêu, những giây phút
cuối đời của thầy tôi lại không có mặt! Là người đệ tử đầu tiên mà thầy
nhận chăm lo sách tấn, thầy đã dành cho tôi biết bao lời dạy bảo ân cần,
đặt ở tôi nhiều mong ước mà tôi chưa kịp làm gì đề đền đáp công ơn, chưa
kịp chứng tỏ điều gì để thầy có chút an tâm về một người đệ tử ... Vậy mà
thầy đã ra đi.
Ngôn ngữ trần gian cũng có sự giới hạn của nó nên không thể diễn tả hết
được những điều muốn nói. Chỉ biết rằng từ nay trên con đường gian lao
trước mặt, hình ảnh, những lời dạy bảo của thầy sẽ luôn có mặt bên tôi,
nâng dắt, chỉ lối và động viên, truyền sức mạnh cho tôi noi tấm gương thầy
tu học và hoằng hóa.
Thích Quảng Long
Tình huynh đệ
^
Tết nào cũng vậy, nhóm tăng ni sinh trường trung cấp Phật học
khóa III chúng tôi đi đãnh lễ chư vị tôn túc trong ban giám hiệu và ban
giảng sư.
Như
thường lệ, tết năm Nhâm Ngọ, đúng với câu: “mồng một tết cha, mồng ba tết
thầy”, chúng tôi hẹn nhau cùng đến tổ đình Huệ Nghiêm. Ngọn gió mang đầy
hương vị tết ùa vào liêu phòng. Chúng tôi quì bên bàn Phật để nghe lời
giáo huấn đầu năm mới của thầy, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Tết
năm Quí Mùi, chúng tôi lại về nhưng chỉ để thắp hương dâng lời tưởng niệm.
Chỉ còn nụ cười trong di ảnh của thầy vẫn ngọt ngào bao dung đón chúng
tôi. Thầy mất, chúng tôi không đi mồng ba, mà lại về mồng bốn để thể hiện,
kỷ niệm về một sự thay đổi... Ngày trước, con đường tương lai của chúng
tôi luôn có đôi bàn tay thầy dìu dắt. Bây giờ thầy không còn nữa, chúng
tôi đành gói ghém những lời giảng quí báu ngày xưa làm hành trang cho cuộc
đời mình.
Thượng toạ Thiện Pháp kể cho chúng tôi nghe về những kỷ niệm khó quên thời
còn là học tăng dưới ngôi trường Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm:
-
Thấy mấy đứa bây giờ, thầy nhớ lại hồi đó, gần đến ngày thi, cả nhóm (thầy
Chơn Thanh, thầy Thiện Pháp, thầy Minh Thông) xuống chùa Long Khánh huyện
Bình Chánh để ôn bài thi. Mọi người hứa với nhau hễ ai không thuộc sẽ bị
phạt, rồi phân công người công phu, người nấu cơm, người rửa chén. Sau
này, làm việc trong giáo hội, thầy chở ổng (thầy Chơn Thanh) trên chiếc xe
cánh én. Sáng chở đi, chiều chở về. Lúc thầy về chùa Phước Thành, trưa
cũng chở ổng về, thầy ngủ giừơng, ổng ngủ võng. Vậy mà bốn mươi năm đã
trôi qua, mãi đùm bọc thương yêu, quí trọng nhau, chưa bao giờ giận hờn,
nặng lời cho đến ngày ổng về Phật...
Thượng toạ kể xong, cười giòn tan, hình như TT. tâm đắc lắm về cái thời
ấy. TT. đưa cho chúng tôi tấm hình, sau lưng có ghi dòng chữ nghịch ngợm:
“hai nhà lãnh tụ”, trong ảnh: một người cao lớn ốm nhom, một người bề thế,
tròn trịa. Trông dáng vẽ bên ngoài thật so le, nhưng trên hai gương mặt
đều cùng toát lên vẻ nhiệt thành đáng kính. Nhóm tăng ni trẻ chúng tôi
thường gọi vui một cách kính trọng, thân mật: thầy Chơn Thanh là Ba và
thầy Thiện Pháp là Má, bởi cả hai người – dù mỗi người một cách, nhưng
đều lo lắng và thương yêu chúng tôi như con. Thầy Chơn Thanh với vẻ uy
nghiêm, nhân từ, thân thiết như một người cha; thầy Thiện Pháp với tính
xởi lởi gần gũi như một người mẹ. “Má” thường ngày vô tư, tuệch toạc là
vậy, nhưng khi nhắc đến “Ba” bỗng trầm ngâm, giọng đầy xúc động:
-
Kìa, trên chiếc xe đó, mùng bốn tết, họp đầu năm tại thành hội xong, thầy
chở ổng thẳng về chùa Huệ Nghiêm, chơi cả ngày. Mùng bốn tết năm nay,
chiếc xe nhẹ tênh, buồn bã, thầy về lại Huệ Nghiêm, ngồi trên xe một mình,
cứ nghe trống vắng phía sau! Ờ, mà không chỉ phía sau, khi bước xuống xe
vào Huệ Nghiêm là thấy trống vắng tứ phía! Ði qua phòng ổng là thấy... Mà
thôi, mấy đứa uống nước đi - TT. lại cười, giả lả lãng sang chuyện khác
như muốn tránh nỗi xúc động đang tràn ngập trong lòng.
Vào
đảnh lễ TT. Minh Thông, vừa dặt chân đến cửa phòng, chúng tôi đã nhìn thấy
di ảnh của thầy được đặt ngay bên cạnh chiếc đơn của TT. như một người
thân thiết nhất. TT. Minh Thông là người trầm lắng, sâu sắc. Ngày thầy còn
sống, hai người như tay mặt tay trái. Mỗi sáng dậy sớm cùng tập thể dục đi
bộ quanh chùa. Bây giờ còn lại một mình, buổi sáng là lúc TT. nhớ đến
thầy nhiều nhất! Căn phòng nhỏ ở Văn phòng II TUGH mà hai thầy được dành
riêng để nghỉ trưa hằng ngày khi lên lớp, kể từ khi thầy mất đi, TT. không
bao giờ bước chân vào đó nữa! Không kể gì nhiều với chúng tôi, bởi TT. là
người tính tình lặng lẽ, kín đáo, nụ cười điềm đạm vẫn nở nhẹ nhàng trên
môi khi trò chuyện với chúng tôi, nhưng trong sâu thẳm ánh mắt TT. tôi
thấy rất rõ những giọt sương ẩn chứa... Những giọt sương ấy sẽ lặng lẽ rơi
vào những đêm thâu, khi chỉ còn có một mình TT. bên tách trà khuya. TT.
vẫn rót cho thầy một tách và vẫn pha thêm nước sôi vào cho tách trà nhạt
bớt đúng theo thói quen của thầy khi còn sống. Trong căn phòng trước đây
hai người đã từng ngồi, giờ một mình TT. lặng yên với hai tách trà! Uống
hết tách của mình, châm thêm vào tách của bạn... tách trà ấy cứ đầy, cứ
đầy... như nỗi lòng nhớ tiếc xót xa của người ở lại! Nghĩ đến cảnh đó,
tôi không sao kềm được nước mắt!
Cổ
nhân từng nói: “Trên đường có bạn đồng hành, niềm vui được nhân đôi và nỗi
buồn vơi đi một nửa”. Tình huynh đệ cao cả thiêng liêng của quí thầy là
bài học thân giáo vô cùng sâu sắc mà quí thầy dành cho chúng tôi.
Chư
Phật giáng sinh đã cứu khổ ban vui cho thế giới, con người từ đó có
bậc đạo sư chỉ ra con đường tìm về chân lý giải thoát. Quí thầy không
những đã dạy cho chúng tôi hiểu được Giáo Pháp cao minh mà còn là
những tấm gương sống về mối quan hệ Tăng Già hòa hợp. Mong rằng với
kho tàng vô giá ấy, Tứ Chúng đồng tu sẽ mang lại hạnh phúc, giải
thoát cho tất cả muôn loài.
TN. Thánh Tâm
Còn mãi bóng hình^
Cũng như mọi ngày, mỗi khi chiều xuống, tôi lại một mình dạo
bước giữa vườn hoa trong khuôn viên chùa, nhìn ngắm những đóa hoa trong
ánh hoàng hôn và cảm thấy lòng mình nao nao kỳ lạ...
Những đóa hoa màu trắng, màu vàng, màu tím... thiết tha, lặng thầm dâng
hết sắc hương làm đẹp cho đời, lúc nào cũng hồn nhiên nở hết mình, vắt hết
sức dâng đời mà không cần biết có ai người đang cảm nhận hay không. Thật
là cao quý biết bao! Lời của một bài nhạc tôi nghe tự lúc nào, giờ bỗng
trỗi dậy bên tai: “...Thầy là bóng cây che mát chúng con, thầy là ánh sáng
dắt dìu lòng son, thầy là con thuyền thanh lương đưa chúng con đến bờ thơm
hương...” làm tôi da diết nhớ về thầy...
Cũng như những bông hoa sân chùa này. Thầy đã một đời hy sinh cho sứ mệnh
hoằng pháp, nhất là cho thế hệ tăng ni trẻ chúng con.
Con
nhớ thầy mỗi khi lên bục giảng, lời pháp đầu tiên là nụ cười thật nồng ấm,
đã tạo cho chúng con một nghị lực để vươn lên trong cuộc sống. Những pháp
âm chân thật đầy tình thương vẫn còn văng vẵng đâu đây, nào là kinh Di
Giáo, kinh Di Ðà, kinh Tứ Thập Nhị Chương... những bài
kinh dẫu ngắn gọn nhưng thầy đã khéo léo triển khai đưa vào cuộc sống thực
tiễn cho chúng con làm kim chỉ nam tu tập. Những lời vàng ngọc ấy đến hôm
nay con mới thấy quý giá làm sao!
Thầy ơi! hơn bao giờ hết, lúc này con rất muốn được thầy gõ nhẹ trên đầu,
gõ nhẹ vào trí não cho con bừng tỉnh cơn mê. Mỗi khi thầy rảo bước xuống
lớp, thấy thầy gần đến con đã chuẩn bị tinh thần để nói lên những câu tinh
nghịch đại khái như: “Sư phụ hôm nay mặc áo đẹp quá”, vậy là bị gõ lên đầu
một cái; “Sư phụ mang dép mới kìa”... cứ như thế, mỗi lần nói lại được
thầy xoa đảnh thọ ký. Những cử chỉ thân thiện ấy khiến cho con cảm thấy
tình cảm thầy trò thật thiêng liêng mà gần gũi biết bao!
Nhớ
những lần chúng con đến thăm thầy, không lúc nào thầy quên dặn dò chúng
con phải cố gắng tu học cho xứng đáng là vị tu sĩ. Nhất là tăng ni trẻ,
trước những phiền toái, phải có sự nổ lực tự thân, đừng để những chuyện
không hay xảy ra sẽ ảnh hưởng đến đời sống tu tập của mình.
Còn
và còn rất nhiều những lời dạy, những kỹ niệm giữa thầy trò thật cao đẹp,
chúng con không sao kể hết được. Trong lòng chúng con từng ngày từng giờ
vẫn thì thầm nhắc đền thầy, đến một con người mang tâm nguyện hoằng pháp
lợi tha thật sâu nặng. Cuộc đời của thầy sống là để cho thế hệ tăng ni,
phật tử chúng con mà không một lời than trách. Thầy luôn hướng cho chúng
con một tương lai tươi sáng vì đạo pháp và dân tộc. Thầy luôn dõi theo
bước chúng con. Mỗi khi vấp ngã đều có thầy nâng bước cho chúng con đứng
dậy. Cuộc đời thầy sống là thế đó, chúng con chưa kịp đền trả thâm ân, vậy
mà thầy vội bước ra đi. Thầy có hay ở nơi này đôi cánh chúng con vẫn còn
yếu mềm lắm, chưa thể tự nâng được thân mình.
Thế
là hết, còn đâu nữa hình bóng người thầy khả kính! Thầy có biết mỗi lần
ban hoằng pháp tổ chức lễ, chúng con đứng làm hàng rào đón rước chư tôn
đức, con lại lặng nhìn từng hình bóng chư tôn đi qua, rồi con lại hụt hẩng
khi đã hết người qua mà lại thiếu bóng hình thầy. Nghe những lời giới
thiệu, dẫn chương trình vang lên con lại ngỡ là thầy...
Hôm
nay những hình ảnh, pháp âm của thầy tuy không còn hiện hữu trên thế gian
này nhưng con vẫn tin rằng pháp thân thầy vẫn tỏa rạng muôn nơi, vẫn còn
dõi theo bước chúng con đi.
Hướng vọng về thầy, chúng con chỉ biết tự xem mình là những kiến trúc sư
tự xây dựng đời mình, giữ gìn giới luật, giữ gìn tam nghiệp, sống đời phạm
hạnh, thao thức việc tu học trong từng sát na. Ngưỡng mong giác linh thầy
được mĩm cười nơi miền lạc cảnh.
Lạy
Thầy! Cho chúng con lần cuối gọi lên hai tiếng “ Sư Phụ” và xin hướng vọng
về thầy bằng tất cả tấm lòng thành kính trọng ân. Dẫu không gian có đổi
đời, thời gian như gió thoảng nhưng bóng hình thầy trong chúng con vẫn mãi
đượm hương.
Chúc Hiếu
Lời thầy không quên
^
Nhớ lại ngày đầu đi học có biết bao điều mới lạ. Một dấu ấn sâu
đậm nhất trong đời, con không bao giờ quên được, đó là lần đầu con gặp
Thầy. Buổi trưa hôm ấy, dưới ánh nắng chói chang, con đạp xe chen chúc
trong dòng người đông đúc của đất Sài thành, trên những con đường chưa
quen thuộc. Con đã đến cổng trường Phật học Vĩnh Nghiêm, áo ướt đẫm mồ hôi
và mệt nhoài trong không khí ngột ngạt giữa khí trời nóng bức, chợt con
gặp được ánh mắt dịu hòa, trìu mến nhìn con của một vị thầy dáng người
cao cao thanh thoát, khả kính. Con khẻ cúi chào, Thầy với nụ cười hoan hỉ
nở tự bao giờ, khẻ bảo: “ Ði học trưa nắng mệt quá con hả? Vô lớp nghỉ
chút cho khoẻ rồi học, ráng cố gắng học đi nha.” Rồi Thầy khoan thai đi
vào văn phòng, con cũng vào lớp với câu hỏi trong đầu thầy là ai? Con chưa
từng gặp thầy, sao thầy đã dỗ con với sự thương yêu triều mến như mẹ
hiền? Thầy có dạy con học không? Ước gì con sẽ được thầy dạy bảo. Với câu
nói thương yêu thân thiện ấy, thầy đã làm tan biến cái mệt nhọc giữa trưa
của con lúc nào con không hay, mà còn nghe mát dịu cả lòng.
Ðang ngồi suy nghĩ bâng quơ và cố nhìn ra ngoài, cố tìm lại hình ảnh khả
kính ấy. Ba hồi chuông vào lớp, đang thấp thỏm xem thầy có vào lớp dạy con
không. Cầu được ước thấy, con sung sướng muốn reo lên khi nhìn thấy thầy
cùng thầy chánh văn phòng bước vào lớp, thầy chánh văn phòng đã giới thiệu
với lớp đây là Thượng toạ Thích Chơn Thanh - trưởng Ban Hoằng Pháp Thành
Hội - sẽ đảm nhiệm dạy lớp suốt trong bốn năm...
Ðúng là tên hợp với người, nhìn thầy thật thanh thoát khoan dung, giản dị
thân thương và tràn đầy đạo vị. Bài học đầu tiên, Mười điều thiện
thầy đã dạy con luôn ghi nhớ. Suốt buổi học, con chăm chú lắng nghe và
thỉnh thoảng len lén nhìn thầy với lòng đầy cảm kích. Với giọng trầm bổng
thiết tha, nhiệt thành thân ái, những bài Pháp thầy giảng nghe thật dễ
hiểu và sáng rỡ. Sau mỗi giờ học, thầy luôn dỗ dành sách tấn truyền trao
những kinh nghiệm cho chúng con. Mỗi tuần thầy đến lớp một lần, bao giờ
cũng từ tốn, nhã nhặn, khoan dung, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Con nhớ có lần đã
vào giờ học mà lớp chưa ổn định, chia thành năm, bảy nhóm bàn tán nói
chuyện rối cả lên như cảnh hát xã giàn. Vậy mà thầy vẫn kiên nhẫn, hiền
từ, bao dung ngồi đó lặng yên chẳng nói chẳng rằng, mặc cho đàn con tha hồ
rúi rít. Sau một lúc, Thầy mới điềm đạm, nhẹ nhàng hỏi: “ Các chị hai của
tôi đã nói xong chưa, nếu nói xong rồi thì để cho thầy nói.” Thế là cả
lớp im phăng phắc. Ai cũng xúc động hối hận thấy lỗi của mình. Rồi thầy an
nhiên, từ bi, bắt đầu bài giảng mới. Con vô cùng cảm kính và thấy lòng
tràn ngập sự kính ngưỡng. Lời thầy sao nhẹ nhàng quá! Lòng thầy mênh mông,
bao dung quá! Con thầm tâm niệm hướng về thầy sám hối thay cho lớp, có lẽ
tâm truyền tâm, dường như thầy thấu hiểu, ánh mắt hiền hòa thầy nhìn
xuống con cùng với nụ cười thân thuộc, nhân hậu. Con nghe lòng ấm áp lạ
kỳ. Buổi học hôm ấy trôi qua thật mau, chẳng ai muốn kết thúc, chỉ muốn
được nghe, được nhìn, được thầy dạy mãi...
Thầy - với thân giáo, khẩu giáo, ý giáo, cùng với ánh mắt nghiêm từ và nụ
cười khoan dung - đã như một ngọn đèn soi sáng chúng con, giúp cho bước
chân chúng con vững vàng hơn trên con đường tu học.
Con
cứ tưởng những tháng ngày được thầy dạy dỗ còn được dài lâu, ngờ đâu con
bạc phước vụng tu để trang giáo án thầy ngưng lại giữa chừng không lật
nữa! Thầy ơi!
Thời gian được học nơi thầy không lâu lắm, nhưng cũng đủ để con học được
bao điều đáng học. Tất cả những gì thầy đã dạy vẫn vang vọng hiển hiện
trong con. Con đã khắc cốt ghi tâm cố gắng thực hành những gì thầy dạy, để
con vẫn thấy thầy ung dung tự tại, đại Phật tuyên dương chánh pháp.
“Cố
gắng học” – Lời dạy của thầy trong phút gặp gỡ đầu tiên, con sẽ luôn ghi
nhớ. Không chỉ trong những năm ngồi ghế trường Phật học, mà mãi mãi sau
này trong suốt cuộc đời tu.
Huệ Nghiêm
Tấm gương tinh tấn ^
Bốn năm trôi qua dưới mái trường Phật học Vĩnh Nghiêm, chúng
con được núp dưới bóng từ bi của thầy che chở. Thầy đã cho chúng con
những dòng sữa Pháp, cơm Thiền.
Chúng con được hiểu thêm những ẩn dụ của Phật từ những bộ kinh mà thầy đã
giảng dạy như là: Hai thời công phu ( Lăng Nghiêm; Di Ðà). Di
Giáo, Thập Thiện, Giáo Nghĩa 10 Tông ... qua những phương cách tu tập
thiết thực nhất mà thầy đã rút ra từ kinh nghiệm bản thân và nhiệt tâm
truyền dạy để chúng con nghiên cứu, học hỏi, áp dụng vào sự tu học hằng
ngày. Ân ấy, đức ấy của thầy rộng lớn vô biên, tấm lòng từ bi, bao dung,
hòa ái của thầy đã như những hạt mưa ngọt ngào mỗi ngày tưới mát, thấm
sâu, vun bón cho tâm hồn chúng con để cây xanh đạo pháp ngày một đâm chồi
cắm rễ xanh tươi vững chắc.
Thầy dạy kinh điển thật nhiều, nhưng thầy vẫn khuyên nhủ chúng con về pháp
môn niệm Lục Tự Di Ðà rằng:
Nhất cú Di Ðà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương.
Bây
giờ, thầy đã đi về miền Tây phương lạc cảnh, bỏ lại đàn hậu học chúng con,
trong bộ Thành Thật Luận còn dang dở.
Nhớ
lại chiều ngày thứ bảy 20-7-2002. Ðó là ngày thầy đã dạy chúng con lần
cuối trong cuộc đời hoằng pháp lợi sinh của thầy, phẩm Thập Lục về
mười trí lực đầy đủ của Phật. Thầy hay nhắc chúng con: ráng học nha, thầy
sẽ ra đề thi phẩm này... Chúng con lắng lòng thật thanh tịnh để tỏ ngộ
những lời pháp ấy. Giờ đây, phẩm Thập Lục đã kết thúc thật rồi!
Thầy đã trở về bổn quốc, nhưng những pháp âm của thầy vẫn còn vang vọng,
từng ngày, từng giờ khuyên nhủ, sách tấn chúng con trên bước đường tìm về
bến giác:
Vô minh là áng mây mù
Khiêu đèn trí huệ phải nhờ sách kinh
Thầy hay dạy cho chúng con phải thường xem kinh điển vì kinh điển là người
thầy cửu trụ lâu dài nhất trong suốt cuộc đời tu tập của mỗi chúng con.
Giờ
đây, thầy đã đi xa, bảng đen còn đó, phấn trắng còn đây, muốn thấy bút
tích của thầy, muốn nghe pháp âm đều đã trở thành hoài niệm. Chúng con vẫn
biết rằng sự đến hay đi của thầy đều là sự thong dong tự tại, nhưng trong
lòng mỗi chúng con vẫn tràn ngập một niềm tiếc thương vô hạn.
Noi
gương Người, chúng con xin cố gắng hết sức nổ lực thực tu thực học, giống
như tấm gương của thầy: dù bận trăm công ngàn việc, nhưng hầu như không
bao giờ thầy bỏ tiết dạy chúng con.
Bây
giờ, mỗi khi mệt mỏi, có việc, muốn nghỉ một buổi học, con bỗng nhớ về
thầy và lại tự động viên mình phải cố gắng đến trường, không được giãi
đãi. Thầy đã dạy chúng con bài học về sự tinh tấn rất sâu sắc, hiệu quả.
Bài học ấy vô cùng quan trọng, quyết định đường tu lâu dài cho cả đời của
chúng con.
Thánh Nhã
Thầy vẫn quanh đây
^
Ðứng dưới sân chùa làm hàng rào vinh dự nhân ngày lễ Phật Ðản,
con ngước nhìn lên lễ đài, lòng mong tìm lại hình dáng thầy thân thương:
Cái dáng cao cao, lưng khom khom như dáng một người cha hiền hòa cúi xuống
đàn con thơ dại ... và giọng nói sang sảng vang khắp vùng trời Vĩnh
Nghiêm. Nhưng con không còn tìm thấy được nữa. Con nghe tràn ngập sự
trống vắng, hụt hẫng! Có muốn khóc đâu mà mắt cứ nhòa dần...
Cũng tại nơi này, những mùa Phật Ðản trước, thầy là vị xướng ngôn viên,
đọc lời giới thiệu chương trình, từ niệm Phật cầu gia bị, hướng dẫn toàn
thể đạo tràng một phút nhập Từ Bi Quán, cho đến thả chim bồ câu và bong
bóng hòa bình – giọng nói thầy thật trang trọng, uy nghi mà đầm ấm, con
nghe lòng mình lâng lâng bay cao cùng với chim bồ câu, cùng với những
chiếc bong bóng rực rỡ sắc màu, tự hào về vị thầy mà mình có cơ duyên được
học hỏi.
Ngày ấy, mỗi buổi chiều thứ tư, thầy lên bục giảng trong tiếng vỗ tay hân
hoan của 270 ni sinh từ dưới lớp như đón bước chân thầy. Thầy cười tươi
đáp trả. Chúng con không ai nói ra, nhưng đều cảm thấy lòng mình tràn ngập
niềm vui. Có bao nhiêu ngày thứ tư trong đời được học thầy là chúng con đã
có bao nhiêu niềm pháp lạc. Con còn nhớ như in dáng thầy đi vòng xuống
lớp, tay chắp sau lưng, xoa đầu hỏi thăm tụi con có khoẻ không? Chúng con
thường đùa với nhau là đã được thầy thọ ký...
Rồi
một ngày tin dữ đến, chúng con ngơ ngác, buồn đau, lòng tự hỏi rằng: Sao
vô thường quá vô tình, bất ngờ, vội vã? Trú xứ Huệ Nghiêm lâu nay vắng vẻ,
nay bỗng dồn dập, thổn thức những bước chân người. Hàng ngàn tăng ni đau
lặng trở về đây khi nhận được tin thầy vừa viên tịch!!!
Vì
lòng kính mến vô biên đối với vị thầy khả kính, tăng ni sinh chúng con đã
tổ chức buổi tụng kinh Ðịa Tạng vào cái đêm cuối cùng tiễn đưa linh cữu.
Tiếng tụng kinh âm vang cả vùng trời. Lần đầu tiên con nghe trong tiếng
niệm Phật thành khẩn lại xen những tiếng nấc nghẹn ngào, tức tưởi... con
mới thấm thía pháp Vô Thường, Thầy ơi!
Mùa
Phật Ðản năm nay, lễ đài buồn tênh bởi thiếu dáng thầy, thiếu chất giọng
xướng ngôn viên trầm hùng chắc nịch, thiếu đoá sen thiêng đầu hạ dâng cúng
dường ngày kỷ niệm Ðức Phật đản sinh...
Dõi
mắt nhìn theo chùm bong bóng ngũ sắc bay lên cao giữa khoảng trời xanh
mênh mông, con như thấy thấp thoáng dáng thầy! Rồi những chiếc bong bóng
sẽ vỡ ra, không khí từ đó tan loãng vào hư vô, hòa mình vào không khí của
đất trời, cũng như hơi thở của thầy đã hòa vào hơi thở chung của nhân
loại, thân tứ đại của Người tan ra là để hoà nhập với đất trời.
Hiểu được điều này, con thấy lòng mình như nhẹ nhõm. Thầy như không khí
bàng bạc khắp cõi hư không, hiện hữu quanh con, quanh mọi người đau khổ.
Vĩnh Tâm
Khóc và cười
^
Trước di ảnh thầy, con nhìn thấy nụ cười ẩn hiện theo làn hương
khói nhẹ bay. Nụ cười thầy mờ trong làn nước mắt, nhưng hiện lên rất rõ
trong tâm hồn chúng con ánh nhìn hòa ái, nhân hậu, bao dung và thân thương
biết mấy!
Suốt bốn năm được thầy dạy dỗ trong mái trường Trung cấp Phật học thầy đã
dạy chúng con không chỉ qua khẩu giáo, ý giáo mà quan trọng nhất là thân
giáo, qua những phạm hạnh trong đời sống của thầy. Ðó là bài học sâu sắc
mà chúng con không thể nào quên được.
Con còn nhớ cứ mỗi lần ra hạ và ngày tết, huynh đệ chúng con đi đãnh lễ
thầy và luôn được thầy nhắc nhở rằng: “Tuổi các con còn nhỏ, trước mắt nên
cố gắng học, trước nhất là để tạo dựng nền tảng vững chắc về kiến thức
Phật pháp để tu tập bản thân, sau nữa là làm hành trang trên con đường
phục vụ cho đạo pháp, cho chúng sinh. Ðiều cần nhớ nhất là các con còn non
nớt, chưa từng trãi qua các chướng duyên nhiều, cần phải biết né tránh bớt
các trần cảnh, để bớt buông lung ý”. Những lời dạy ấy, chúng con hằng ghi
khắc trong tim, để làm kim chỉ nam trên bước đường tu học.
Con
còn nhớ rất rõ là trong đám tang của HT. Viện chủ chùa Vĩnh Nghiêm, thầy
làm xướng ngôn viên, hôm ấy thầy đã nói với con rằng: “Ta nên biết, ta
phải sống sao để khi ta xuôi tay nhắm mắt, mọi người đều thương tiếc
khóc, còn ta thì an lạc cười...”
Bây
giờ đúng thật! Hàng ngàn đôi mắt đỏ hoe đang nhìn lên di ảnh thầy, thầy
như vẫn đứng đó với nụ cười an lạc và ánh mắt hiền hòa, nhân hậu gởi lại
cho tất cả mọi người tình yêu thương bao la vô tận.
Diệu Liên
Người thầy thân thiết, bao dung
^
Lần đầu tiên học chữ Hán tôi rất sợ vì ám ảnh bởi câu nói của
những người già: “mắc như chữ Nho”. Ðến giờ Phật học giáo khoa thư,
tôi lo lắng nhìn ra cửa lớp để xem vị nào phụ trách môn học này.
Từ
xa tôi nhìn thấy vị thầy cao lớn phong thái đỉnh đạc bước vào. Sau khi cả
lớp niệm phật cầu gia bị xong, thầy gọi từng người lên đọc bài. Thầy cầm
cây thước đến trước mặt tôi bảo đọc bài mới. Tôi ấp úng trả lời :
-
Thưa thầy con chưa biết đọc.
Thầy hỏi:
-
Con mới vào học phải không?
-
Thưa phải.
-
Vậy con phải ráng phấn đấu nhiều hơn nữa để theo kịp các huynh đệ.
Thầy bảo tôi ngồi xuống. Lúc đó mặt tôi nóng bừng vì hỗ thẹn. Nhưng cảm
giác đó qua rất nhanh bởi khi nhìn dáng dấp hiền từ và nghe và giọng nói
hòa ái của thầy, tôi cảm thấy như được khích lệ, thấy an tâm và tự nhủ
rằng mình sẽ học tốt để không làm thầy buồn.
Từ
lúc ấy tôi nỗ lực trau dồi Hán ngữ . Chẳng bao lâu, tôi đã đọc và viết
được chữ Hán như huynh đệ trong lớp. Mỗi lần đến giờ Phật học giáo khoa
thư là tôi rất mong được thầy gọi lên đọc.
-
Ðức Châu lên đọc bài mới.
Thầy gọi, và tôi đã lên đọc rất trôi chảy. Ðọc xong tôi hoan hỷ nhìn thầy,
đợi lời nhận xét. Thầy không nói gì, chỉ mỉm cười. Nụ cười ấy đã làm cho
tôi cảm nhận được tất cả tình thương yêu trìu mến của thầy dành cho đứa
học trò mới như tôi. Tôi cảm thấy vô cùng sung sướng khi đã làm thầy vui
dù chỉ vài giây phút nhỏ nhoi.
Tiết học của thầy lúc nào cũng có tiếng cười. Chúng tôi luôn dành cho thầy
những tình cảm thương mến kính trọng nhất. Thỉnh thoảng thầy đi đến chỗ
từng đứa, thăm hỏi, trò chuyện đôi câu thân thiện như một người cha. Sau
những câu trả lời chơn chất, hồn nhiên của chúng tôi, thầy thường bật cười
rồi ký yêu lên đầu mỗi đứa một cái. Cử chỉ thân mật ấy chúng tôi không sao
quên được.
Ở thầy có một tình thương bao la bất tận, nhất là tấm lòng đối với thế hệ
sau. Thầy không bao giờ la rầy nặng lời với học trò, thầy chỉ dùng ái ngữ
và tình thương để dạy dỗ. Có nhiều lúc chúng tôi còn lơ là việc học, thầy
không giận mà chỉ ân cần khuyên bảo nhẹ nhàng. Thầy luôn sống bình dị,
khiêm tốn, gần gũi với tất cả mọi người.
Ðức Châu
Thầy chánh chủ khảo
^
Ở
thầy có rất nhiều điều để học tập, nhưng có lẽ con chỉ nói một
điều mà con khó quên nhất. Ðó là sự ứng xử của thầy khi đóng vai trò là
một vị chánh chủ khảo của những kỳ thực tập diễn giảng.
Trong cuộc đời ai cũng có những lúc lo âu sợ sệt. Ðứng trước đám đông mà
tuyên thuyết, diễn giảng là một công việc làm cho đa số chúng ta lo ngại
rất nhiều, mà nhất là trong những trường hợp tập sự ban đầu, sự lo lắng
khẩn trương càng tăng gấp bội. Tâm trạng bồi hồi, lo âu, hồi hộp khi lần
đầu tiên đứng trước thính chúng sao mà khó tả quá. Tâm trạng ấy đã làm cho
biết bao thí sinh khốn đốn vì bị quên đi những điều mình đã học thuộc
lòng, phần vì lúng túng nên nói lắp, nói sai, phần lại lo sợ chúng bạn chê
cười mình nói không sâu, không hay hoặc giọng nói khó nghe v.v... Ðó là
những tâm trạng mà bất cứ thí sinh nào cũng trải qua. Những lo âu về
thuyết giảng rồi cũng qua khi thí sinh hoàn tất thời lượng trình bày. Thế
rồi, sự lo âu kế tiếp lại nảy sinh: đó là sự đánh giá của ban giám khảo.
Ðành rằng mục đích thực tập là nhằm luyện cho mình dạn dĩ và tự tin khi
đứng trước đám đông, luyện cách ứng xử, cách nói năng, trình bày... nhưng
kết quả đánh giá của ban giám khảo là nguồn động viên rất quan trọng. Kết
quả cao làm cho ta phấn khởi, kết quả thấp làm ta thất vọng, buồn phiền.
Có lẽ giờ phút đánh giá là quan trọn nhất đối với những thí sinh thực tập.
Là những người mới bước vào con đường tập sự thì làm sao tránh khỏi những
thiếu sót. Có điều là làm thế nào để tạo cho họ thấy chúng và chỉ cho họ
cách khắc phục có hiệu quả. Con còn nhớ những lời khuyên của thầy đối với
những tăng ni sinh. Thầy không bao giờ phê bình ai hay ai dở mà chỉ nói
những điểm cần lưu ý để tránh hoặc phát huy. Ðiều đó làm nhẹ nhỏm cho biết
bao thí sinh đang lo âu. Những điều thầy nhắc nhở nhiều nhất là tác phong
của một tăng ni khi lên thực tập giảng. Ðó là oai nghi, là những lời thưa
chào ngắn gọn nhưng trang trọng và đủ ý nghĩa. Rồi thầy nhắc về điệu bộ,
giọng nói. Không cần phải bắt chước giọng của miền này miền nọ mà chỉ nên
trung thành với chất giọng vốn có của mình vì mỗi nơi đều có cái hay riêng
của nó. Chỉ cần trình bày rõ ràng và phát âm đúng là tốt. Như thế sẽ tránh
được sự tẻ nhạt và khó chịu đối với thính giả. Chỉ vài lời đó cũng đủ làm
cho chúng con khó quên.
Thời gian trôi qua, chúng con mỗi ngày lớn lên và học được nhiều điều mới
lạ nhưng những lời thầy vẫn còn nguyên giá trị. Cách ứng xử của thầy lúc
ấy vẫn là hình ảnh tuyệt diệu để cho chúng con noi theo trên vạn nẻo đường
đời. Thầy không còn trực tiếp giảng dạy nhưng những pháp âm vi diệu ngày
nào vẫn còn vang vọng. Nó không mất theo thời gian bởi vì nó đã thấm sâu
vào tâm hồn của mỗi chúng con.
Hạnh Chơn.
Hạnh nguyện lợi tha
^
Chúng con còn nhớ mỗi khi lên lớp thầy hay nói: “Học trò ba
ngày không đọc sách, trên mặt đóng rét khó coi, nói năng thì nhạt nhẽo khó
nghe...” giờ đây ngồi một mình bên giá sách, nhìn lên di ảnh của thầy, con
mới thấm thía lời dạy năm xưa.
Có
lần thấy lớp mệt mỏi, làm biếng học, thầy không la mắng mà chỉ nói nhẹ
nhàng: “tụi bây thiệt là...” lời nói chơn chất, mộc mạc, bình dị,
hiền hòa, thể hiện sự bao dung trìu mến khiến cả lớp cảm thấy thật vui và
thích thú, một tràng vổ tay thật giòn vang lên, xua tan sự uể oải, lớp trở
lại không khí sinh động. Thầy hay đọc mấy câu thơ nhắc nhở chúng con:
Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn
Không gì bằng trí tuệ của đời ta
Sống điêu linh trong kiếp sống ta bà
Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả.
Thầy ơi! những pháp âm này sẽ theo chúng con đi suốt cuộc đời.
Thầy đến với cuộc đời và tận tụy bao năm hoạt động rồi cuối cùng cũng đã
ra đi, chỉ còn lưu lại những tiếc thương, những lời tâm huyết, những công
việc còn dang dở, những ước mơ chưa kịp thực hiện.
Nhìn những chiếc lá rơi ta thử ngẫm nghĩ rồi sẽ thấy thương và khâm phục
cuộc đời lặng lẽ chỉ biết hiến dâng của lá. Lá luôn làm hết nhiệm vụ của
mình là giúp cây quang hợp, cung cấp dưỡng chất nuôi cây, không bao giờ
nghĩ đến một ngày thân vàng úa phải rời xa công trình mà mình đang xây
đắp. Một làn gió thổi qua, chiếc lá nhỏ bé sẽõ rời thân cây, chấm dứt cuộc
đời ngắn ngũi. Giây phút cuối cùng ấy, trong không gian lơ lững, lá vẫn
hồn nhiên đong đưa theo gió như giang tay chào vẫy cám ơn đất trời.
Tôi
còn nhớ lời thầy dạy: “Mọi con sông đều có nước lớn nước ròng, có lúc đục
lúc trong, lúc sóng dữ lúc êm đềm... nhưng chẳng con sông nào có thể chảy
ngược. Ðời người hệ lụy với dòng chảy thời gian được biểu hiện qua bốn
tướng sanh – già – bệnh – chết. Rồi thì chúng ta phải thuận theo quy luật
đó, chúng ta phải sống cho ra sống, sống đúng với nghĩa của một con
người”.
Vào
ngày trước lúc xả bỏ nhục thân, thầy hết lời khuyên nhắc chúng con về hạnh
thiểu dục tri túc, mà cũng chính là bài pháp cuối cùng của thầy với
lớp chúng con tại giảng đường Vĩnh Nghiêm: “Với người xuất gia, ít muốn
– biết đủ chính là tự giải thoát cho mình. Xưa nay oán thù, hơn thua,
ganh ghét cũng tại thiếu tri túc mà ra. Người tu mất hạnh thanh tịnh cũng
vì không biết tri túc. Nên biết: Tửu bất túy nhơn, nhơn tự túy; sắc bất
mê nhơn, nhơn tự mê...tụi con nên biết kềm lòng. Một người biết điều
khiển được cảm xúc của mình, người đó sẽ mạnh hơn...”
Tôi
chỉ mong mình sống được theo tấm gương lợi tha của thầy: Vì đời vì đạo, âm
thầm phục vụ, làm hết sức mình...
Và
chỉ cần có thế.
Thích Trí Tài
Hành trang để lại^
Trong phật học viện Huệ Nghiêm những năm ấy, thầy là tăng sinh
nhỏ tuổi nhất nhưng sức tu và lực học không kém các huynh đệ đồng môn.
Ngoài những giờ chấp tác, hầu hết thời gian thầy đều dành cho việc tu học.
Những khi nhàn rỗi, thầy thường bách bộ trong khuôn viên chùa với phong
thái thanh thản nhẹ nhàng. Khi nghe hỏi :
-
Thầy khỏe không?
Thầy đáp:
- Trong sanh tử, khỏe sao được.
-
Sao thầy vui vậy?
-
Ðược xuất gia học đạo, không vui sao được.
-
Thầy có buồn không?
-
Ta bà không buồn sao được.
Những câu trả lời vui vui của thầy đã thể hiện một cuộc sống thong dong,
phóng khoáng của một con người con Phật.
Mỗi
lần gặp chướng duyên, thấy tôi sầu não, thầy nhắc nhở: “Bộ con tưởng thật
hả? Cứ thấy cảnh là chạy theo”. Thế là, tôi được thầy anh minh gỡ giúp ra
khỏi vòng vây triền phược ấy. Những lời nhắc nhở chân tình và sâu sắc của
thầy thể hiện một nội tâm vững chãi, tự tại và an lạc của một bậc chân tu
đầy bi trí.
Tôi
nhớ mãi câu nói lập đi lập lại của thầy khi gặp tôi bất cứ nơi đâu: “Ni
tu khó lắm, con tu được không? Quý sư bà có thương con không? Có ai ăn
hiếp con không? Con phải cố gắng thật nhiều!”. Lời khuyên mộc mạc nhưng
đầy ắp đạo tình sâu lắng của một bậc huynh trưởng đối với đàn em trên
đường tìm về nơi cội nguồn đầy hoa thơm cỏ lạ nhưng cũng lắm chông gai và
thử thách.
Những tình cảm thiên liêng cao đẹp của quí thầy đã giúp tôi thêm ý chí
phấn đấu trên đường tu học và tự thấy mình luôn phải có phần nào trách
nhiệm đối với Tổ Ðình Huệ Nghiêm. Mỗi năm vào ngày giỗ tôn sư, tôi được về
cúng dường và phục vụ, thầy thường ghé ngang qua khu nhà trù, thăm hỏi và
dặn dò chúng tôi cố gắng tu học.
Với
tánh thái nhẹ nhàng, ung dung, tự tại, trãi qua mấy mươi năm cho đến khi
thầy viên tịch, tôi chưa một lần nghe thầy bực bội than thở điều gì dù
công việc của thầy cũng gặp biết bao phiền não. Thầy đã hiến dâng cả đời
mình cho đạo pháp, cho con người. Tình thương và trí tuệ thầy đã ban rãi
cho tất cả. Những gì làm được thầy đã làm, những điều đáng nói thầy đã
đem vào lòng hết thảy chúng hữu duyên.
Kể
từ đây, ngôi nhà Phật pháp thế gian đã vắng bóng thành viên ưu tú. Giáo
hội thiếu một cánh tay đắc lực, tăng ni mất một sư huynh, một pháp đệ, một
người bạn đồng hành, một bậc thầy khả kính; hàng Phật tử tại gia bất hạnh
không còn được một vị thầy đầy từ bi đạo hạnh dìu dắt. Nhưng với tất cả
những gì thầy đã để lại cho chúng ta, cũng đủ làm thành một hành trang vô
cùng thiết thực trên con đường tìm về Chánh Pháp.
Tịnh Nghiêm
Một phong thái ung dung
^
Tôi đã gặp thầy trong kỳ thi diễn giảng, mùa An Cư PL.2535 tại
giảng đường Ấn Quang. Lúc bấy giờ, thầy vừa là người trong ban giám khảo,
vừa là xướng ngôn viên của hội thi. Ngoài hạnh tướng xứng ngôi long tượng
đạo pháp, điều làm tôi không thể nào quên là giọng nói ấm áp đầy sức
thuyết phục và phong thái ung dung chững chạc của thầy khi đứng vai trò
một vị xướng ngôn viên.
Rồi
sau đó, may mắn hội đủ duyên lành, tôi được học với thầy, được nghe dòng
pháp âm vi diệu nơi thầy . Tôi chợt nhận ra rằng để trở thành một vị giảng
sư không những phải nhờ vào sức tu học của tự thân mà còn nhờ vào những
kinh nghiệmquí báu được truyền lại từ những bậc tôn đức và từ trong những
thực tiễn hành trình hoằng pháp của chính bản thân mình. Không phải ngẫu
nhiên mà thầy luôn được hòa thượng trưởng ban hoằng pháp trung ương GHPGVN
giao nhiệm vụ giảng dạy “Những kinh nghiệm hoằng pháp” trong các khóa bồi
dưỡng giảng sư ở ba miền Bắc - Trung - Nam. Bởi vì ngoài sự tu học miên
mật trong suốt những năm dài ở Phật học hiện cao đẳng Huệ Nghiêm, thầy đã
có những kinh nghiệm phong phú trong những tháng ngày hoằng pháp khắp các
tỉnh thành và đặc biệt là phong thái ung dung tự tại mà bất cứ ai dù gặp
thầy một lần cũng khó có thể quên được
Không phải đợi đến lúc xa thầy vĩnh viễn rồi, tăng ni chúng tôi mới cảm
nhận được tài đức của thầy. Chúng tôi đã cảm thụ được cái tâm trong sáng,
đạo hạnh cao cả ấy ngay từ những ngày được ngồi học dưới sự dạy bảo của
thầy.
Tướng tùng tâm hiện,
phải chăng tâm an nhiên tự tại giữa cuộc thế dời đổi chuyển xoay đã làm
cho thầy có được một phong độ thanh thản, bình an như những vị thiền sư
ngày xưa trải thân giúp nước giúp dân nhưng không hề bị lợi quyền, danh
tiếng làm khuấy động.
Chúng tôi đã được học nhiều điều tốt đẹp, những kinh nghiệm quí báu trên
bước đường hoằng pháp ở thầy. Nhưng điều mà chúng tôi chưa học được chính
là phong thái ung dung, không ngăn ngại nơi thầy. Thầy đi giữa hội chúng
đông đảo mà dáng tôn nghiêm đặc biệt không hề bị lẫn mất. Thầy tuyên
thuyết pháp âm, dù đứng trước mặt bất cứ ai cũng vẫn thong thả từ hòa.
Không quá nghiêm nghị để học chúng phải sợ hãi cách xa, không quá dễ dãi
để tăng ni sinh dễ duôi, xao lãng việc tu học. Ơû nơi thầy luôn ẩn chứa
thái độ từ bi, khiêm hạ, không bao giờ tăng ni nghe thầy quở trách rầy la,
ấy thế mà không ai dám để mất oai nghi trong khi đối diện trước thầy. Thế
mới hiểu như thế nào là từ quang phổ chiếu.
Giờ đây thầy đã vắng đi rồi, nhưng phong thái ung dung ấy mãi là bài học
thân giáo sâu sắc nhất để chúng con noi theo, trao dồi, giữ vững uy nghi
của người tu sĩ, xứng đáng với Tăng Già, làm sáng ba ngôi Tam
Bảo.
TN. Nhựt Bửu
Ðời người & tâm nguyện ^
Thượng tọa Thích Chơn Thanh viên tịch vào thời điểm chín muồi
của tài năng và trí tuệ. Nguồn tinh ba ấy vốn đã được trui rèn, phát triển
suốt ba thập niên dưới mái trường Phật học viện Huệ Nghiêm – một đại tòng
lâm đào tạo tăng tài nổi tiếng nhất miền Nam vào giữa thế kỷ thứ XX. Vậy
mà hôm nay, khi mà trung ương giáo hội đang đặt nhiều kỳ vọng vào thầy,
vậy mà trong thoáng chốc người đã ra đi...
Mới
hôm trước, vừa gặp tôi tại lễ ra mắt Ban đại diện PG quận Bình Thạnh, thầy
liền hỏi: “Lúc này con còn ở chùa không?”. Sau khi nghe tôi bạch, thầy ân
cần khuyên bảo: “Con thấy đó, như tượng Bồ Tát Quan Thế Âm bằng đá nặng
mấy chục tấn ở chùa, vững chắc, uy nghi, được chăm sóc giữ gìn kỹ thế mà
vẫn “ bị tai nạn” gãy tay, sứt mẽ... huống hồ chi con người. Do vậy, ở
đời, dù có gặp chuyện phiền não, thì cũng ráng tập nhẫn nhục để vượt qua,
rồi mọi việc sẽ đâu vào đó”. Sau đó mấy hôm, tôi lại gặp thầy tại Văn
phòng II để thực hiện bài phỏng vấn về và công tác của Ban Hoằng pháp
thành hội và vấn đề tu chỉnh hiến chương của GHPGVN trong nhiệm kỳ V sắp
tới. Bài phỏng vấn ấy đã được ban biên tập duyệt, chưa kịp đăng thì thầy
đã rẽ sang cuộc hành trình mới. Trong buổi gặp mặt lần cuối cùng ấy vào
sáng ngày thứ tư 17 – 7 – 2002, thầy đã nói ra suy nghĩ của mình về đại
hội PG toàn quốc nhiệm kỳ V. Theo thầy thì vấn đề quan trọng là phải chú
trọng nhiều đến việc kiện toàn tổ chức.
Thầy bảo rằng việc tu chỉnh hiến chương sẽ làm ảnh hưởng không ít đến tính
nhất quán của GH, vì thế, nếu có dự hướng tu chỉnh hiến chương, ban thường
trực HÐTS cần phải chuẩn bị nội dung cho thật kỹ, để việc tu chỉnh đáp ứng
được nguyện vọng tâm tư của tăng ni, Phật tử toàn quốc, và nhất là phải
phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Song song đó, việc sửa đổi các
điều trong nội qui hoạt động của các ban, ngành, viện, trung ương cũng là
điều mà GH phải quan tâm. Ðối với vấn đề cơ cấu nhân sự vào các ban ngành
phải đặc biệt chú trọng đến những vị đầy đủ năng lực và phẩm hạnh. Ví dụ,
Ban Giáo dục tăng ni cần phải phát hiện và cơ cấu vào những nhà giáo dục
Phật giáo mô phạm, thực tài; Ban Hoằng pháp cần phải có những vị giảng sư
uyên bác về Phật học lẫn thế học; Ban Tăng sự cần có những vị chân tu đạo
đức để tăng ni trẻ nương nhờ tu học, hành đạo đúng phạm hạnh. Riêng Ban
Tăng sự trung ương thì thầy có đưa ra nhận định là trong nhiệm kỳ IV chưa
có những qui định khế hợp về việc xuất gia, do đó, đã từng xảy ra tình
trạng nhiều tăng ni từ nơi khác đến TP. HCM tu học, khi có Phật sự trở lại
địa phương của mình nhờ chính quyền xác nhận giấy tờ còn nhiều khó khăn,
chưa thực sự được cảm thông, hỗ trơ.
Một
công tác khác của Ban Tăng sự đó là việc cho phép các Ban trị sự tổ chức
đại giới đàn nhưng lại thiếu sự giám sát chặc chẽ. Thầy đưa ra ý kiến đề
xuất rằng, các Ban trị sự nên chăng phối hợp cùng nhau tổ chức đại giới
đàn liên tỉnh hoặc cụm, khu vực sẽ tiết kiệm rất nhiều kinh phí và quan
trọng hơn hết là việc tuyển chọn tu sĩ thọ giới chắc chắn sẽ được sàng lọc
kỹ càng, chất lượng hơn là mỗi tỉnh tự đứng ra tổ chức như lâu nay.
Khi
đề cập đến công tác hoằng pháp tại TP. HCM, với tư cách là trưởng ban,
thầy nhận định: Sau một thời gian thử nghiệm, sắp tới Ban Hoằng pháp
thành hội sẽ họp bàn đưa ra định hướng cụ thể cho từng giảng đường và các
lớp giáo lý. Trong nhiệm kỳ qua, Ban Hoằng pháp thành hội đã phần nào
thành công trong việc tạo điều kiện cho các đạo tràng chuyên tu phát
triển song song với các lớp giáo lý. Ðiều mà thầy mong muốn nhất từ những
đạo tràng đã định hình như: Phật thất, Pháp Hoa, Thiền... trong
tương lai cần có thêm những bậc thầy chuyên tu của từng pháp môn ấy để
hướng dẫn cho tăng ni, Phật tử hành trì đến nơi đến chốn.
Một
tâm nguyện lớn nhất của thầy đối với việc giáo dục tăng ni là xây dựng lại
Phật học viện nội trú Huệ Nghiêm với qui mô ngang tầm, phù hợp với thời
đại.
Hôm
nay, ngồi đọc lại những lời thầy bày tỏ, có việc thầy đã làm tròn, đồng
thời cũng có việc đang còn dở dang. Cả đời mình, thầy đã vì Ðạo Pháp mà có
biết bao ưu tư trăn trở. Mong rằng những tâm nguyện của người sẽ được thực
hiện rốt ráo và hoàn mãn trong một tương lai gần.
Phổ Tâm
Áo nâu còn mãi^
Con xếp vội những chiếc áo cũ, để lướt qua cái cảm giác nghèn
nghẹn, cay xé đến tận mắt. Những chiếc áo ngày xưa, đơn sơ mộc mạc, nhưng
chứa đựng biết bao tình cảm thầy trò, đơn sơ mà chất đầy những nỗi niềm
kính tiếc không nguôi.
“Thầy
là đỉnh núi cô liêu ngàn đời tịnh mặc. Trò là sông dài cuồn cuộn bỏ núi ra
đi. Còn đây áo cũ ngậm ngùi. Còn đây dáng núi nụ cười an nhiên”. Con
nhớ những ngày đầu bước chân lên đất Sài thành nhộn nhịp, thầy thường
khuyên: “Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta - nhất là tu sĩ trẻ - phải
biết tỉnh thức tu tập, phải biết cảm thông và chia sẻ với mọi người xung
quanh, rồi từ đó mới có thể hiểu được chính mình con ạ!”. Giọng nói trầm
và sâu cũng như chính nhân cách sống của thầy vậy: thanh cao mà bình dị,
trang nghiêm mà dễ gần. Mỗi lần về Huệ Nghiêm viếng thầy, con thường nghe
câu nói: “Ông thầy, học hành đến đâu rồi? Phải cố gắng nghen, con đường tu
tập còn dài và nhiều gian nan lắm đó!”. Nói xong, Thầy lại xoa đầu con,
rồi cười, rồi lắng nghe con thưa việc. Nhìn ánh mắt nghiêm từ cộng với
sự cảm thông và khích lệ của thầy, con cảm thấy bình tâm và tự tin hơn
đối với những hoài bão cao đẹp mà mình hằng ấp ủ và đó cũng là kỳ vọng của
thầy đối với con - đứa học trò nhỏ mà thầy đã dành cho nhiều mối quan tâm.
Nếp
sống giản đơn, đậm chất Nam bộ của Người, luôn nhắc con nhớ về một góc quê
nhà, nơi có những người thân và ngôi chùa thời thơ bé. Từ nơi ấy con đi,
như từ nguồn cội bước đi tìm lại cội nguồn, cũng như từ nơi thầy con
trưởng thành để trở lại tìm thấy chính mình.
Có
lần con ra thăm thầy, thấy con mặc chiếc áo cũ bạc màu sờn rách, thầy
không nói gì, nhưng âm thầm nhờ người may cho con áo mới. Cầm chiếc áo
trên tay, con lặng người xúc động. Thầy không chỉ dõi theo từng bước tu
học của con như một người thầy, người cha, mà còn chăm chút cho con với
tình thương ngọt ngào ấm áp bao la như một người mẹ. Không ồn ào thể hiện
ra, nhưng tấm lòng từ ái mênh mông của thầy, tất cả chúng con đều cảm nhận
được.
Giờ
đây ngồi xếp lại những chiếc áo cũ của thầy, không phải “xếp tàn y lại để
dành hương” mà là muốn giữ hoài cho những chiếc áo ấy mãi còn nguyên vẹn,
hóa thạch để lưu giữ mãi tình thương của thầy đã dành cho con. Ðể rồi, mỗi
lần khoác chiếc áo màu nâu lên người, bước ra đường đời xuôi ngược, nhiệt
thành góp chút công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc hoằng pháp lợi sanh,
con vẫn cảm thấy thầy luôn ở quanh con, vẫn mãi có bàn tay, ánh mắt của
thầy nghiêm từ dõi theo, nâng dắt con
đi.
Thích minh thuận
Pháp lữ đạo tình
^
Trần Quê Hương
Tăng
già pháp lữ khắp gần xa
Ni
giới thọ ân... kết lục hòa
Phật
pháp nhiệm mầu, công đức hóa
Tưû
tôn tương hội cảm ma ha.
Voâ
lượng vô biên vi diệu đạo
Cùng
bi - dũng - trí mặt ba la
Thương
sao một “đóa tài hoa” khép
Tiếc
ngũ thập niên... sớm ngự tòa!
Thượng
phẩm thượng sanh siêu thượng giới
Tọa
Tây phương tỏa rạng Pháp thân
Chơn
tâm tịnh lạc chơn như hiện
Thanh
thản trạm nhiên trú Niết Bàn.
Còn mãi
^
Tịnh Hạnh
Thầy về cõi tịnh an nhiên
Tăng ni phật tử mọi miền tiếc thương.
Thầy vì tứ chúng muôn phương
Năm
lăm trụ thế tình thương đại đồng.
Pháp âm vi diệu khai thông
Thầy đem chánh pháp soi lòng khắp nơi.
Hôm
nay thầy vắng đi rồi
Nhưng lời thầy mãi bên đời chúng con.
Vẫn
rất gần
^
Huệ
Hoàn
Thứ
bảy chiều nay vắng bóng thầy
Sân
trường sao lắm lá vàng bay
Phấn rơi còn trắng trên bục giảng
Mà
đã về đâu tiếng giảng bài?!
Thứ
bảy tuần qua hãy còn vương
Lời
thầy trầm bổng vọng du dương
Sữa
pháp men theo từng hơi thở
Giáo lý từng trang thấm đượm nhuần.
Thầy chẳng còn nhưng mỗi cuối tuần
Con
vẫn mong hoài những bước chân...
Thành Thật Luận môn còn dang dỡ
Thầy dẫu đi xa vẫn rất gần.
Còn
đâu!^
Tâm
Phúc
Trên bục giảng dáng thầy thân thiết
Tay
dịu dàng với phấn trắng bảng đen
Nhân hậu cười nhìn chúng con vòi vĩnh:
“Nghỉ Phụ ơi! chúng con muốn ra về”
Người dỗ dành: “Ráng chút nữa các con ơi!”
Thành Thật Luận chiều nay ngày thứ bảy
Thầy đã ra đi rồi mãi mãi
Lớp
còn đây bục giảng vẫn còn đây
Mà
biết tìm đâu chiều thứ bảy...
những ngày.........
Lời thầy vang mãi
^
Huệ
Liên
Vẳng bên con những lời vàng
Nghe trong sâu thẳm còn vang tiếng thầy
Chiều nay trời phủ khói mây
Mịt
mờ giăng kín lấp đầy khoảng không
Còn
đây biển pháp mênh mông
Mà
vầng dương đã khuất trong xa vời
Ngậm ngùi nhìn cánh hoa rơi
Trời đêm mùa hạ chơi vơi nỗi niềm
Trải bao sanh tử triền miên
Thầy ra vào giữa vô biên phép mầu
Cuộc đời thật chẳng bền lâu
Giờ
con mới hiểu rõ câu vô thường
Mà
lòng vẫn thấy vấn vương
Nhớ
hoài hình dáng thân thương ngày nào
Bài
kinh thầy đã truyền trao
Vẫn
còn in đến ngày sau vẹn tròn.
Nét
buồn
^
Minh Nhẫn
Thầy ơi! Diệu pháp vô nghì
Thầy chưa thuyết trọn đã đi vội vàng.
Chùa buồn khói quẩn chân nhang
Lối
mòn cỏ úa, rêu lan góc thềm.
Ngậm ngùi trú xứ Huệ Nghiêm
Ðèn
thiền chợt tắt, trăng đêm chuyển màu.
Kiếp người như gió qua mau
Thảnh hơi thầy hướng lối vào chân như.
Chuông chiều vọng tiếng thanh ưu
Người đi vuốt mặt còn lưu nét buồn.
Nhớ nắng ngày xưa^
Thích Huyền Lan
Con
đứng lặng giữa khung trời học viện
Cố
tìm trên lối cũ dấu chân thầy
Chiều Huệ Nghiêm mưa cuối hạ buồn thay
Chỉ
còn thấy đáng thầy trong di ảnh.
Những năm tháng gian nan vất vả
Thầy giang tay như mẹ dắt con đi
Mở
lớp học dù chỉ vài ba đứa
Vì
chúng con thầy nào có quản gì.
Chúng con lớn như chim rời khỏi tổ
Ðến
mọi vùng góp sức chung tay
Lòng vẫn luôn thương nhớ mãi nơi này
Ân
giáo dưỡng tình thầy bao la quá!
Con
đứng lặng trong sân chùa cuối hạ
Cây
liễu già ủ rủ đứng buồn tênh
Ðầu
xuân ấy thầy cho con nắng ấm
Chớm thu nay con trước gió một mình!
Tang
phấn^
Tâm
Huệ
Con
thờ thẩn lật hoài từng trang vở
Mong nhặt được dù một hạt phấn ngày nao
Con
nâng niu nâng từng viên phấn gãy
Nhớ
giọng thầy xưa và bài giảng hôm nào.
Nghe trống vắng cả góc này bục giảng
Viên phấn buồn nhớ hơi ấm bàn tay
Nước mắt rớt vo tròn trong bụi phấn
Trắng chiều nay tang phấn khóc thương thầy.
Hướng chân thầy^
Thu
Nguyệt
Con
nhìn lên phía bảng đen
Tưởng như hình bóng thân quen vẫn còn...
Thầy như viên phấn hao mòn
Khuyết thân mình để chúng con sáng lòng
Biết rồi “sắc tức thị không”
Mà
sao mắt vẫn tuôn giòng tiếc thương!
Lối
đi quen trước giảng đường
Cỏ
cây như vẫn còn vương tiếng thầy
Áo
nâu vừa thoáng đâu đây
Mà
thân cát bụi một ngày thoắt xa.
Tâm
thành dâng vạn đài hoa
Nâng chân thầy bước
hướng tòa Như Lai.
---o0o---
[ Mục Lục
] [ Phần I
] [Phần II
] [Phần
III] [Phần
IV]
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1- 10 -2004