Phật Giáo Với Con Người
Thích Như Điển
---o0o---
CHƯƠNG MỘT
Đại cương về Phật Giáo
Phật Giáo là một tôn
giáo có mặt ở thế giới nầy tính cho đến năm nay (1996) là 2.540 năm. Đây
là một trong những tôn giáo lâu đời nhất, xuất phát từ Á Châu và ngày nay
giáo lý của Đức Phật đã lan dần vào khắp hang cùng ngõ hẻm, từ thôn quê
đến thành thị, từ Á sang Âu và từ Âu sang Mỹ.
Mỗi tôn giáo ra đời
vì nhu cầu của thời đại và quần chúng. Nếu tôn giáo nào đó có khả năng thu
phục nhân tâm và hợp với đà tiến hóa của nhân loại, thì tôn giáo ấy tồn
tại lâu dài hơn. Phật Giáo giống như một cây đại thụ, có gốc rễ 2.540 năm
mọc lên từ Ấn Độ và ngày nay cành lá hoa quả đang nở rộ khắp các châu trên
thế giới. Điều ấy đã nói lên được tính thực tiễn và tính khoa học của nó.
Cách đây 2540 năm về
trước một vị Bồ Tát đã giáng sanh nơi vườn Lâm Tỳ Ni của xứ Ấn Độ và mấy
ngàn năm sau nữa những vị Phật trong tương lai cũng sẽ giáng sanh ở cõi
nầy, như những vị Phật trong quá khứ đã làm thế. Tại sao chư Phật hay chư
vị Bồ Tát không giáng sanh ở cõi khác mà chọn xứ Ấn Độ để thị hiện, quả có
một lý do không nhỏ, ngoài việc chư Phật ra đời để dẫn dắt tất cả chúng
sanh vào tri kiến của chư Phật. Kinh Pháp Hoa là một bộ kinh trọng yếu của
Đại Thừa Phật Giáo đã minh định được điều đó.
Ấn Độ là một xứ có
núi cao sông dài, có nhiều giai cấp, có lắm thánh nhân. Người Ấn tương đối
hiền hòa hơn các nước lân cận. Vì người Ấn đa số ăn chay và có lòng thương
đối với muôn loài chúng sanh khác. Núi cao và sông dài có lẽ cũng là những
yếu tố căn bản cho những bậc xuất thế. Là thánh nhân, ít ai muốn chen chân
vào chốn thị thành. Vì nơi ấy có không biết bao nhiêu tạp nhiễm của cuộc
đời. Vì sống nơi đô hội như thế, nên con người thể hiện các tình trần như
thương, ghét, giận, hờn, buồn, vui v.v... làm cho tâm hồn bị vẩn đục. Đó
là chưa kể đến những bả công danh và mùi phú quý. Vì thế Thái Tử Tất Đạt
Đa đã từ chối cung vàng điện ngọc để đi vào núi thẳm rừng sâu mà tìm sư
học đạo. Lâu nay chúng ta cũng thấy rất hiếm người từ bỏ chỗ thanh tịnh
của họ để đi vào thế trần và đắm lụy nơi trần cảnh của thế gian. Khi Thái
Tử Tất Đạt Đa chọn giáng sanh vào cung vua cũng là một lý do dễ hiểu. Vì
Ngài nghĩ rằng: muốn giáo hóa muôn loài, trước tiên phải dùng đến phương
tiện để độ sanh. Phương tiện nầy dùng rất nhiều trong kinh Pháp Hoa cũng
như một số kinh điển khác. Nếu Thái Tử giáng sanh vào một nhà nghèo khổ,
lớn lên, bỏ gia đình để đi xuất gia học đạo, đó chỉ là một việc bình
thường của nhân thế; nhưng ở đây Ngài phải ra đi từ cái có để chấp nhận
cái không và chứng tỏ cho cuộc đời thấy rằng tất cả những gì trong thế
gian nầy cũng đều phải biến đổi qua bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, diệt
cả. Rất nhiều người vẫn còn mê danh lợi, tiền tài, nên sự ra đi tìm đạo
của Thái Tử đã làm cho họ giác ngộ. Trong đó có các bậc hoàng thân, quốc
thích, vương tôn công tử như bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, công chúa Da Du Đà La,
A Nan, Nan Đà, La Hầu La v.v... Đầu tiên Ngài độ cái khó trước và sau đó
cũng không từ bỏ cái dễ như chinh phục ngoại đạo và cuối cùng Ngài Ca
Diếp, Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất đã trở về với giáo lý của
Ngài. Ngay cả những người sống trong giai cấp hạ tiện Ngài cũng độ nốt. Đó
là Ưu Ba Ly, Bà già cúng đèn v.v... Từ đó chúng ta có thể cảm nhận được ý
nghĩa đản sanh của Ngài một cách tường tận rồi.
Giờ đây chúng ta có
thể tìm hiểu thêm những khía cạnh khác nữa. Xã hội Ấn Độ là một xã hội
giai cấp. Người nầy thống trị người kia do tập tục và tôn giáo đương thời
chia ra để dễ trị; nhưng Đức Phật sau khi thành đạo, Ngài đã san bằng mọi
giai cấp để chỉ cho mọi người thấy rằng trong ai cũng có Phật tánh cả. Với
tánh Phật nầy mọi người sẽ thành Phật. Nếu ngày xưa Thái Tử Tất Đạt Đa thị
hiện ở một nước khác, chưa chắc gì đã có sự phân chia giai cấp như thế để
Đức Phật muốn hiển thị giáo lý của mình.
Những lý do xa xưa
khác như trong nhiều kinh điển đã mô tả là Thái Tử và Hoàng Hậu Ma Ya đã
có nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp, nên lúc nào Thái Tử cũng đầu thai để
làm con của Hoàng Hậu Ma Ya, làm chồng của công chúa Da Du Đà La và làm
cha của La Hầu La. Đây có lẽ do tiền căn và túc nghiệp mà chính Ngài đã tự
chọn cho mình, cũng như mỗi người trong chúng ta tự chọn một lối đi để đến
đích vậy.
Ngày nay mặc dầu đã
trải qua mấy ngàn năm lịch sử, từ thịnh đến suy; nhưng giai cấp vẫn còn
ngự trị đó, chứng tỏ rằng chúng sanh trong xứ ấy cũng rất khó độ. Vì nhân
duyên ấy mà các vị Phật trong tương lai cũng sẽ ra đời nơi đây để hướng
dẫn con người rời khỏi bến mê để về bờ giác ngộ.
Sau khi Đức Phật
thành đạo, Ngài liền đi về hướng đông cách cây Bồ Đề nơi Ngài ngồi chừng
100 bước, câu nói đầu tiên của Ngài đã thốt lên sau 49 ngày đêm tọa thiền
là: không phải khi sinh ra đã là một Bà La Môn, mà điều quan trọng trong
cuộc đời phải làm cái gì đó cho xứng đáng mới gọi là Bà La Môn được. Câu
nói ấy hàm chứa một giáo lý cao siêu mầu nhiệm. Ngài đã phá lệ mà lâu nay
những gì giai cấp Bà La Môn đã làm. Điều đó cũng cho ta thấy được rằng:
mặc dầu mỗi chúng sanh đều có tánh Phật; nhưng nếu không tu hành thì Phật
quả cũng sẽ chẳng thành. Điều quan trọng là phải hành trì, mới đi đến kết
quả được. Sau đó Ngài hướng về cây Bồ Đề và nói lời cảm tạ với loài thực
vật ấy, nhờ nó mà Ngài đã đỡ đi mưa nắng dãi dầu trong suốt 49 ngày đêm
tham thiền nhập định để chiến thắng ma quân. Đúng là một bậc Đại Giác!
Ngài không những có tình thương với những loài hữu tình chúng sanh, mà cho
đến cây cỏ hoa lá, Ngài cũng rất trân quý. Một sự kiện khác cũng không kém
phần quan trọng là bên cạnh Kim Cương Tòa, nơi Ngài đã chiến đấu với ma
quân, có hai người Phật Tử đã trở thành đệ tử tại gia của Ngài chỉ quy y
với Nhị Bảo. Nghĩa là chỉ quy y với Phật với giáo pháp và chưa có Tăng
Đoàn để nương tựa. Sau khi Ngài đắc đạo dưới cây Bồ Đề, Ngài nhìn sâu vào
chúng sanh, thấy rất khó độ, nên Ngài chỉ nói kinh Hoa Nghiêm cho những
bậc Bồ Tát nghe và những vị ở cõi trên, còn loài người vẫn còn nằm trong
trạng thái hôn trầm với giáo lý cao thượng ấy. Nếu không có vua trời Đế
Thích hiện ra để thưa thỉnh và nhắc nhở Ngài trước khi thành đạo, vì Ngài
có hứa rằng: sau khi thành đạo quả Ngài sẽ độ sanh; khi nhớ lại lời hứa
nầy Ngài đã không vội vào Niết Bàn mà một mình đã đi ngay về thành Ba La
Nại, nơi cùng tu khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như thuở trước để độ
họ. Đầu tiên những vị nầy tỏ ý không kính trọng Đức Phật, vì nghĩ rằng
Ngài đã không có khả năng kham nhẫn khi tu khổ hạnh nên đã rời đoàn thể.
Họ có ý khinh thường; nhưng khi Đức Phật càng tiến lại gần, với dáng đi
khoan thai, với vẻ mặt từ ái và với thân thể sáng ngời, họ đã tự đứng dậy
để cung nghinh Ngài và nơi đây cũng như chính những người bạn cũ nầy là
môi trường để Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế. Sau khi nghe
bài pháp nầy, năm anh em Kiều Trần Như đã chứng quả A La Hán và Tăng Đoàn
đã được thành lập. Thế là 3 ngôi báu đã bắt đầu có từ đó. Nhưng Tứ Diệu Đế
là gì? là khổ, tập, diệt và đạo. Điều đó ai cũng hiểu, cuộc đời là khổ,
nguyên nhân của sự khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến sự giải
thoát. Ngày xưa tại sao các bậc A La Hán nghe rồi tự ngộ và chứng được
đạo. Còn ngày nay chúng ta đã nghe bao nhiêu lần rồi, chúng ta vẫn không
chứng được đạo quả? - Có lẽ ngày xưa con người còn nguyên sơ, không luận
lý, không ngờ vực, dễ chấp nhận và thành đạo một cách dễ dàng. Còn ngày
nay chúng ta nghe, phải trải qua bao nhiêu sự phân tích lợi hại, hơn thiệt
v.v... và chính từ sự phân tích nầy mà chúng ta lọt vào sự chấp tướng,
chấp lý và sự, còn thực hành thì chúng ta bỏ quên mất; nên đạo không chứng
được là vậy. Cũng giống như thế ấy, 12 năm đầu, sau khi Đức Phật thành lập
Tăng Đoàn và giảng pháp, Ngài đã không chế ra một điều luật nào cả. Vì tất
cả Tăng chúng đều thanh tịnh, ai tu cũng đắc đạo quả A La Hán, hoặc ít
nhất cũng vào quả dự lưu. Nhưng sau năm thứ 12 nầy trong Tăng chúng có vấn
đề. Nghi kỵ nhau về sự tu, sự học, phạm phải nhiều lỗi lầm của thế gian;
nên bắt buộc Đức Phật phải chế giới. Như thế so ra niềm tin của người xưa
và niềm tin của người đời sau có rất nhiều điều cách biệt. Có thể hơn về
phương diện nầy mà thua rất nhiều về phương diện khác.
Nơi Vuờn Lộc Uyển
Ngài ở không lâu, sau đó Ngài và Tăng Đoàn di chuyển về Vương Xá Thành,
nơi đây có vua Tần Bà Sa La đang trị vì. Một vị vua có rất nhiều nhân
duyên với Phật Pháp. Nơi đây Đức Phật ở những năm đầu tại Vườn Trúc và
những năm sau cùng tại núi Kỳ Xà Quật. Ngài chọn nơi đây có lẽ để cho
chúng sanh đời sau biết đến nghịch cảnh là gì? và chính nơi đây Ngài cũng
đã giới thiệu thế giới Cực Lạc cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy muốn thác sanh về
đó, chỉ vì nghịch tử A Xà Thế, mới nên nông nổi nầy. Ngày xưa Phật rất
thương vua Tần Bà Sa La, mến đức hạnh của Hoàng Hậu Vi Đề Hy và cũng muốn
chứng minh cho nhân thế biết về nghiệp, nhân quả, luân hồi là gì, nên Ngài
mới lưu lại đây lâu như vậy. Câu chuyện được kể như sau:
Trong núi kia có một
vị tiên nhơn phát nguyện rằng sau khi mãn thân nầy sẽ đầu thai vào cung
vua để làm con của vua Tần Bà Sa La và Hoàng Hậu Vi Đề Hy; nhưng nhà vua
đã lớn tuổi, chưa có con để nối dõi tông đường; nên nhà vua rất nôn nóng
và cho người giết vị tiên nhơn ấy đi. Khi tái sanh, đúng như hẹn, vị tiên
nhơn ấy đầu thai vào thai tạng của Hoàng Hậu Vi Đề Hy. Ngày lại tháng qua
Hoàng Hậu sắp đến ngày khai hoa nở nhụy, vua cho chọn các bậc tướng số đến
để đoán tướng. Có vị đạo sĩ đoán rằng: Hoàng Hậu sẽ sanh được hoàng nam;
nhưng chắc rằng sau nầy hoàng nam sẽ soán ngôi vì mối hận năm xưa, vì vua
đã cho giết vị tiên nhơn ấy. Khi nghe được điều đó vua Tần Bà Sa La rất
buồn và có ý bảo Hoàng Hậu hãy hủy bỏ bào thai ấy đi; nên khi sanh không
lo chu đáo. Do vậy Hoàng Hậu đứng để sanh Thái Tử, khi rớt xuống đất Thái
Tử bị gãy hết một ngón tay út. Nhưng Thái Tử vẫn chào đời, càng ngày càng
được lớn khôn, nhà vua cũng nguôi ngoai đi, vì thấy Thái Tử vẫn đẹp dạ;
nhưng Thái Tử thì không an tâm khi hỏi đến ngón tay của mình tại sao bị
gãy, thì từ cung phi mỹ nữ cho đến cận thần đều giấu kín. Một hôm Thái Tử
A Xà Thế ra ngoài thành để dạo chơi, trong đám người đông đảo ấy đã xuất
hiện một Đề Bà Đạt Đa và chính người nầy đã kể rõ cho Thái Tử ngay về manh
tâm của vua Tần Bà Sa La cũng như sự dã tâm của Hoàng Hậu.
Đề Bà Đạt Đa vốn
không ưa gì Đức Phật vì đã có lần Đề Bà Đạt Đa bảo Phật rằng: Nầy ông Cồ
Đàm, ông đã già rồi, hãy giao quyền chưởng quản giáo hội lại cho tôi. Đức
Phật từ chối khéo, rằng ngay cả Xá Lợi Phất là một bậc trí tuệ đệ nhất của
ta, ta còn chưa giao, làm gì giao cho đồ nghịch tử ấy. Có lẽ đây là một
câu trả lời đã làm cho Đề Bà Đạt Đa không vui mấy và ôm hận suốt đời, nếu
có cơ hội thì tìm cớ để hại Phật. Ông cũng đi tu nhưng vì thấy Đức Phật có
danh tiếng cũng như được nhiều người hầu hạ và chính ông, không phải để
cầu giải thoát, nên giả trang làm thiền tướng và lừa đảo mọi người. Đức
Phật biết thế, dầu cho bao lần ông đã cố ý giết Phật, lăn đá từ trên núi
cao xuống hại Phật; nhưng hại Phật không được, ông tỏ ý tức giận và tìm đủ
mưu sâu chước quỷ để hại Ngài. Thế nhưng trong kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà
Đạt Đa, Đức Phật vẫn thọ ký cho ông ta hằng vô lượng kiếp sau sẽ thành
Phật, và Đức Phật cũng đã nhấn mạnh, chính Đề Bà Đạt Đa là một thiện hữu
tri thức của ta.
A Xà Thế cấu kết với
Đề Bà Đạt Đa để giam cha mình vào ngục tối và không cho ăn uống gì cả.
Hoàng Hậu Vi Đề Hy cảm thương cho cảnh tù đày; nên đã nhồi bột vào mình,
vào tóc mang vào tù cho vua Tần Bà Sa La tạm dùng trong những ngày lao lý.
Trong thời gian nầy Đức Phật đã về ngự trên đỉnh của Linh Thứu Sơn và thấy
nhà vua khổ sở quá cho nên mới cho Ngài A Nan và Xá Lợi Phất đến truyền
Bát Quan Trai giới cho nhà vua. Chính nhờ pháp thọ giới nầy mà nhà vua đã
mạng chung một cách hỷ lạc. Trong khi đó Hoàng Hậu Vi Đề Hy đau khổ quá
mới cầu mong Đức Phật để được sanh về một thế giới an lành hơn. Nơi đây
cảnh giới Cực Lạc đã được hiện bày trước mắt và Hoàng Hậu cùng với 500
cung phi mỹ nữ đã phát nguyện vãng sanh về đó.
Hình ảnh của Đức
Phật, mỗi sáng mai ngủ dậy hành thiền, đoạn đi vào thành khất thực. Sau
khi dùng cơm, thăng tòa thuyết pháp cho chư Tăng và Đại chúng. Trong những
người nghe có Vua tôi, Hoàng Hậu, cung tần mỹ nữ và bá quan văn võ triều
đình cũng như hàng dân dã hạ tiện. Trong những năm sống tại Trúc Lâm Tịnh
Xá và núi Kỳ Xà Quật, Đức Phật đã dùng hết thần lực để chuyển hóa nhân
quần xã hội và thể nghiệm giáo lý của Phật Đà vào nhân gian. Đây chính là
bản nguyện của Phật lúc ra đời vậy. Quả thật nhìn bối cảnh khúc mắc ấy
trong cuộc sống vương cung, nếu không nhìn bằng con mắt trí tuệ và chứng
đạo, chắc chắn sẽ không giải thoát mọi người ra khỏi ràng buộc của thế
trần được. Đây cũng là nguyên nhân và cũng là cơ hội để Đức Phật thể hiện
giáo lý của Ngài. Ngài ở đâu và đi đến đâu cũng được nhiều người hỗ trợ và
phụng trì giáo pháp từ bi, vị tha ấy.
Nơi thứ hai Ngài ở
tương đối lâu nhất. Đó là Kỳ Viên Tịnh Xá. Nơi đây Đức Phật đã ở suốt 25
mùa An cư kiết hạ và chính nơi đây những bộ kinh quan trọng như A Di Đà,
Vu Lan v.v... đã được Đức Phật nói ra. Hẳn nơi đây phải có một điều gì đặc
biệt mới làm cho Đức Phật quan tâm như vậy. Đây là nguyên nhân của câu
chuyện.
Ông Trưởng giả Cấp
Cô Độc là một người rất giàu có tại nước Xá Vệ. Nhân một hôm ông ghé thăm
nước Ma Kiệt Đà, nơi thành Vương Xá có người chị của ông làm dâu về đó.
Đến đây ông được gặp Phật và muốn thỉnh Phật qua nước Xá Vệ để giảng kinh
thuyết pháp; nhưng Phật bảo rằng: trước phải có nơi ăn chốn ở cho Tăng
chúng, sau đó Ngài mới về. Đức Phật bằng sai Ngài Xá Lợi Phất là một bậc
trí tuệ đệ nhất đi theo ông Trưởng giả Cấp Cô Độc về nước Xá Vệ. Vì Phật
biết rằng chỉ có Xá Lợi Phất mới đối đầu lại nổi với bọn ngoại đạo tại xứ
nầy. Trên đường đi từ Vương Xá thành đến nước Xá Vệ độ chừng 500 cây số
ấy, ông Trưởng giả qua lời cố vấn của Ngài Xá Lợi Phất đã cho dựng dọc
đường những trạm nghỉ chân để Phật và Tăng chúng dừng bước có nơi tạm
nghỉ. Khi đến nước Xá Vệ tìm đâu cũng không ra vườn tốt, duy chỉ có vườn
cây của Thái Tử Kỳ Đà là nổi tiếng đẹp, nên ông đã chọn mua. Thái Tử bảo
rằng nếu Trưởng giả lót hết vàng được vườn nầy thì Thái Tử sẽ bán. Trưởng
giả nghe thế rất vui mừng, cho gia nhân ngày đêm khuân vàng đem lót vườn,
chẳng mấy chốc lót sắp xong, Thái Tử có ý không muốn bán vườn ấy. Trưởng
giả thưa: Thái Tử sẽ trị vì thiên hạ trong tương lai, một lời hí ngôn của
một bậc quân vương rất tai hại cho muôn họ. Sau đó Thái Tử thuận ưng;
nhưng phần gốc cây không lót vàng được thuộc về Thái Tử và Thái Tử cũng tỏ
ý cúng dường lên Đức Phật, như những gì Trưởng giả Cấp Cô Độc đã cúng
dường cho Phật vậy. Thế là Ngài Xá Lợi Phất và ông Trưởng giả chuẩn bị
thầy thợ để dựng Tịnh Xá; nhưng bọn ngoại đạo đã tâu với vua Ba Tư Nặc
rằng, phải để cho họ đấu lý với đệ tử của Cồ Đàm. Nếu bên nào thua thì tự
ý rút lui. Đó là nguyên tắc. Ngài Xá Lợi Phất vốn xuất thân từ ngoại đạo
trước khi quy y với Đức Phật, nên Ngài biết được tất cả những chiêu thức
của ngoại đạo. Cuối cùng Ngài đã hàng phục được ngoại đạo và vua Ba Tư Nặc
đã cho phép cất Tịnh Xá để thỉnh Phật về nước Xá Vệ nầy.
Ngôi vườn nầy là một
ngôi vườn Thượng Uyển của Thái Tử nên rất đẹp. Cây trái xanh tươi. Ngay cả
ngày nay qua 25 thế kỷ với phong sương cùng tuế nguyệt; nhưng vị trí và
cung cách của ngôi vườn đáng để cho đời đời được chiêm ngưỡng. Khi Đức
Phật về đây, trong 25 mùa An cư kiết hạ, xa chốn thị thành, Ngài đã hoàn
thành những giá trị vĩ đại cho cuộc sống tâm linh của Tăng Đoàn cũng như
của Phật Tử tại gia. Trong mùa An cư kiết hạ Ngài không đi khất thực, với
thời gian 3 tháng của mỗi năm Ngài đã độ không biết bao nhiêu vua chúa và
mệnh phụ phu nhân ở xứ nầy qua cung cách của Ngài, qua cuộc sống của Ngài
và nhất là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, nhân quả, nghiệp, luân hồi, sanh tử,
Niết Bàn v.v... Những vấn đề trọng đại nầy đương thời cũng đã có nhiều
phái ngoại đạo không chấp nhận; nhưng họ phải công nhận rằng giáo lý của
Đức Phật có tính cách phóng khoáng, không bị trói buộc và không có chủ
thể. Không có ai ban phước giáng họa cho mình, mà cũng không có một đấng
tối cao nào chi phối vũ trụ nầy được cả. Ngoại trừ hành nghiệp của mỗi con
người.
Nghiệp là những hành
vi tạo tác từ nhiều đời nhiều kiếp; nó theo sát con người như bóng theo
hình. Chính nghiệp nầy sẽ đi đầu thai trong vòng sanh tử và chính tâm thức
mình sẽ bị chi phối bởi sự lành dữ đó.
Đến cuối thế kỷ thứ
18 nhà triết học nổi tiếng của nước Đức. Đó là Schopenhauer; ông là người
đã mang Đạo Phật vào xứ Đức nầy; nhưng theo ông, Đạo Phật cũng là một Đạo
tiêu cực. Vì lúc nào cũng lo cho mình trước và lo cho tha nhân sau; nhưng
ngày nay sau bao nhiêu khảo nghiệm chứng minh cho thấy rằng điều ông hiểu
là sai. Đạo Phật không phải là một đạo tiêu cực mà là một đạo rất hợp với
thực tế. Vì tâm không bình thì thế giới không bình được. Muốn cho cuộc đời
được an vui hạnh phúc, trước tiên tâm ta phải được an lạc. Đây là chìa
khóa để mở mọi ngăn kéo của cuộc đời. Do vậy Đạo Phật không phải là đạo
yếm thế mà là một đạo tích cực để hướng dẫn con người trở về con đường
chân thiện mỹ vậy.
Về luân hồi cũng
thế. Ngày xưa người ta rất khó tin; nhưng bây giờ khoa học càng tiến bộ
bao nhiêu, lời dạy của Đức Phật càng có giá trị bấy nhiêu. Đức Phật dạy
rằng:
Muốn biết nguyên
nhân của đời trước
Hãy xem kết quả
hưởng được hiện tại
Muốn xem quả vị lai
Hãy nhìn việc làm
trong hiện tại.
Giáo lý nầy có phần
ảnh hưởng của Ấn Độ giáo. Nhưng Ấn Độ giáo thì có thần ngự trị, còn Phật
Giáo không có thần; nhưng Phật Giáo vẫn chấp nhận thần trong ba ngàn thế
giới khác. Có thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo siêu thần thì đúng hơn.
Trong 6 nẻo luân hồi, Trời, Người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh
đều ảnh hưởng dây chuyền bởi nhân và quả; nên không thể chấm dứt được. Nếu
còn tham, sân, si và ái dục lôi kéo, buộc ràng thì vẫn còn lầm than trong
sáu nẻo luân hồi.
Sự sống chỉ là một
giai đoạn chuyển tiếp trong giáo lý của Đạo Phật. Nó không có cái bắt đầu
và cũng chẳng có cái cuối cùng. Giống như ánh sáng và bóng tối. Khi ánh
sáng đến thì bóng tối phải tránh đi; khi giác ngộ đến thì mê mờ hết; khi
lửa tắt thì lửa sẽ phát sanh, nếu có nhân duyên gây nên lửa. Đơn giản thế
thôi! và không ai sanh ra ai hết, tất cả đều có sẵn như thế, chỉ chờ đủ
nhân duyên thì hội tụ và đủ nhân duyên thì tan biến.
Thân thể con người
giống như bóng đèn điện và tâm thức của con người giống như dòng điện. Khi
bóng điện sáng là nhờ có người bật chốt đèn điện. Nếu điện hư, dầu có bật
chốt đèn, bóng điện vẫn không sáng; nhưng một ngày nào đó, bóng điện cũng
phải hư. Ví như thân ta, một ngày nào đó phải tan rã, cái gì của gió trả
về cho gió, đất trả về cho đất, nước trả về cho nước và lửa trả về cho
lửa. Nhưng tâm thức thì còn mãi, sẽ biến đổi theo hành nghiệp của mình.
Cũng giống như dòng điện vậy. Mặc dầu bóng điện hư; nhưng dòng điện vẫn
còn đấy, nếu thay thế bóng đèn khác, nó sẽ sáng hơn hoặc mờ hơn. Sáng hơn
hay mờ hơn là do hình thức của bóng đèn, dòng điện tùy theo công suất của
bóng đèn mà mờ hay tỏ. Tâm thức của con người cũng thế, tùy theo nghiệp
lực mà thọ sanh vào hàng trời hay người, hoặc làm chúng sanh dưới địa ngục
và tâm thức ấy sẽ thay đổi để hợp với trạng thái của mỗi loài mà tâm thức
phải đi đầu thai nơi ấy.
Có nhiều tôn giáo
chủ trương rằng: chết là hết; nhưng Đức Phật, bằng con mắt trí huệ của
mình, thấy rằng chết chỉ là một giai đoạn chuyển hóa mà thôi. Vậy muốn
thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi phải làm sao? - không phải tin vào Đức
Phật hay một vị thần nào để được cứu rỗi, mà chính mình phải tự cỡi trói
trong 12 mắc xích của 12 nhân duyên. Đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc,
lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh và lão tử. Trong 12 mắc xích nầy vô
minh và các loại khác rất khó diệt; chỉ có ái dục là dễ hơn cả; nhưng
thông thường dây ái nó vô hình nhưng đã có cội gốc từ nhiều đời nhiều
kiếp, khi diệt chúng, cũng không phải là chuyện giản đơn. Vì vậy người
xuất gia, tập sống đời giải thoát, phạm hạnh, đầu tiên là phải cắt ái, ly
gia, lìa xa cái gia đình hiện hữu và tình thương của mẹ cha, huynh đệ, bè
bạn. Đó là cái ái thấy được. Còn cái ái chôn vùi sâu trong tâm thức hằng
vô lượng kiếp, nó sẽ chỗi dậy khi nghiệp lực của ta phải trả. Điều ấy phải
biết mặt nó và lấy giới để trừ ái dục. Chỉ có giới mới làm cho tâm hồn
chúng ta được an định, giới và định sẽ làm cho tâm thức của chúng ta trong
sạch, từ đó trí huệ tự nhiên phát sanh. Bầu trời trí tuệ đã rộng mở. Gương
xưa nay lu vì bụi bặm che khuất. Trăng không sáng tỏ vì bị mây. Khi bụi
sạch, mây không còn che nữa thì kiếng tâm và trăng tuệ lại trong sáng như
thường. Đây là bản lai diện mục, là nguyên thể của vũ trụ. Sự giác ngộ nầy
không phải đi tìm ở đâu xa; nó có sẵn nơi ta và chính ở trong cõi đời ô
trọc nầy. Nếu ta quyết tâm hạ thủ công phu thì sẽ được. Lâu hay chậm là
tùy hành giả. Đường sanh tử Niết Bàn chỉ hai chuyến đi về. Người có năng
lực chỉ cần đi một mạch. Kẻ thiếu năng lực thì phân chia ra nhiều đoạn để
nghỉ mệt và sẽ đi tiếp. Cuối cùng rồi ai cũng đến đích thôi. Vì Đức Phật
đã khẳng định rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Với tánh Phật nầy
chúng ta sẽ thành Phật, lâu hay mau, mỗi người nơi mình hãy tự chọn một
lối đi.
Nhưng cuộc đời vốn
không bằng phẳng và toàn là kỳ hoa dị thảo. Do đó có không biết bao nhiêu
người đã bị vấp ngã và sa vào cảnh đọa lạc trầm luân, lúc ấy phải cần vào
tha lực. Cuộc đời và hình ảnh của Đức Phật hay những vị Bồ Tát Thánh Tăng
chính là kim chỉ nam và những nơi nương tựa. Giáo lý của Đức Phật là một
con thuyền để chuyên chở khổ đau và giúp đỡ nhân sinh thoát khỏi cơn hiểm
nghèo trong đường tơ kẽ tóc. Phải nên nhớ rằng, giáo lý chỉ có nhiệm vụ
giúp ta, còn cỡi trói hay ràng buộc là do chính mỗi con người, chứ không
phải do một đấng chúa tể nào có quyền định đoạt việc ấy cả.
Giáo lý của Đạo Phật
hay đúng hơn là của Đức Phật dạy rất tự do, phóng khoán; nhưng không phải
chuyện đơn giản. Nếu người bộ hành không tự cất bước, thì điểm đến sẽ
không bao giờ đạt được. Giáo lý ấy đã nói lên được tính chất trung thực
của nó; nhưng phàm cái gì có hình tướng đều phải biến qua 4 trạng thái
thành, trụ, hoại diệt hay vô thường, khổ, không và vô ngã. Đây là chơn lý
để minh xác việc trên là đúng và để chỉ rõ cho con người biết lối mà ra.
Thế nào là Vô
Thường?
Trong kinh Kim Cang
có dạy rằng: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng" Nghĩa là tất cả cái gì
có hình tướng đều là không có thật. Vậy có nghĩa là cái gì thấy được, sờ
mó được v.v... tất cả đều bị biến đổi. Ví dụ cái bàn, chiếc xe, chiếc đồng
hồ, vàng, bạc, đá quý v.v... người chưa hiểu đạo thì chấp chặt vào đó là
của mình, mình là sở hữu chủ của vật nầy của người kia; nhưng trên thực tế
nó không là của ai hết. Vì nó chỉ ở với ta một thời gian, rồi sau đó nó
phải biến đổi theo luật vô thường. Người không hiểu đạo sẽ bị đau khổ khi
mất mác, chia lìa, nhất là của cải, tài sản, con cái. Người hiểu rõ định
luật vô thường xem đó như một trò huyễn hóa. Họ sẽ không bị đau khổ khi
thành bại, nên hư. Ngược lại người không hiểu vô thường sẽ trách trời giận
đất v.v...
Một ví dụ khác rất
dễ hiểu mà ai trong chúng ta cũng đã kinh qua; nhưng rất hiếm người để ý
đến. Khi ta sinh ra đời nầy không mang theo được một thứ gì, ngoại trừ hai
bàn tay trắng và nghiệp lực của mình; rồi suốt trong một cuộc đời đó ta
làm phước cũng nhiều; nhưng tạo tội nghiệp cũng không phải lá ít, rồi một
ngày nào đó chúng ta lại phải ra đi, khi ấy cũng chẳng mang theo được gì,
lại cũng trắng tay; nhưng hành nghiệp thì cứ đeo đuổi theo ta mãi. Khi
sinh ra hai bàn tay của bất cứ ai cũng nắm chặt. Điều ấy chứng tỏ rằng
sinh ra đời chưa biết gì, đã biết tham. Điều nầy có từ trong vô lượng
kiếp, chứ không phải mới tạo ra từ kiếp nầy. Rồi khi ra đi, lúc bấy giờ
muốn nắm hai tay lại thật chặt, như giữ vợ, giữ con, giữ của cải tài sản
lại với mình v.v... nhưng có giữ lại được gì đâu và hai bàn tay vẫn cứ
xuôi ra, không làm sao nắm lại được nữa. Chúng ta khó cưỡng lại sự vô
thường là vậy. Cụ Ôn Như Hầu cũng đã than rằng:
"Trăm năm còn có gì
đau
Chẳng qua một nắm
cỏ khâu xanh rì"
Cuộc đời con người
sống lâu lắm là 100 tuổi; nhưng cuối cùng rồi cũng chỉ một nấm mồ mà thôi.
Hoặc giả như bài khuyến tu sau đây:
"Dép dưới giường lên
giường vội biệt
Sống ngày nay chẳng
biết ngày mai
Mạng người hô hấp
khinh thay
Nghĩ cơn vĩnh biệt
tuyền đài mà đau"
Mới tối đi ngủ để
dép dưới giường; nhưng sáng dậy có người còn không thể mang lại đôi dép
tối hôm qua, thử hỏi cuộc đời đâu có gì là chắc thật? Ai trong chúng ta
cũng đều biết rằng mình sẽ sống được bao lâu. Không ai có thể làm chủ được
mình cả. Mạng sống con người chỉ có giá trị trong hơi thở. Nếu hít vào mà
không thở ra. Xem như đã hết một đời. Điều quan trọng ở đây là hiểu và
không hiểu. Người hiểu về vô thường sẽ tìm cách chấp nhận vô thường. Người
không hiểu về vô thường sẽ tìm cách chối bỏ nó. Nhưng dầu chấp nhận hay
chối bỏ, khi cơn vô thường đến nó cũng không chừa một ai đâu. Bởi vậy Đức
Phật cũng có dạy rằng: Tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh ra và các
pháp đều do nhân duyên diệt là vậy. Tất cả cái gì trên thế gian nầy đều do
nhân duyên mà hội tụ, rồi cũng vì nhân duyên mà các pháp đều tan biến đi.
Các pháp ở đây phải hiểu hai mặt. Một mặt hữu vi và một mặt vô vi. Hữu vi
là những gì có hình tướng. Còn vô vi là những gì không hình tướng. Không
hình tướng cũng không có nghĩa là không có, mà cái không nầy là hình ảnh
của cái có, đối nghịch lại với nhau vậy. Không và Có là hai trạng thái đối
đãi nhị nguyên trong cuộc đời nầy. Khi nào thoát ra khỏi hai cảnh đối đãi
nầy là hiểu đạo.
Khổ là gì ?
Khi Đức Phật chuyển
pháp luân lần đầu tiên Ngài đã nói đến khổ trước. Khổ về sanh, về già, về
bịnh, về chết, khổ vì thương nhau không được gần nhau, ghét nhau mà phải
gặp nhau hoài, khổ vì cầu không được, khổ vì 5 ấm không điều hòa. Những
trạng thái của sự khổ nầy có tính cách hình tướng. Còn cái khổ của tinh
thần thuộc về nguyên nhân của sự khổ nầy. Tại sao có sanh, có già, có bịnh
và có chết? Thiết nghĩ Đức Phật thấy cái khổ và nói cái khổ đầu tiên để
chúng sanh biết khổ mà tu, biết bịnh mà uống thuốc. Người nào cảm thấy
rằng mình cần thuốc thì phải biết mình thuộc loại bịnh nào. Đức Phật giống
như người Thầy thuốc, biết chữa bịnh và cho thuốc, còn uống thuốc hay
không là thuộc về bịnh nhân chứ không phải thuộc về phạm vi của Thầy
thuốc.
Đức Phật cũng đã
từng dạy: Nước mắt của chúng sanh đầy hơn nước trong 4 bể của Đại Dương.
Nước bốn bể nhiều như thế mà sự khổ của chúng sanh còn nhiều hơn thế nữa.
Nếu cuộc đời nầy là vui thì khi sinh ra ai cũng phải cười chứ không phải
khóc; nhưng có ai ngoại lệ được chăng? Chúng sanh bớt khổ; nhưng hay ham
vui nên dễ quên đi cảnh khổ. Ví dụ một người nào đó đi vào nhà thương,
trại cùi, trại mù hay nhà tù để thăm viếng, liền lúc đó họ động mối từ
tâm, muốn cứu người giúp đời; nhưng qua giây phút đó, trở về lại với cuộc
sống bình thường, lại đắm say trong tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống,
ngủ nghỉ v.v... Đức Phật, Ngài đã chứng thực sự khổ đau, nên đã nói ra hết
những thống khổ của nhân sinh và từ đó chúng ta có thể tránh khỏi, nếu
chúng ta muốn.
Không là gì ?
Không ở đây có nghĩa
là bị biến đổi. Có nghĩa là không thật tướng như trong kinh Bá Nhã đã nói:
Có tức là Không, Không tức là Có. Có chẳng khác Không, Không chẳng khác
Có. Thọ, tưởng, hành, thức đều như vậy cả. Cái gì có trên cuộc đời nầy
cũng sẽ biến thành không và từ không sẽ trở lại có. Ví dụ như thân thể của
chúng ta đây nhờ sự kết hợp của tinh cha huyết mẹ mà thành. Khi sinh ra
đời, nơi thân thể mình có đầy đủ 4 chất lớn là đất, nước, lửa và gió. Cộng
thêm phần tâm thức nữa để thành tựu một thân thể con người. Khi chết thì
hơi thở mất trước. Hơi thở rời thân thể của mình, trở lạ trạng thái uyên
nguyên của đất trời vạn vật hòa vào không khí và sức nóng, di chuyển đến
nơi nào cần để tụ họp trở lại. Không khí và sức nóng rời khỏi thân thể
trước. Kế đó là nước. Khi chôn cất xong, chừng 2, 3 ngày là phần nước rời
khỏi thân thể và cuối cùng là phần thịt xương, sẽ trả về cho đất, làm xanh
cây cỏ, ruộng đồng. Điều nầy cho thấy có tức là không. Rồi không tức có.
Nghĩa là từ chỗ biến đổi của nghiệp lực vô hình mà chúng ta đi đầu thai
trong 6 đường sinh tử, lúc làm trời, lúc làm người, lúc làm trâu bò, heo
gà, lúc làm tiên, lúc làm ngạ quỷ v.v... chẳng lúc nào ngừng nghỉ trong
cảnh khổ. Mỗi lần thọ lãnh đầu thai là một sự có đã bắt đầu. Rồi sự nầy sẽ
biến đổi theo thời gian năm tháng để trở thành không.
Nói như vậy có nghĩa
là không có gì cả sao ?
- Có chứ! Cái có nầy
vượt lên trên cái không và cái có vẫn hay đối đãi bình thường. Đó là chơn
không. Chơn không nhưng mà diệu hữu. Vi diệu thay! đã không rồi; nhưng
không ở đây không phải là không, mà là có. Cái có nầy là cái có chân thật.
Cái có của người đắc đạo, vượt lên trên cái có không, còn mất của cuộc
đời. Thử đọc 4 câu thơ nầy, ta sẽ hiểu được sự có không của cuộc đời:
"Nhạn quá trường
không
Ảnh hàm trầm thủy
Nhạn vô lưu tích chi
ý
Thủy vô lưu ảnh chi
tâm"
Nghĩa là:
Khi nhạn bay qua
không gian
Ảnh nhạn chìm xuống
mặt nước
Nhạn không hề có ý
lưu dấu vết lại
Nước cũng không bận
tâm giữ ảnh của nhạn lại.
Bốn câu thơ nầy nói
lên sự đạt đạo một cách nhiệm mầu. Không gian là một khoảng trống. Trong
ấy nảy sinh biết bao nhiêu nguyên nhân và kết quả. Trong ấy vô tình có một
chiếc nhạn ăn sương. Nhạn chưa hề nghĩ rằng bóng mình sẽ in lên mặt nước
và nước kia hình như cũng vô tình không cố ý giữ hình bóng nhạn lại làm
gì. Ở đây hai hình ảnh, hai đối cảnh rất nhịp nhàng, sống động. Cả hai đều
không muốn; nhưng đã hiện hữu. Nó đến và đi một cách tự nhiên, không mong
đợi, không khước từ. Ấy là như thị, như thị như trong kinh Kim Cang đã
minh giải.
Vô Ngã nghĩa là thế
nào ?
Đây chính là triết
lý cao siêu của Đức Phật. Ví dụ như câu thơ sau đây:
"Có thời có tự mảy
may
Không thời cả thế
gian nầy cũng không
Cho hay bóng nguyệt
dòng sông
Nào ai hay biết có
không là gì"
Tất cả đều không có
chủ thể, không có cái gì thuộc về ta vĩnh cửu cả. Ngay cả tài sản, của
cải, gia đình, vợ con v.v... Vì bản chất của cuộc đời là không thật có và
ngay cả chính ta cũng không phải là ta, thì có cái gì để gọi là hữu ngã?
Tất cả đều trở về với trạng thái không của nó. Có một người đi đêm hay sợ
ma và bóng tối, đồng thời một người khác cũng đi vào bóng tối nhưng không
sợ bóng đêm. Vì họ nghĩ rằng không có ma vì bóng tối cũng chỉ là hai mặt
của cuộc đời. Còn người kia vì chấp vào cái có của vô hình, nên có cảm
nhận sự sợ hãi. Thật ra sự sợ hãi nầy cũng phát sinh từ sự chấp ngã, chấp
có, chấp không, chấp thường, chấp đoạn mà thôi.
Một giáo lý như thế
rất tự nhiên và rất hợp với khoa học. Một thánh kinh như thế dầy gần
250.000 trang sách bằng chữ Hán và chữ Nhật, không ai có thể tìm ra được
một kẽ hở nào để bác bỏ lại lý luận của Đức Phật cách đây 2.500 năm về
trước.
Giáo lý của Đức Phật
có một sự bình đẳng giữa nam nữ và đẳng cấp, không phân biệt giàu nghèo
sang hèn gì cả. Sau đây là một câu chuyện kể về Ngài A Nan, nhân việc kết
tập kinh điển lần thứ nhất, sau khi Đức Phật nhập diệt 100 ngày tại động
Thất Diệp gần Vương Xá Thành.
Ngài A Nan là con
cùng cha khác mẹ với Đức Phật. Có lẽ là con của Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, vì
ít thấy sử liệu Phật Giáo nào đề cập đến. Hay vì địa vị của Đức Phật quá
tôn quý; nên tất cả chỉ đổ dồn về Ngài, còn những người anh em một cha
khác mẹ khác, hay anh em họ, đề cập một cách tương đối ít hơn. Ngày mà A
Nan ra đời là ngày Đức Phật thành đạo. Cái tên A Nan Đà có nghĩa là Khánh
Hỷ, tượng trưng cho sự vui mừng ấy. Nếu nói theo thuyết Nam Tông thì Đức
Phật thành đạo lúc 35 tuổi; còn Bắc Tông thì Ngài thành đạo lúc 30 tuổi. Ở
đây căn cứ theo Bắc Tông. Vì sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài giảng 12 bộ
kinh và hơn 300 hội thuyết pháp đến 49 năm, được chia ra như sau:
21 ngày nói kinh Hoa
Nghiêm
12 năm nói kinh A
Hàm
8 năm nói kinh
Phương Đẳng
22 năm nói kinh Bát
Nhã
8 năm nói kinh Pháp
Hoa và Đại Bát Niết Bàn
Cộng tất cả lại
thành 49 đến 50 năm. Đây là lối chia theo Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư,
Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Quốc; nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều giả thuyết
khác nhau. Có điều giữa Nam và Bắc Tông đều chấp nhận Đức Phật nhập Niết
Bàn năm 80 tuổi. Như vậy niên đại Phật lịch 2.540 năm nay là năm Đức Phật
Nhập Niết Bàn chứ không phải Đản Sanh. Đúng ra phải cộng thêm 80 tuổi thọ
của Ngài nữa mới thành ngày Đản Sanh của Ngài; nhưng theo truyền phái Nam
Tông chữ Vesak có nghĩa là trăng tròn và ngày ấy kỷ niệm chung cho 3 ngày
trọng đại trong cuộc đời của Đức Phật là: Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết
Bàn. Vì thị hiện Đản Sanh cũng là thị hiện Nhập Diệt, nên cả hai trạng
thái ấy có thể hiểu là một của một ứng thân Phật vậy.
Như vậy Ngài A Nan
kém Đức Phật 30 tuổi và khi Ngài A Nan xuất gia năm 20 tuổi thì Đức Phật
đã 50 tuổi rồi. Trong suốt 20 năm nầy Đức Phật đã giảng rất nhiều bộ kinh
quan trọng; nhưng Ngài A Nan được cái phước báu là những gì Đức Phật đã
nói trong 20 năm trước, Phật đều nói lại cho Ngài A Nan nghe, khi A Nan
làm thị giả của Ngài. Ngài A Nan có được một cái là nghe nhiều hiểu rộng
và có thể hệ thống hóa nhiều vấn đề khác nhau thành một đề tài chuyên
biệt. Mỗi lần như thế không dưới 700 trang sách. Vì chỉ thích nghe nhiều
hiểu rộng và ít đi sâu vào thiền định, nên khi Đức Phật Nhập Diệt rồi Ngàn
A Nan vẫn chưa chứng được quả A La Hán. Sau khi Phật Nhập Niết Bàn 100
ngày, 499 vị Thánh Tăng chứng quả A La Hán muốn trùng tuyên lại lời Phật
dạy; nhưng thiếu Ngài A Nan thì sẽ không thành. Vì chỉ có Ngài A Nan mới
có cơ hội để nghe tất cả những gì Đức Phật nói về kinh trong thời gian Đức
Phật còn tại thế. Trong khi đó 499 vị A La Hán kia chưa chắc đã nghe hết
trọn vẹn lời dạy của Đức Phật. Họ chỉ chứng một trong những pháp nào đó
thôi. Suốt đêm trước khi vào hội nghị, Ngài A Nan đã tham thiền và đột
nhiên đại ngộ chứng quả Vô Sanh và ngày hôm sau được vào Động Thất Diệp để
trùng tuyên lại những lời Đức Phật dạy. Lúc bấy giờ Ngài Ca Diếp ngồi ghế
chủ tọa cùng với các vị Trưởng Lão khác, trong đó có A Nhã Kiều Trần Như
là người mà Đức Phật đã độ lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Ngài Mục Kiền
Liên và Ngài Xá Lợi Phất không có mặt trong kỳ kết tập nầy. Vì các Ngài đã
thị tịch trước khi Đức Phật nhập diệt. Ngài A Nan tuyên lại các bộ kinh,
Ngài Ưu Ba Ly tuyên đọc lại những bộ luật của Phật chế. Ví dụ như giới thứ
nhất Đức Phật đã nói ở đâu, nói cho ai nghe và vì duyên cớ gì phải nói
giới đó và chia giới đó thuộc về lãnh vực nào v.v... Ngài Phú Lâu Na tuyên
đọc lại những bộ luận. Đại Hội thông suốt; nhưng đối với Ngài A Nan, 499
vị A La Hán có 5 điều đặt ra và mong rằng được nghe Ngài A Nan trả lời. Đó
là:
- Điều thứ nhất: Tại
sao Ngài năn nỉ Phật để cho người nữ xuất gia? và chính vì người nữ được
xuất gia nên thời kỳ chánh pháp thay vì ở đời 1.000 năm, chỉ còn có 500
năm ?
Đây là một câu hỏi
mà bao nhiêu vị A La Hán đã thắc mắc; nhưng Ngài A Nan có lẽ có duyên để
độ cho người nữ, nên Ngài cũng đã không quản ngại khó nhọc mà thưa thỉnh
cho họ; nên Ngài trả lời rằng:
- Khi bà Ma Ha Ba Xà
Ba Đề cùng với 500 mệnh phụ phu nhân của thành Ca Tỳ La Vệ đến xin Phật
xuất gia; nhưng Phật không bằng lòng. Họ đã thưa thỉnh đến 3 lần như thế,
Phật vẫn làm thinh. Khi tôi thấy họ chân đi trần, máu chảy khắp bàn chân,
xiêm y không còn đàng hoàn nữa, họ chỉ có một niệm duy nhất là xuất gia mà
vẫn không được thọ ký. Vì vậy tôi cố thưa thỉnh Phật một lần nữa và bạch
Phật rằng: Người nữ có khả năng thành Phật không? thì Đức Phật bảo rằng
có. Do duyên cớ ấy, tôi xin cho họ được xuất gia.
Đối với người nữ
phải cảm ơn Ngài A Nan mới phải. Nếu không có lời thưa thỉnh của Ngài A
Nan thì chưa chắc gì người nữ ngày xưa và ngày nay được thọ giới. Ở đây
phải thành thật mà công nhận rằng: Đức Phật đã quá thương người nữ nên đã
hy sinh 500 năm chánh pháp của mình để cho họ được xuất gia thọ giới. Ngày
nay có nhiều người hiểu lầm rằng tại sao Phật trọng nam khinh nữ, bắt
người nữ phải giữ giới nhiều hơn nam; nhưng ở đây phải hiểu ngược lại thì
đúng hơn. Thông thường chúng ta thương ai nhiều hơn hay chia phần lớn cho
họ. Chúng ta thương ai nhiều hơn chúng ta thường hy sinh cho kẻ khác. Giới
luật cũng giống như một cái bánh. Đức Phật giống như ông cha, vì thấy con
gái của mình cần có nhiều nghị lực để phấn đấu, nhất là khả năng thành
Phật, nên mới chia cho nhiều như thế. Còn đứa con trai kia, chính là những
người sinh ra đã có sức mạnh, nên cho ít hơn cũng không sao. Chúng ta nên
nghĩ rằng Đức Phật đã dùng con mắt trí tuệ mà hành xử để hai người con đều
có quyền ngang nhau. Có thể ví Phật tánh của người con trai là 1 kg sắt.
Còn Phật tánh của người con gái là 1 kg bông gòn. Trọng lượng của hai đều
giống nhau; nhưng chỉ có hình thức là khác nhau thôi. Ngày nay trên thế
giới đòi đủ loại quyền bình đẳng và quyền được bảo vệ; nhưng so ra dưới
cái nhìn của Đức Phật, Ngài đã nâng cao giá trị của người nữ cách đây hơn
2.500 năm rồi, mà ngay cả ngày nay ở những xã hội Âu Mỹ nầy được gọi là tự
do và người nữ có nhiều quyền hơn người nam; nhưng ngay tại xứ Đức nầy
được gọi là văn minh bậc nhất trong thiên hạ vào thế kỷ thứ 20 nầy, thế mà
có những chỗ lễ bái của Freiermauer, người đàn bà không được phép vào, đó
là chưa nói những người đàn bà theo Hồi Giáo hay Ấn Độ Giáo. Như vậy, nữ
quyền trong giáo lý của Đức Phật tương đối dễ chấp nhận hơn bất cứ là một
tôn giáo nào có mặt trên thế gian nầy.
Ngài A Nan có lẽ đã
có lý khi xin cho người nữ; nhưng với điều kiện người nữ phải giữ kỷ cương
của họ như Đức Phật đã chế cho họ trong 8 điều cần phải có đối với chư
Tăng thì Tăng Già mới tồn tại lâu dài. Bằng ngược lại, giá trị ấy, sẽ
không còn đứng vững nữa. Từ thời Đức Phật còn tại thế Tỳ Kheo Ni giới rất
thịnh hành; nhưng sau đó chừng 500 năm, truyền thống nầy không thấy còn
xuất hiện bên Nam Tông nữa. Ngày nay chỉ còn giới Bạch Y Cư Sĩ thọ 8 giới
mà thôi. Phía nữ đã ngã qua tinh thần của Đại Thừa giáo; nhưng cũng chỉ
đặc biệt ở Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam thôi. Trong khi đó Tây
Tạng, Bhutan và Sikkim là những xứ Phật Giáo Đại Thừa nhưng cũng không
thấy có truyền thống của Ni giới.
- Điều thứ hai: Các
vị A La Hán hỏi rằng: Tại sao khi Phật nhập diệt lại không ngăn chận những
người nữ ở làng Mạt Lị vào thành Câu Thi Na, khi họ đến gần bên Phật, khóc
lóc thảm thương và nước mắt của họ nhỏ vào nơi chân của Đức Phật, khiến
sau khi thiêu thì Xá Lợi không có nơi bàn chân nầy nữa ?
Điều thứ hai nầy
cũng thuộc về người nữ. Ngài A Nan trả lời rằng: Khi biết Phật nhập Niết
Bàn, ông rất đau đớn, lo khóc thương chứ không để ý đến chung quanh, những
người nữ nầy vào khi nào Ngài không biết, chứ không phải Ngài cho phép. Ở
đây vấn đề được đặt ra là - tại sao nước mắt của người nữ có tác hại như
thế? Có lẽ những nhà tâm lý, xã hội học rành hơn; nhưng lâu nay lịch sử
cũng đã chứng minh biết bao nhiêu tao nhân mặc khách, anh hùng cái thế
cũng vì nghe lời người nữ và bị nước mắt đàn bà mà làm cho thân tan, thịt
nát như Thúy Kiều với Từ Hải, như Đắc Kỷ với Trụ Vương v.v...
Người đàn bà bản thể
của họ không xấu; nhưng có lẽ vì nghiệp lực nặng nề của nhiều kiếp huân
tập lại nên mới có sự khác biệt với đàn ông như thế chăng? Đọc đến đây có
nhiều người nữ cho rằng tôi thiên vị nam nhơn; nhưng công tâm mà xét thì
phải đứng trên hành vi nghiệp lực của mỗi con người mới có thể minh định
được và không thể nhìn chung một tập thể để luận bàn.
- Điều thứ ba: Các
vị A La Hán đã hỏi Ngàn A Nan rằng: Tại sao khi giặt y của Đức Phật lại
lấy chân đạp lên đó, tỏ ý khinh thường pháp y? Ngài A Nan trả lời rằng:
Không phải tôi có ý đó, mà tại gió đã cuốn vào chân tôi. Đó chẳng phải là
một sự biên minh; nhưng là một sự thật. Khi Ngài A Nan chấp nhận làm thị
giả của Đức Phật, Ngài có đưa ra nhiều điều kiện như: không ăn cơm và đồ
ăn còn lại của Phật, không mặc áo của Phật và nếu ai đến gặp Phật phải
được sự đồng ý của Ngài trước v.v... như thế đủ thấy là Ngài A Nan đã
phòng xa như vậy; nhưng vẫn còn bị sự nghi kỵ như thường. Đi đến nơi đâu
tại Ấn Độ, nhất là tại núi Linh Thứu, thì hình ảnh nầy rõ ràng nhất. Đức
Phật ở trên đỉnh núi, Ngài A Nan ở dưới chân núi, còn Ngài Xá Lợi Phất là
bậc giáo thọ nên lúc nào cũng ở gần Tăng chúng và ít gần Phật như Ngài A
Nan. Bất cứ ai, muốn gặp Phật, phải gặp Ngài A Nan trước. Như vậy, chứng
tỏ rằng Ngài phải là người không được thiên vị ai cả, dầu cho đó là bậc
vua quan hay thứ dân, hạ tiện.
- Điều thứ tư: Các
vị A La Hán hỏi Ngài rằng: Tại sao không thỉnh Phật ở lại đời lâu hơn nữa,
mà chờ cho Phật nhập tứ thiền xong mới thưa thỉnh? Ngài trả lời rằng: Vì
mãi buồn lo nên quên thưa thỉnh. Lúc chợt nhớ ra việc thưa thỉnh qua sự
nhắc nhở của chư thiên thì đã trễ rồi. Lỗi nầy tại Ngài quá bi thương cảm
động.
Một Đức Thế Tôn ra
đời có thể trụ thế dài lâu; nếu có sự thưa thỉnh. Vì Phật đã chứng vô sanh
thì đến cũng như đi, còn cũng như mất, tịch diệt cũng như thị hiện. Chỉ có
chúng sanh là có mất còn. Riêng chư vị Bồ Tát thì không đến, không đi,
không còn, không mất.
- Điều thứ năm: Các
vị A La Hán hỏi Ngài A Nan rằng: Tại sao phải để Phật yêu cầu đến lần thứ
3 mới múc nước cho Phật uống, trong khi Đức Phật đã quá khát nước trên
đường đi từ Tỳ Xá Ly đến Câu Thi Na? Ngài A Nan trả lời rằng: Vì trước đó
có 500 cỗ xe bò lội qua, nước đục quá, tôi không nỡ đang tâm múc nước cho
Phật. Đến lần thứ 3 nhờ Phật dùng thần lực làm cho nước trong, tôi mới múc
cho Phật dùng. Đây là câu trả lời thành thật nhất. Nhưng có lẽ các vị A La
Hán lúc đó không có mặt nên đã nghi kỵ về lòng tốt của Ngài A Nan chăng?
Dẫu sao, đứng về tình máu mủ thì Đức Phật cũng là anh ruột mình. Anh cùng
cha khác mẹ mà cũng là anh em bạn dì nữa, nên Ngài không bao giờ có ý hại
Phật. Vả lại khi xuất gia được chọn làm đệ tử hầu cận Đức Phật, một người
luôn luôn gần gũi và được mọi người biết đến. Đó là vinh dự của Ngài A
Nan, nên không vì bất cứ một lý do nào mà có ý hại Phật cả.
Sau khi Ngài A Nan
trả lời 5 điều nghi vấn ấy cả 499 vị A La Hán đều bằng lòng và Ngài tiếp
tục làm nhiệm vụ tuyên đọc lại các lời dạy của Đức Phật qua từng thời điểm
khác nhau trong tinh thần kinh điển của Tiểu và Đại Thừa giáo. So ra, Ngài
A Nan làm đệ tử của Đức Phật suốt 30 năm trường mà chỉ có 5 lỗi đáng trách
thì quả là một người đệ tử phi thường của một bậc thánh xuất thế gian.
Điều ấy không phải dễ đối với một người bình thường có thể làm được.
Duy Thức Học Phật
Giáo là một môn triết học cao siêu, một môn tâm lý học sâu sắc, khó có
loại triết học nào của Âu Châu sánh kịp. Lập luận của triết học Âu Châu có
tính cách nhị nguyên, có nghĩa là: a sinh ra b, thì b sinh ra c. Nếu a
không có thì c sẽ không có. Có nghĩa là Chúa sẽ sinh ra muôn loài vạn vật,
Chúa sẽ sắp đặt mọi chuyện của con người. Nếu không có Chúa, cái gì trên
thế gian nầy cũng không có. Hoặc theo thuyết Tam Đoạn Luận như Socrate đã
chủ trương: a bằng b; b bằng c. Do đó suy ra a bằng c. Đây là hình thức
cân bằng phương trình và công thức lấy cái tuyệt đối trong cái tương đối.
Nhưng ở Đạo Phật thì có thuyết bất nhị (không hai). Nghĩa là ngoài a không
có b và ngược lại ngoài b không có a. Cái nầy tồn tại vì cái kia tồn tại,
cái nầy mất đi vì cái kia mất đi. Không ai sinh ra ai mà cũng không ai chi
phối ai được. Vì nhân duyên mà có rồi vì nhân duyên mà thay đổi. Triết
thuyết nầy của Đạo Phật tương đối đứng vững qua thời gian và không gian,
dẫu cho ngày nay khoa học có phát triển đến mức độ nào đi chăng nữa, cũng
có thể chấp nhận một cách dễ dàng. Triết học Âu Châu chỉ nói đến thức thứ
6, trong khi đó triết học Phật Giáo nói đến sự hiện hữu của thức thứ 7 và
thức thứ 8. Đó là Mạt Na Thức và A Lợi Da Thức. Còn gọi là thức chấp ngã
và thức làm chủ. Theo Duy Thức Học thì tâm vương (thức thứ 8) là chủ của
mọi sự tạo tác trong cuộc đời nầy. Ví dụ trồng hạt mít để sinh ra cây mít.
Đó chỉ là việc nhân sinh ra quả; nhưng điều đó không quan trọng là tác ý
để trồng hạt mít do tâm vương sai sử quan trọng hơn là hạt mít. Không hạt
mít thì có thể là một loại hạt khác cũng không sao.
Tất cả những hành vi
tạo tác từ trong quá khứ nó chứa chấp nơi thức thứ 8 nầy để rồi một ngày
nào đó nó phải đi đầu thai, chính thức thứ 8 nầy nó sẽ chi phối tất cả
sinh vật tiếp theo đó qua sự sắp xếp của thức thứ 7. Vì thức thứ 7 giữ
nhiệm vụ chấp nhận hay chối từ. Nhiệm vụ của thức thứ 7 cũng rất quan
trọng trong hệ thống Duy Thức Học Phật Giáo. Ở đây chỉ giới thiệu sơ qua
về hệ thống triết học và tâm lý học của Phật Giáo mà thôi. Nếu có cơ hội,
nên tìm đọc thêm các sách về Duy Thức Học để hiểu biết thật tường tận.
Đức Phật Ngài giảng
vô số bài thuyết pháp; nhưng không có bài nào trùng với bài nào. Mỗi một
bài chứa đựng một nội dung khác nhau, một mục đích khác nhau; nhưng cuối
cùng rồi cũng chỉ để giáo hóa chúng sanh và mong cho chúng sanh chóng rời
bờ mê để trở về biển giác ngộ.
Đi cao và sâu hơn
nữa vào cảnh giới tam thiên đại thiên thế giới của kinh Pháp Hoa hay trùng
trùng duyên khởi, trùng trùng biến hiện của Hoa Nghiêm kinh, chúng ta thấy
giáo lý của Đức Phật là một hệ thống siêu triết học, siêu tôn giáo, siêu
hình học. Vậy thế nào là tam thiên đại thiên thế giới?
Tam thiên đại thiên
thế giới ý chỉ cho số nhiều. Nghĩa là ngoài thế giới Ta Bà nầy, nơi chúng
ta và các chúng sanh khác đang ở, còn có rất nhiều thế giới khác; nhưng ở
đây chúng ta cũng có thể làm một bài tính nhân được. Cứ 1.000 thế giới hợp
lại thành một Tiểu thiên thế giới. 1.000 tiểu thiên thế giới hợp thành một
trung thiên thế giới. 1.000 trung thiên thế giới hợp thành một đại thiên
thế giới. Trong cõi vô cùng nầy có đến 3.000 đại thiên thế giới như thế.
Mỗi thế giới đều có 3 cõi. Đó là: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Mỗi
thế giới như thế có nhiều mặt trời, mặt trăng và quả đất v.v... Chúng ta ở
trong cõi nầy gồm 5 châu. Đó chỉ là một hạt bụi trong các thế giới khác.
Phật sau khi chứng đạo, Ngài đã thấy rõ thiên hình vạn trạng và sự cấu tạo
bởi thế gian là một thế giới hoa tạng, trùng trùng duyên khởi và trùng
trùng biến hiện. Nghĩa là nơi đây có một thế giới sanh, thì nơi kia có một
thế giới diệt và cứ thế luân chuyển hoài trong cõi vô cùng ấy. Nơi đây có
cảnh khổ của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì nơi kia có cảnh giới cực lạc
và giải thoát. Có thế giới chúng sanh có hình tướng, mà cũng có thế giới
chúng sanh chỉ có tâm thức mà thôi. Có thế giới có cả nam nữ, trâu, bò,
heo, gà; nhưng có thế giới không có thân hình người nam, lẫn thân người
nữ; có thế giới chỉ toàn là những vị Bồ Tát và Bích Chi Phật; nhưng đồng
thời cũng có những thế giới chỉ toàn là trâu bò và thực vật.
Đây là sự cấu tạo
của vạn hữu. Thế giới có từ khi các động vật gọi là người, thiên thần,
chúa tể có, và thế giới nầy sẽ hoại diệt đi khi nhân duyên đã mãn như 4
chất lớn trong người đã bị tan rã sau khi hơi thở đã lìa xác thân. Đây
cũng là sự biến đổi vô thường mà Đức Phật đã minh định trong giáo lý của
Ngài. Ngoài ra mỗi một thế giới như thế có một vị Phật Giáo hóa. Ví dụ như
cõi Ta Bà nầy có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cõi phía Đông có Ngài Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai. Cõi phía Tây có Đức Phật A Di Đà. Phật vì chúng sanh
mà hằng thuận, mà hóa độ để họ trở về với tánh chơn thường của mình. Phật
hoặc các vị Bồ Tát vì chúng sanh mà các Ngài hiện hữu. Vì chúng sanh mà
các Ngài lại thị tịch Niết Bàn. Các Ngài thay cho chúng sanh để chịu những
khổ nạn. Các Ngài cũng vì chúng sanh mà đi đầu thai trong 6 nẻo luân hồi.
Nếu một người bình
thường rất khó chấp nhận lý thuyết nầy. Ngay cả khi chưa phát hiện được
Châu Úc thì người ta nghĩ rằng thế giới nầy chỉ có 4 lục địa thôi; nhưng
bắt đầu nay mai người ta sẽ phát minh thêm một lục địa nữa, khi có động
đất và núi sẽ lấp biển thành đất bằng. Ai biết được? Chỉ có nhân duyên là
đầy đủ khả năng để trả lời về việc nầy.
Còn triết học và
tánh không Phật cũng đã nói trong Trung Quán Luận. Phật cũng phá chấp cho
chúng sanh trong tinh thần kinh Kim Cang với ông Tu Bồ Đề. Phật cũng đã
nói về Vô Ngã trong kinh Duy Ma Cật. Tất cả những lời dạy nầy cho đến ngày
nay vẫn còn có giá trị. Chúng ta thử tìm hiểu tinh thần phá chấp trong
kinh Kim Cang như sau. Có lúc Đức Phật nói:
"Kẻ nào dùng hình
tướng để thấy ta
Kẻ nào dùng âm thanh
để cầu ta
Kẻ đó làm việc tà
Không bao giờ thấy
được Như Lai"
Ở đây đã bước lên
một giai đoạn cao của tâm thức. Thông thường chúng ta nương vào hình tướng
để làm một việc gì đó; nhưng nếu không hiểu đạo thì sẽ bị cái tướng giả đó
nó chi phối. Vì thế Phật đã vì cái chơn thường mà dắt chúng sanh đi cao
hơn một bực nữa. Nếu tu đến bậc thượng căn, thượng trí thì không cần đến
chùa, đến Phật tượng nữa. Vì tất cả những thứ nầy bị chi phối bởi luật vô
thường. Một ngôi chùa dầu tốt đến đâu cũng chỉ tồn tại vài trăm năm là
cùng. Tượng Phật dầu bằng đồng, bằng vàng, bằng kim cương, thạch bích
v.v... nhiều lắm là vài trăm năm cũng băng hoại thay đổi. Nếu dùng lời nói
để cầu Phật, dùng kinh điển để giải bày. Đây vẫn còn là phép đối đãi của
thế gian. Thuộc về việc chấp chước. Tất cả đều sai so với phép xuất thế
gian. Nếu không hiểu được lý lẽ nầy thì sẽ không bao giờ thấy được Phật
tánh của mình. Như Lai tiếng Phạn gọi là Tatagatha. Là một bậc Đại Giác,
một bậc Bạt Già Phạn, một bậc giác ngộ. Vị Phật nầy tất cả trong chúng ta
đều có nhưng phải thấy các tướng ấy chính là các tướng giả, không phải
tướng thật, thì mới thấy được chơn tướng của Như Lai.
Chúng ta nên tìm
hiểu thêm một đoạn khác cũng ở trong kinh Kim Cang như sau:
"Tất cả các pháp hữu
vi
Như mộng giả hợp,
như bọt nước
Như sương mai, điện
chớp
Nếu quán sát được
như vậy
Sẽ thấy được chơn
tướng của Như Lai"
Đoạn nầy thì phá
chấp một cách rất rõ ràng, chúng ta dễ hiểu; nhưng việc thực hành không
phải là chuyện đơn giản. Pháp hữu vi là những pháp có hình tướng, có sanh
có diệt, có đến có đi. Tất cả các pháp nầy đều bị chi phối bởi luật vô
thường về thành, trụ, hoại, diệt. Vì tất cả những pháp nầy như một giấc
mộng, có đó rồi mất đó, như bong bóng nước, nhìn hình dáng là có; nhưng
bản chất của nó là không, chỉ từ nước biến hóa nên thôi. Như giọt sương
mai trên đầu ngọn cỏ. Mới trông thấy đẹp lắm; nhưng mặt trời lên cao thì
sương mai tan biến đi, không còn dấu vết gì ở lại với cây cỏ nữa. Điện là
một tập hợp của nhiều công suất. Điện sẽ phát sinh khi hội đủ điều kiện,
sáng lên rồi tắt đi, không có gì tồn tại lâu dài cả. Nếu tất cả chúng sanh
trong cõi Ta Bà nầy đều biết quán sát như thế thì sẽ bớt khổ, thêm vui.
Phật đã chỉ tất cả những căn bệnh cho chúng sanh; nhưng vì mải ham vui
trong cuộc sống ngũ dục nầy; nên lại quên đi chân tâm, mà chân tâm nầy là
Phật tánh. Vì vậy tánh Phật bị lu mờ. Mỗi một vị Phật hay một vị Bồ Tát ra
đời nhằm đánh thức chúng sanh trở về lại với con người của chính mình bằng
sự chánh niệm tự có.
Chánh niệm có nghĩa
là tập trung tư tưởng. Tập trung tư tưởng có nghĩa là thiền định là tụng
kinh, là trì chú, là lễ bái, là niệm Phật v.v... tất cả các pháp môn nầy
đều giúp ta làm chủ bởi chính mình. Khi ăn chúng ta biết mình đang ăn, khi
đi dạo chúng ta biết mình đang đi dạo, khi tụng kinh, tất cả tâm tư đều
lóng đọng theo lời kinh tiếng kệ. Khi làm bất cứ một vấn đề gì, phải có
đầy đủ ý thức nơi đó. Thực ra khi thực tập chánh niệm chỉ để ý thức về hơi
thở, về việc làm và tạo sự an lạc cho thân tâm trong giây lát nào đó, chứ
chưa tạo được sự giải thoát sanh tử. Muốn giải thoát sanh tử phải dụng
công nhiều năm tháng trong mọi cách hành trì thì mới mong màn vô minh được
phá tan đi và ánh sáng trí tuệ lại đến.
Người học đạo và tu
đạo sẽ gặp nhiều thử thách, vì thế Đức Phật đã giảng rất nhiều phương pháp
để chữa trị như trong luận Bảo Vương Tam Muội, trong kinh Bát Đại Nhân
Giác, kinh Pháp Cú v.v... Điều quan trọng ở đây là phải tự chiến thắng
mình. Vì cuộc chiến đấu nầy gay go hơn mọi cuộc chiến đấu khác đến trăm
ngàn lần. Chiến đấu với kẻ khác rất dễ; nhưng chiến đấu với nội tâm mình
quả là một kỳ công có một không hai của mỗi người. Tại sao vậy? Cái khó ở
đây là mình phải tự làm chủ lấy mình. Vì hiểu mình rất khó, nhưng hiểu đối
tượng và tha nhân thì tương đối dễ. Cuộc chiến đấu của nội tâm không cần
binh hùng, tướng dũng, không cần súng đạn, ngựa xe; chỉ bằng một mãnh lực
tinh thần và ý chí. Vì vậy Đức Phật đã dạy: "Chiến thắng muôn quân không
bằng tự thắng mình, tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất".
Trên đây là phần
giáo lý căn bản trong khi Đức Phật còn tại thế đã dạy. Sau khi Ngài viên
tịch rồi, các vị Tổ Sư, các vị Đại Luận Sư muốn cho Phật Giáo được phát
triển, phải tùy căn cơ của chúng sanh mỗi nơi, mỗi thời mà diễn dịch, giải
thích những lời dạy của Đức Phật một cách tương tế kỹ lưỡng hơn.
Tăng Già là một đoàn
thể hòa hợp. Từ 4 vị Tỳ Kheo Tăng trở lên mới gọi là Tăng Già được. Đây có
thể gọi là một Giáo hội nhỏ. Nếu một trong 4 vị không đồng ý ở bất cứ một
lý do nào, xem như việc ấy không thành. Từ thuở Phật còn tại thế giáo hội
của Ngài cũng chia ra làm hai. Một của Đề Bà Đạt Đa và một do Ngài lãnh
đạo. Giáo Đoàn của Ngài rất đông đúc. Cho nên cũng có rất nhiều vấn đề. Vì
vậy phải cần Ngài Xá Lợi Phất và 9 vị Đại Đệ Tử khác trông coi. Trong khi
đó Đề Bà Đạt Đa vì muốn chưởng quản Giáo hội, nên đã tìm cách hại Phật.
Giáo hội của Đề Bà Đạt Đa vẫn hợp pháp vì có những người cùng một mục đích
quy tụ tại đó; nhưng Giáo hội nầy không tồn tại lâu dài, lúc ẩn lúc hiện,
lúc còn, lúc mất trong suốt cả mấy ngàn năm lịch sử. Giáo hội nầy có thể
ví như ma vương hại Phật. Lúc nào cũng phải cần chiến đấu để chân lý được
vẹn toàn.
Thời Đức Phật còn
tại thế có rất nhiều bậc vương tôn công tử xuất gia. Vì vậy sự cúng dường
cũng có tính cách hậu hỉ. Nhìn đời sống đầy đủ sung túc như thế; nên có
nhiều tu sĩ ngoại đạo đã xin Phật cho xuất gia. Phật đồng ý nhưng đã chế
ra 4 phép nương tựa sau đây. Nếu ai chấp nhận được thì sống cuộc đời Tăng
sĩ; nếu không thì có quyền rút lui khỏi giáo đoàn.
- Phép thứ nhất: Là
người xuất gia, mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Điều nầy có nghĩa là mỗi ngày
người tu phải đi khất thực. Chính Phật ngày xưa cũng vậy. Chỉ trừ những
ngày được mời đến cung vua hay nhà thí chủ để được cúng dường. Ngoài ra
trong 9 tháng không an cư kiết hạ đều phải đi khất thực. Đi khất thực sẽ
giúp cho người tu dẹp bớt tự ngã của mình, phải cố gắng hòa mình vào trong
tập thể để sống. Đi tu nghĩa là bên trên cầu sự giác ngộ và bên dưới phải
cứu giúp muôn loài. Đó là nhiệm vụ của người tu. Đi xin để nuôi cái thân
thể bằng da bằng thịt ấy và người tu phải có bổn phận làm cho pháp thân
huệ mạng được phát sanh. Phật cũng đã dạy trong luật rằng: Chư Thiên ăn
buổi sáng, Phật dùng ngọ, súc sanh ăn buổi chiều và ngạ quỷ ăn buổi tối.
Mỗi buổi ăn như vậy có một loài chúng sanh khác nhau hợp ý. Ngạ quỷ vì sợ
ánh sáng,nên chỉ ăn lúc ban đêm. Vậy là người, mà nhất là một người tu thì
không được phép dùng cơm sau khi mặt trời đã lặn, hay nói đúng hơn là quá
ngọ. Ngày nay các xứ theo Phật Giáo Nam Tông thì vẫn còn hành trì; nhưng
Phật Giáo Bắc Tông đã thay đổi khá nhiều so với tinh thần nguyên thủy của
nó. Nghĩa là chư Tăng dùng ngày 3 bữa bằng chay tịnh, chứ không dùng đến
tam tịnh nhục như Đức Phật đã cho phép, khi đi khất thực.
- Điều thứ hai: Đối
với một vị Tăng sĩ là sau khi ăn phải ngủ dưới gốc cây. Tại sao Đức Phật
lại chế ra điều nầy? Vì sợ Tăng chúng lo thụ hưởng vấn đề vật chất, quên
đi đời sống tâm linh, nên mới chế ra như thế. Đức Phật đã từ bỏ cung vàng
điện ngọc, vợ đẹp con ngoan để ra đi tìm đạo thì đâu còn vương vấn gì đến
lầu son gác tía. Nên đối với Ngài rất dễ thực hiện. Còn những chúng sanh
khác không phải chuyện giản đơn. Nên Ngài đã tìm cách ngăn chặn tâm hưởng
thụ của những người tu theo Đạo Phật. Vả lại xứ Ấn Độ là một xứ nóng, nên
chư Tăng ít cần nhà hay Tịnh Xá, hoặc Chùa như các xứ Âu Mỹ ngày nay. Ở
ngoài gốc cây vẫn mát hơn là ở trong nhà. Tuy nhiên những ngày mưa, có dạo
nơi Trúc Lâm Tịnh Xá chư Tăng đã bị bịnh rất nhiều, do đó các vị trưởng
lão ở trong làng mới cho cất những ngôi nhà lên cho chư Tăng có nơi trú
ngụ, thay vì ở dưới gốc cây, hay trong hang động, gọi là những A Luyện Nhã
thuở bấy giờ.
- Điều thứ ba: Đối
với chư Tăng là khi bịnh phải dùng một loại thuốc có tên là thuốc Trần Bà.
Đây là một loại lá cây, xay ra để lấy nước uống hoặc thoa để đỡ bịnh. Có
nơi giải thích đó chính là phân bò. Vì ngày xưa y học chưa phát triển, và
tại Ấn Độ bị ảnh hưởng bởi Ấn Độ Giáo nên phân bò đôi khi cũng được dùng
đến để chữa bịnh.
Căn cứ vào những
phép nương tựa nầy mà ngày nay khi có lễ Trai Tăng, các Phật tử tại gia
thường hay gọi là dâng tứ vật dụng lên chư Tăng. Nghĩa là những thứ chư
Tăng dùng hằng ngày. Đó là thức ăn, y áo để mặc, thuốc than cho việc đau
ốm và chỗ ở. Ngày nay có dâng thêm tiền bạc để đi xe, đi đò. So ra ngày
xưa với bây giờ việc cúng dường lên chư Tăng của Phật Tử không có gì thay
đổi mấy.
- Điều thứ tư: Đối
với Tăng sĩ về tài sản chỉ có 3 y và một bình bát. Ba y nầy dùng để làm
việc, dùng cơm, tụng kinh và đăng tòa thuyết pháp. Y có nghĩa là áo. Bát
có nghĩa là bình hoặc tô dùng để ăn cơm. Đây là tài sản riêng về vật chất.
Còn tài sản tinh thần của chư Tăng. Đó là trí tuệ. Chỉ có trí tuệ mới là
sự nghiệp của chư Tăng mà thôi. Người nữ thì có 5 loại áo, 3 loại như bên
trên, loại thứ 4 dùng để tắm che kín ngực và loại thứ 5 dùng khi trong
người không sạch sẽ. Những y áo và bình bát nầy nếu chết đi phải để lại
cho thập phương Tăng, nếu Hội Đồng kiểm soát thấy rằng người chết kia
không bị bịnh hoạn gì.
Những y áo nầy ngày
xưa phải vào bãi tha ma, lượm giẻ rách của các tử thi đem về may vá lại
thành y trăm miếng mà mặc. Ngày nay thì ngược lại, giẻ rách không có, nên
phải xé vải lành ra để may thành y.
Trên đây là 4 phép
nương tựa căn bản của một người xuất gia. Nếu ai chấp nhận thì được thâu
nạp vào hàng Tăng lữ. Nếu ai không thừa nhận cũng không sao. Vì giáo lý
của Đức Phật không ép buộc bất cứ một người nào, mà ai cảm thấy có thể
kham nhẫn được thì dự vào. Điều ấy cho ta thấy rằng cuộc sống của những vị
tu hành không phải là một cuộc sống hưởng thụ, mà lại cũng không có nghĩa
là buông tha, cẩu thả phóng túng theo thế trần.
Cho đến ngày nay
Tăng Đoàn vẫn còn có mặt trên khắp năm châu bốn bể và chính họ đã nhờ vào
phép sống lục hòa và giữ đúng tinh thần giới luật cũng như phép Yết Ma mà
họ tồn tại cho đến ngày nay.
Giáo lý của Đức Phật
thì vô cùng tận, học suốt cuộc đời cũng không hết, hành suốt qua không
gian và thời gian cũng không cùng; với sự hiểu biết hạn hẹp của mình, nên
xin gởi đến quý vị một cái nhìn tổng quát về Phật, Pháp, Tăng để từ đó
chúng ta đi xa hơn nữa về sự trưởng thành giáo lý ấy đối với nhân sinh như
thế nào qua các thời đại và qua các nước Á, Âu cũng như Mỹ để chúng ta có
được một hướng đi đích thực cho tương lai. Đó là mang Đạo vào Đời.
---o0o---
Mục Lục |
Phần 1 |
Phần 2 |
Phần 3 |
Phần 4