NIỆM
PHẬT VÔ
TƯỚNG
(Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm
Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí)
Nguyên
tác Hoa văn của Tiêu Bình Thật cư sĩ
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch ra Việt văn
NIỆM
PHẬT VÔ TƯỚNG (VÔ TƯỚNG NIỆM PHẬT)
Nguyên tác Hoa văn của Tiêu Bình Thật cư sĩ (Đài-loan)
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch, giới thiệu, chú thích bổ túc, đánh máy,và
trình bày trang sách
Nữ cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo
Chương Ba
TRI KIẾN PHẢI CÓ KHI TU TẬP PHÁP MÔN
NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG của BỒ TÁT ĐẠI THẾ CHÍ
I. PHÁP MÔN
NÀY LÀ PHÁP MÔN TU ĐỊNH,
KHÔNG PHẢI
LÀ PHÁP MÔN TRÌ DANH
Pháp môn
Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí là một loại pháp môn
tu định. Mượn phương pháp tu định để tu tịnh độ, làm cho pháp môn
tịnh độ đã trực tiếp lại hữu hiệu. (Xin xem chú thích số 5 của
tác giả ở cuối sách.)
Thông
thường những người tu pháp môn tịnh độ, đa phần là tu “trì danh niệm
Phật”, tức là phương pháp niệm danh hiệu Phật ra tiếng hay mặc niệm.
Xướng niệm không ngừng, cho đến khi đạt tới chỗ không còn vọng niệm,
vọng tưởng, mà chỉ còn có danh hiệu Phật, nhất tâm nhớ tới danh hiệu
Phật, gọi là “sự nhất tâm”. Phần đông những người trì chú cũng
vậy.
Vậy mà, 25
vị Bồ-tát trong kinh Lăng Nghiêm, khi nói về pháp môn tu hành
viên thông của chính mình, không có pháp môn nào mà không phải là pháp
môn tu định. Mỗi một pháp môn của các ngài đều có thể giúp cho hành giả
tự mình thấy được Phật tánh, chứng được lí nhất tâm, nhập được
cảnh giới giải thoát rốt ráo “năm uẩn đều không”; cho nên gọi là “pháp
môn viên thông”. Trong 25 pháp môn của 25 vị Bồ-tát trên, thì pháp môn
thứ 24, cũng tức là “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương”,
trong đó đức Bồ-tát Đại Thế Chí trình bày về pháp môn Niệm Phật Viên
Thông, mà toàn văn của chương này, không có chỗ nào nói đến việc
“trì danh niệm Phật”. Từ đầu đến cuối đều nói đến “nhớ”, nói đến
“niệm”, mà không nói đến “trì danh hiệu Phật”, hay
“đọc danh hiệu Phật”. Ngay cả ở cuối chương cũng chỉ nói
đến cái cảnh giới “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” để
“nhập tam ma địa” mà thôi.
Vì sao
vậy? Nhớ là không tên tuổi, không hình tướng. Niệm là
không danh hiệu, không âm thanh. Nếu có danh hiệu và âm thanh thì trở
thành đọc Phật hiệu, hay xướng Phật hiệu. Bởi vậy mà toàn văn của chương
“Niệm Phật Viên Thông” đã không nói đến “trì danh niệm Phật”, mà
chỉ nói “nhớ Phật, niệm Phật”.
Ví dụ như
khi niệm Phật, miệng xướng tụng Phật hiệu thì thiệt căn (lưỡi) phải
chuyển động. Lại nhân xướng tụng Phật hiệu mà ngực và bụng phải điều
khiển hơi thở ra vào, đó là thân căn chuyển động; và tị căn (mũi) cũng
chịu tác động dây chuyền. Lại nữa, miệng tụng đọc thì tâm ngưng đọng để
lắng nghe, và như thế tức là nhĩ căn (tai) chuyển động. Các căn đã động
thì ý căn không thể không động. Như thế thì không thể bảo là “thu
nhiếp sáu căn”, lại cũng không thể nói được là “tịnh niệm tiếp
nối”. Nếu mặc niệm Phật hiệu ở trong tâm, đồng thời nhớ nghĩ đến
Phật, thì năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi và thân tuy không động, nhưng ý
căn thì còn động. Ngay trong khi Phật hiệu ở trong tâm được xướng niệm
liên tục, thì sự thật, đó là lúc cái vọng niệm đơn giản được lặp đi lặp
lại ở trong tâm. Nếu đọc “A Di Đà Phật”, thì một câu Phật hiệu ấy
có bốn niệm, bốn âm thanh. Đã có bốn niệm và bốn âm thanh được lặp đi
lặp lại không ngừng ở trong tâm, thì biết rằng, ý căn vẫn chưa được thu
nhiếp vào chỗ bất động. Ý căn đã chưa được thu nhiếp vào một niệm mà bảo
trì không dứt, thì không thể bảo là “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối”.
Điều được
gọi là “tịnh niệm tiếp nối”, là chỉ cho mỗi niệm ở trong tâm đều
là niệm thanh tịnh; nếu suy nghĩ về chuyện thế tục thì không phải là
tịnh niệm. Dù cho suy nghĩ đến việc thiện, pháp thiện, thậm chí suy nghĩ
về Phật pháp, đều không thể gọi là tịnh niệm. Từ những tri kiến của tu
định mà nói, phàm tất cả ngôn ngữ, văn tự, hình tướng, đều là vọng niệm,
không gọi là tịnh niệm. Phải xa lìa tất cả ngôn ngữ, văn tự, hình tướng
để nhớ Phật, niệm Phật, thì cái niệm đó mới gọi được là tịnh niệm. Cái
tịnh niệm nhớ Phật niệm Phật như thế đó, cứ được nối tiếp không gián
đoạn, gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Nếu cái tịnh niệm ấy có
lúc bị gián đoạn, rồi lại được tiếp tục, cũng không thể gọi là “tịnh
niệm tiếp nối”, mà chỉ được gọi là “tịnh niệm đứt nối”.
Cho dù chỉ bị gián đoạn trong một giây, hoặc nửa giây, cũng chỉ có thể
gọi là “tịnh niệm đứt nối” mà thôi. Muốn được nhập vào tam ma địa
(định), không những cần phải thu nhiếp sáu căn, mà còn phải có được tịnh
niệm tiếp nối, mới thành công. Cho nên, thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối, chính thực là lìa tướng, là “vô tướng” vậy.
Ở đây lại
xin dẫn một câu khác ở trong kinh Đại Bảo Tích để được sáng tỏ
thêm: “Vô tướng nghĩa là không có thân và hành động của thân, không
có tên gọi, không có câu nói, cũng không hiện bày.” Phàm tu tập pháp
môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, xin hãy đem cái
tri kiến này mà thâm nhập, lãnh hội toàn diện pháp môn.
Cứ y nơi
mặt chữ mà giải thích, “vô tướng” nghĩa là không có sắc thân, lại
không có nhân nơi sắc thân mà có tất cả những bày hiện của tư duy, phép
tắc, không có ngôn ngữ, văn tự, danh cú, không có các biểu thị của ý tứ
để cho người ta có thể thấy biết.
Nói rõ
hơn, chúng ta đang ở trong thế gian vật chất này, có nhiều loài khác
nhau, như người, các loài bàng sinh, tất cả sinh mạng vô tình và sinh
mạng ở giữa hai loại chúng sinh hữu tình và chúng sinh vô tình (tạm thời
không bàn tới bốn loài trời, a-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ); rồi giữa loài
người với nhau thì tướng mạo bề ngoài mỗi mỗi đều khác nhau; rồi các
loài chúng sinh hữu tình cùng chúng sinh vô tình, giữa các đồng loại của
chúng, tướng mạo hình thù đều khác nhau; tất cả đều do nguyên nhân là có
sắc thân vậy. Nếu không có sắc thân thì không có hình tướng biểu hiện;
đã không có hình tướng biểu hiện thì tức là “vô tướng”.
Ở trong
thế gian vật chất này, tất cả những bày hiện của biểu tướng, hành vi,
phù hiệu, tư duy, phép tắc, đều do nơi sắc thân mà có. Nếu không có sắc
thân tồn tại trong thế gian vật chất này, thì tất cả mọi biểu tướng đều
không tồn tại; đã không có sắc thân cùng biểu tướng, thì mọi hành vi,
phù hiệu, ngôn ngữ, tư duy, phép tắc, đều không tồn tại ở thế gian. Các
cõi trời Dục giới (xin xem chú thích số 6 của tác giả ở cuối
sách) – tức phần nhiều ngoại giáo gọi
là thiên đường, thiên quốc v.v..., cũng vậy.
Trong thế
gian vật chất này, tất cả ngôn ngữ, bao quát cả các thứ âm thanh, tín
hiệu của các loài bàng sinh, đều nhân có sắc thân tồn tại mà hiện bày,
để tiện cho đồng loại hoặc các loài khác biểu thị ý tứ và thông hiểu
nhau. Nhân có văn cú mà liền có tư duy; nhân có tư duy mà có phép tắc;
phát triển mãi cho đến về sau bèn có văn học, thần học, khoa học, nghệ
thuật, hình nhi thượng học[44],
v.v... tất cả các ngành học vấn ở thế gian hiện bày. Nhân vì có sắc thân
mà có luyến ái, có tranh chấp; từ đó, ở thế gian, vì phải giải quyết
những tranh chấp do tham ái phát sinh, mà chế định các phép tắc; những
phép tắc này cứ diễn tiến mãi, dần dần trở thành pháp luật.
Bởi vậy,
tất cả các pháp tướng ở thế gian như ngôn ngữ, văn cú, danh tướng, tư
duy, phép tắc v.v..., sở dĩ được sinh thành, tồn tại, biến hóa, đều do
cái nhân trồng nơi sắc thân mà hiện bày ra. Tất cả những ngôn ngữ, văn
cú, danh tướng, tư duy, phép tắc ấy sở dĩ tồn tại là vì một mục đích:
biểu thị ý tứ. Mà sự biểu thị của ý tứ được tồn tại là nhân vì có
sắc thân vậy. Thế gian vật chất là như thế, sáu cõi trời Dục giới cũng
là như thế. Chư Phật phần nhiều ở tại nhân gian mà thành Phật, lí do là
như vậy. Nếu không thành Phật ở tại nhân gian, mà thành Phật ở các cõi
trời Dục giới, thì chỉ có thể hóa độ cho chúng sinh ở các cõi trời Dục
giới (gồm chư vị thiên chúa, thiên thần và thiên chúng) mà thôi. Không
hiển thị ở nhân gian thì rất khó hóa độ cho chúng sinh ở nhân gian. Hơn
nữa, chúng sinh ở các cõi trời Dục giới tham đắm nặng nề thú vui ngũ
dục, hóa độ rất khó; nếu thành Phật ở nhân gian thì hóa độ cho chúng
sinh ở nhân gian dễ dàng hơn, vì chúng sinh ở đây được trực tiếp thấy
nghe cung kính, mà chư thiên ở các cõi trời Dục giới và Sắc giới, nếu có
duyên lành, cũng được hóa độ ngay tại nhân gian. Bởi vậy, chư Phật đều
thành Phật ngay tại nhân gian, vì nhân gian có sắc thân và các biểu hiện
của sắc thân như ngôn ngữ, văn cú, danh tướng, tư duy, phép tắc.
Do sự giải
thích sơ lược đoạn kinh văn ở trên mà biết được rằng: Nếu xa lìa sắc
thân cùng những hiện bày của sắc thân, ngôn ngữ, văn cú, và những biểu
thị của ý tứ, thì tức là “vô tướng”. Mà pháp môn Niệm Phật
Viên Thông này, cái cảnh giới được gọi là “nhớ Phật niệm Phật,
thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, không có sắc thân, ngôn ngữ,
văn cú, phù hiệu, cùng những biểu hiện của sắc thân v.v..., cũng không
có pháp gì thị hiện để cho người khác thấy biết. Trừ phi người niệm Phật
vô tướng ấy mượn sắc thân và ngôn ngữ, văn cú, cùng những biểu hiện của
sắc thân như tư duy và phép tắc, để chỉ bày cho người khác cái cảnh giới
cùng phương pháp của cách niệm Phật này, nếu không thì người khác không
biết nhờ đâu mà được hiểu biết. Mà cảnh giới của loại niệm Phật vô tướng
ấy mới chính là cảnh giới chân thực của pháp môn Niệm Phật Viên Thông
của đức Bồ-tát Đại Thế Chí.
II. MỘT
CHÚT THANH MINH và MỘT VÀI KHÍCH LỆ
Để tu tập
thành công pháp môn này, hành giả phải cần thời gian dài hay ngắn? Muốn
biết chắc điều đó, hãy nên xét kĩ xem, đối với nội dung sách này, hành
giả hiểu được sâu hay cạn, và có y như cách thức mà tu tập hay không.
Nếu hiểu rõ hoàn toàn những lời nói trong sách này, và y theo đó mà tu
tập, đối với người bình thường mà nói, ước chừng từ hai đến sáu tháng
thì có thể lãnh hội được pháp môn Niệm Phật Vô Tướng; nếu là hạng
người lợi căn, hoặc đã có sẵn công phu trong động, thì một khi nghe qua
liền lãnh hội.
Theo kinh
nghiệm của kẻ hậu học này, bắt đầu từ ngày 3.9.1991, tại hai đạo tràng
khác nhau – một là đạo tràng tu thiền nọ của Kim Dung Cơ Cấu Phật Học Xã
tại Đài-bắc; một là thiền đường do ông bà Trần cư sĩ xây dựng ở
Thạch-bài – tôi đã giảng thuật cho 30 đạo hữu cùng tu, kết quả, trong
vòng 6 tuần lễ, có 2 vị tu tập thành công. Sau đó cũng lần lượt có vị tu
tập thành công. So ra thì các đạo hữu ở Thạch-bài thành công nhiều hơn,
nguyên do là vì quí vị ở đó tu hành như thật. Quí vị ấy tuy học Phật
muộn màn, thể hội chậm chạp, nhưng lòng tin tràn đầy, tu trì với tâm
trong trắng, và sau 3 tháng thì tu tập thành công. Về sau lại có một vài
đạo hữu, nhân nghe băng ghi âm giảng giải về pháp môn Niệm Phật Viên
Thông, đồng thời đọc bài văn “Đàm Vô Tướng Bái Phật dữ Vô Tướng Niệm
Phật” (Bàn về pháp môn lạy Phật vô tướng và niệm Phật vô tướng), rồi
siêng năng hành trì, và cũng trong 3 tháng thì tu tập thành công. Trong
vòng 4 tháng cuối năm (1991), có cả thảy 9 vị tu tập thành công. Hỏi
những vị từng đến nghe giảng pháp môn này nhưng chưa tu tập thuần thục,
thì biết rằng, nhân vì phần đông quí vị này vốn không thích pháp môn
phương tiện của buổi ban đầu là lạy Phật và trì danh niệm Phật,
mà bây giờ thì cũng chưa tu tập một cách đúng mức, cho nên chưa có thể
thành thục.
Mùa hè năm
1989, tại một tự viện nọ, kẻ hậu học này từng tặng cho một số vị cư sĩ
tu thiền bài đoản văn “Đàm Vô Tướng Bái Phật dữ Vô Tướng Niệm Phật”.
Một trong các vị đó, vì không thích lạy Phật, đã đem bỏ bài đoản văn ấy
nơi một góc nào đó trong chùa. Có một người thiện căn sâu dầy, khi nhận
tờ nguyệt san do chùa đó phát hành, thấy trong tờ nguyệt san ấy có cặp
theo bài đoản văn kia, bèn đọc. Đọc xong thì vô cùng vui mừng, liền y
theo bài văn mà tu trì, chẳng bao lâu đã thành thục; tự mình có khả năng
tham thoại đầu, thường trú trong câu nghi vấn thiền. Đó là người đầu
tiên chỉ y cứ vào một bài đoản văn mà tu tập thành công pháp môn Niệm
Phật Vô Tướng.
Đến như
người bình thường niệm Phật, chỉ xin cần hết sức kiên nhẫn, đọc quyển
sách này thật kĩ càng. Chớ nên vì cái cảnh giới niệm Phật vô tướng vừa
thuật ở trước khó tưởng tượng, mà cho rằng rất khó tu trì, rồi sinh nản
lòng. Nên biết rằng, những người tu tập thành công pháp môn Niệm Phật Vô
Tướng đã được nói tới ở trước, đa số là những người niệm Phật. Do đó có
thể thấy, người niệm Phật có nhân duyên rất sâu với pháp môn Niệm Phật
Viên Thông của đức Bồ-tát Đại Thế Chí. Nếu hành giả đã có công phu trì
danh niệm Phật, lại gặp đúng lúc được tu pháp môn này, càng dễ thành tựu
hơn so với những người chưa từng niệm Phật. Một lúc nào đó tu tập thành
công, lại tiếp tục duy trì hộ niệm, thì đến giờ phút lâm chung, muốn
sinh về thế giới Cực-lạc, đó là điều cầm chắc trong tay.
Viết đến
đây, gặp ngày 5.2.1992 (tức ngày Mồng 2 tháng Giêng âm lịch), trong số
30 đạo hữu cùng tu, đã có 12 vị thành tựu công phu niệm Phật vô tướng; 6
vị trong số đó đã tiến vào giai đoạn “tham thoại đầu” (có 4 vị
thường khởi nghi tình[45]).
Trong 6 vị tham thiền này thì chỉ có một vị nguyên gốc học thiền, còn 5
vị kia đều là người trì danh niệm Phật.
Có 6 vị
khác chưa đến giai đoạn tham thiền, vẫn còn tiếp tục tu niệm Phật vô
tướng, mà nguyên gốc đều là những người trì danh niệm Phật. Có vị muốn
trọn đời tu niệm Phật vô tướng; sau khi thâm nhập pháp môn Niệm Phật
Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, lúc xả bỏ báo thân sẽ cầu sinh về
tịnh độ Cực-lạc. Có vị muốn tiếp tục dùng phương pháp lạy Phật và niệm
Phật vô tướng để tăng cường cho công phu trong động, rồi sau đó mới tham
thiền. Có vị lại chọn phương pháp tham cứu niệm Phật. Hầu hết 6 vị ấy sẽ
có lúc phát khởi nghi tình, trở thành tham cứu niệm Phật, rồi nhân đó mà
có lúc sẽ tiến đến giai đoạn thiền quán. Do đó có thể thấy, pháp môn
niệm Phật vô tướng là loại công phu trong động mà người tham thiền
và người niệm Phật đều cực lực thọ dụng; chư vị hành giả nên có cái nhìn
chính đáng đối với nó. Còn các vị khác tu tập chưa thành công, về sau
cũng nhân xây dựng được lòng tin mà bắt đầu luyện tập, trước mắt lần
lượt đã thấy có tiến bộ.
Bởi vậy
cho nên, bất luận là người tu thiền, hay tu tịnh độ niệm Phật, nếu chịu
khó đọc kĩ quyển sách này, thể hội tri kiến và phương pháp tu trì, tinh
tấn và bền chí luyện tập mỗi ngày, thì có thể trong vòng từ 2 đến 6
tháng là đạt được kết quả. Nếu như một ngày đánh cá, ba ngày phơi lưới,
thì có muốn thu hoạch cũng không có gì để thu hoạch.
III. TINH
NGHĨA của PHÁP MÔN NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
(BÀN TIẾP về TRI KIẾN – 1)
Vì sao
pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí lại là pháp môn
niệm Phật vô tướng?
Kẻ hậu học
này, sau khi đã bàn về “tri kiến”, sẽ lại trình bày như thế nào là các
loại phương tiện thiện xảo dùng để tu tập pháp môn Niệm Phật Viên Thông
của Bồ-tát Đại Thế Chí, nhằm giúp hành giả y như phương pháp để thể nhập
vào cảnh giới mà pháp môn này nói tới. Nhưng trước hết, xin quí vị hành
giả hãy bền chí, hiểu rõ tường tận về “tri kiến”, để khỏi dụng công lầm
lẫn mà uổng phí tinh thần và khí lực.
Phàm những
người tu pháp môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí, đều nên
đem cái niệm “tưởng niệm” mà niệm Phật, chứ không phải là miệng
niệm ra lời. Trong pháp hội Lăng- nghiêm, đức Bồ-tát Đại Thế Chí đã vâng
mệnh đức Thế Tôn, trình bày pháp môn tu tập viên thông của ngài như sau:
“Tôi
nhớ hằng hà sa kiếp xưa, có đức Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang. Mười
hai đức Phật nối tiếp nhau ra đời trong một kiếp[46], mà đức Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy đã dạy
tôi pháp ‘niệm Phật tam muội’. Ví như có một người chỉ chuyên nhớ, còn
một người chỉ chuyên quên, thì hai người này tuy gặp nhau mà không phải
gặp nhau, tuy thấy nhau mà không phải thấy nhau. Nếu hai người nhớ nhau,
sự nhớ nghĩ đến nhau ấy giữa hai người ngày càng sâu sắc, cứ như thế từ
đời này sang đời khác, khắng khít như hình với bóng, không ngang trái
nhau. Chư Phật mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nhưng
nếu con cứ trốn tránh thì mẹ tuy thương nhớ mà có làm được gì! Nếu con
nhớ mẹ cũng giống như mẹ nhớ con, thì mẹ con suốt đời không xa cách
nhau. Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật tưởng Phật, thì đời này và đời sau
nhất định được thấy Phật, không cách xa Phật; không cần phải nhờ phương
tiện mà tâm tự sáng. Như người ướp hương thì thân tự có mùi thơm, như
thế gọi là ‘hương quang trang nghiêm’[47]. Từ khi tu hành, tôi dùng tâm niệm Phật mà nhập vào pháp ‘vô sinh nhẫn’;
nay ở thế giới này để nhiếp hóa những người niệm Phật, tiếp dẫn họ sinh
về Tịnh-độ. Phật hỏi về ‘viên thông’, tôi không chọn lựa[48]; thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định, đó là
bậc nhất.”
Do đoạn
kinh văn trên mà có thể biết, đức Bồ-tát Đại Thế Chí, từ vô số kiếp về
trước, nhân được đức Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho pháp môn
niệm Phật tam muội, ngài bèn y theo chỉ một pháp môn ấy mà tu trì
cho đến ngày nay. Bây giờ ngài đang thọ thân Bồ-tát sau cùng, rồi sẽ
thành Phật, mà ngài vẫn dùng pháp môn ấy để vừa tự tu, vừa hóa độ, tiếp
dẫn chúng sinh về cõi Tịnh-độ. Đoạn kinh văn của chương “Niệm Phật
Viên Thông” tuy không dài, nhưng từ đầu cho đến cuối đều chỉ nói
“ức” và “niệm”[49],
mà không hề nói tới “chấp trì danh hiệu”; cho nên không phải là phép
“trì danh niệm Phật”. Đó là điểm thứ nhất.
Đức Phật
nói Kinh Lăng Nghiêm, mục đích là dạy người tu Lăng-nghiêm đại
định mà chứng ngộ “năm uẩn đều không”, được giải thoát rốt ráo; cho nên
trước tiên Ngài dạy cho có tri kiến rõ ràng rốt ráo đối với tâm tánh,
bảy lượt tìm tâm mà không tìm thấy. Thứ đến Ngài bảo 25 vị Bồ-tát tự
trình bày sự tu trì của mình về pháp môn viên thông Lăng-nghiêm đại
định; rồi Ngài lại bảo Bồ-tát Văn Thù bình luận. Sau cùng Ngài lại
thuyết minh về phạm vi năm uẩn và cảnh giới chứng không. Nếu là trì danh
niệm Phật, thì chỉ bằng vào sức tín nguyện hạnh[50]
nhất tâm bất loạn của người tu hành, là có thể vãng sinh Tịnh-độ, đâu
cần phải khởi đầu từ chỗ cứu xét rõ ràng tâm tánh, rồi phải phiền phức
đề cập tới phạm vi của năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức và cảnh giới
chứng không! Vậy mà đức Thế Tôn không những đã thuyết minh một cách ân
cần, mà còn cẩn thận dặn dò các vị Bồ-tát làm thế nào để nhận rõ các
cảnh giới ma. Do đó có thể thấy, đây là pháp môn Tịnh Độ do Định
mà nhập vào, chứ không phải là pháp môn Tịnh Độ trì danh. Đó
là điểm thứ hai.
Trong đoạn
kinh văn trên lại có nói: “Tôi dùng tâm niệm Phật mà nhập pháp vô
sinh nhẫn.” Câu nói này cho thấy, trực tiếp dùng tâm niệm Phật để
chế ngự tâm ở yên một chỗ, cho đến khi thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối, nhân đó mà vào sâu trong Lăng-nghiêm đại định, chứng nhập cảnh
giới vô sinh pháp nhẫn. Như thế này thì cách trì danh niệm Phật không
thể nào đạt tới được, – trừ phi người trì danh niệm Phật biết chuyển vào
pháp môn niệm Phật vô tướng này. Đó là điểm thứ ba.
Vậy xin
phân tích thuyết minh như sau:
1. Đức
Bồ-tát Đại Thế Chí nói: “...... Chư Phật mười phương thương nhớ chúng
sinh như mẹ nhớ con, nhưng nếu con cứ trốn tránh thì mẹ tuy thương nhớ
mà có làm được gì! Nếu con nhớ mẹ cũng giống như mẹ nhớ con, thì mẹ con
suốt đời không xa cách nhau. Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật tưởng Phật, thì
đời này và đời sau nhất định được thấy Phật, không cách xa Phật.....”[51]
Đoạn kinh văn này hoàn toàn chỉ dùng chữ “nhớ” (ức),
lại còn đem sự việc mẹ con nhớ tưởng nhau để thuyết minh. Nếu vị hành
giả nào từng rời khỏi nhà từ thuở nhỏ, sống xa mẹ trong mười mấy năm,
luôn luôn nhớ tưởng mẹ hiền, thì cũng từng biết rằng, trong lúc nhớ thì
không có tên họ, cũng không phải từ sáng đến tối trong tâm lúc nào cũng
gọi mẹ mẹ, mà chỉ là giờ giờ phút phút nhớ nghĩ tới mẹ hiền, chỉ có một
niềm áy náy không yên. Nếu có vị hành giả nào từng là cha mẹ, có con đi
du học hoặc di trú nước ngoài, trong lúc nhớ con cũng vậy, chỉ là luôn
luôn một niệm nhớ nhung, mà trong tâm không hề xướng niệm tên con. Nếu
là trai gái ở tuổi thanh niên, cái tuổi được gọi là “người thục nữ
yểu điệu, sánh đôi tốt đẹp với người quân tử”[52],
đang say đắm trong tình yêu tha thiết, một ngày không thấy nhau ví bằng
xa cách ba năm; dù cho ngày đêm cô cậu nhớ nghĩ đến nhau không phút nào
quên, nhưng trong tâm người này cũng không hề xướng niệm tên của người
kia, mà chỉ là không ngừng nhớ tưởng nhau mà thôi. Cho tới lúc nhớ tưởng
đến độ nhập thần, hoàn toàn quên mất mình, quên cả âm thanh cùng thế
giới bên ngoài; thì cái cách nhớ tưởng như thế đó, chính là cái tinh
nghĩa chủ yếu của chương “Niệm Phật Viên Thông”.
Ngay khi
chúng ta nhớ nghĩ một đức Phật hay một vị Bồ-tát, trong tâm không có
hình tượng, âm thanh, danh hiệu; nhớ một đức Phật, tưởng một đức Phật,
mà không có một niệm nào khác, đó là thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối. Đơn giản mà lại thanh tịnh như thế, sao lại không tu? Trái lại cứ
phải lặp đi lặp lại, phiền phức lôi thôi rằng, phải cần chấp trì danh
hiệu mới có thể nhớ Phật, niệm Phật! Bởi vậy, trong chương “Niệm Phật
Viên Thông”, từ đầu tới cuối đã không nói tới việc chấp trì danh
hiệu Phật, mà cứ nói đi nói lại hai chữ nhớ và niệm. Nếu là pháp môn trì
danh, thì như kinh Phật Thuyết A Di Đà chẳng hạn, xương minh việc
chấp trì danh hiệu, trong bao nhiêu ngày được nhất tâm bất loạn liền
được vãng sinh; hoặc trong giờ phút lâm chung, chấp trì danh hiệu đến
bao nhiêu niệm nhất tâm bất loạn thì được vãng sinh Tịnh-độ. Bởi vậy cho
nên, hai chữ “ức niệm” chính là mục đích căn bản của
chương “Niệm Phật Viên Thông”. Nếu có vị thiện tri thức dùng pháp
môn trì danh niệm Phật để thuyết minh cho pháp môn niệm Phật viên thông,
tức là vị ấy đã dùng phương tiện quyền xảo để tiếp dẫn chúng sinh; rồi
sau đó sẽ cân nhắc lúc nhân duyên phù hợp mà nói tiếp về phương pháp
niệm Phật vô tướng, dẫn dắt chúng sinh tiến vào mục đích căn bản của
chương “Niệm Phật Viên Thông”. Nếu người đã có cơ sở vững chắc về
trì danh niệm Phật, nay phát tâm tu tập pháp môn này, thì có thể điều
phục sáu căn một cách mau chóng, pháp hỉ tràn đầy, trở thành một người
vô cùng an vui trong pháp môn niệm Phật vô tướng.
2. Kinh
Lăng Nghiêm đã dành một phần rất lớn để thuật lại việc đức Thế
Tôn vì tôn giả A Nan và đại chúng mà xét rõ tâm tánh, được gọi là “tìm
tâm ở bảy chỗ mà tìm không thấy”. Sau khi giảng cho chúng đệ tử hiểu rõ
“tự tánh vốn không”, đức Thế Tôn lại bảo 25 vị Vô-học[53]
và Bồ-tát, mỗi vị tự trình bày sự tu tập của mình về pháp môn viên thông
Lăng-nghiêm đại định. Ngài cũng bảo Bồ-tát trí tuệ đệ nhất, thầy của bảy
đức Phật[54],
là Văn Thù Sư Lợi, bình luận xem, trong 25 pháp môn[55]
đó, pháp môn nào thích hợp nhất cho chúng sinh ở thế giới này tu tập.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nhận định rằng, pháp môn thích hợp nhất cho chúng
sinh ở thế giới này là pháp môn “Nhĩ căn viên thông” của Bồ-tát
Quán Thế Âm. Sau lời bình luận của Bồ-tát Văn Thù, đức Phật nói tiếp bốn
lời dạy bảo rõ ràng thanh tịnh, rồi lại nói kĩ về quá trình tu tập định
lực này, trong đó, phải biết rõ tường tận như thế nào là phạm vi của sắc
uẩn, như thế nào là chứng nhập tính không của sắc uẩn; cho đến như thế
nào là phạm vi của thọ, tưởng, hành, thức, và như thế nào là chứng nhập
tính không của thọ, tưởng, hành, thức. Tiếp đến đức Phật dạy về cách
nhận rõ các ma sự. Nếu nội dung kinh Lăng Nghiêm chỉ là nói pháp
môn trì danh để vãng sinh về tịnh độ của chư Phật, thì đức Thế Tôn chỉ
cần trình bày sự thù thắng của tịnh độ ấy cùng cách phát nguyện trì danh
đến chỗ nhất tâm bất loạn để cầu vãng sinh về cõi ấy, thế là đủ, chứ đâu
cần phải khổ lao tâm huyết, dạy bảo kĩ càng, dùng biết bao nhiêu thì giờ
để nói biết bao nhiêu tri kiến! Như thế có thể biết, 25 pháp môn nói đến
trong kinh Lăng nghiêm, đều là những pháp môn tu Lăng-nghiêm đại
định; mà Niệm Phật Viên Thông chính là pháp môn tu định phát
thiền chỉ đứng hàng thứ nhì sau pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông. Cho nên,
Niệm Phật Viên Thông là trực tiếp lấy phương pháp tu Định để tu pháp môn
Tịnh Độ một cách rốt ráo, duy tâm.
Xã hội
trước cuộc cách mạng sản nghiệp là xã hội nông nghiệp, mặt trời mọc thì
làm, mặt trời lặn thì nghỉ, thời gian rảnh rang ngoài các việc đồng áng
thì có nhiều, mà nhân khẩu lại ít. Ra khỏi thành ba dặm là bặt tiếng các
loài gia súc, âm thanh huyên náo của chợ búa cũng không còn nghe được.
Bên mé nước, dưới bóng cây, khó bị quấy rầy. Lúc đó, việc tu tập pháp
môn nhĩ căn viên thông quả là vô cùng thuận lợi. Còn như ngày nay, hình
thái xã hội đã thay đổi quá nhiều, ngày ngày mặt trời chưa kịp mọc liền
đã ra khỏi nhà, làm việc vội vàng bận rộn suốt một ngày dài, mặt trời
lặn đã lâu mà vẫn chưa về nhà. Bây giờ thì đừng nói là ra khỏi thành ba
dặm đã bặt tiếng các loài gia súc, mà ngay như lánh ẩn nơi núi thẩm rừng
sâu cũng rất khó mong không bị quấy nhiễu! Nếu muốn tu tập pháp môn nhĩ
căn viên thông giống người trong xã hội trước như vừa nói, thì cả hoàn
cảnh và thời gian đều không còn thích hợp nữa.
Nếu cứu
xét sâu sắc hơn, hai pháp môn này kì thật không có cao thấp, mà rốt cuộc
đều là một. Trái lại, theo cái nhìn của kẻ hậu học này, thấy rằng, so
với pháp môn nhĩ căn viên thông, pháp môn niệm Phật viên thông có phần
trực tiếp hơn; nhất là đối với con người thời hiện đại không còn cơ hội
được nghe tiếng nước chảy róc rách, tiếng gió khua động lá rừng trong
khung cảnh thiên nhiên.
Pháp môn
nhĩ căn viên thông là dùng tai lắng nghe âm thanh để hạ thủ tu tập.
Trước tiên là ở trong tư thế tĩnh tọa mà lắng nghe cho kĩ, nhiếp tâm an
trú mà không duyên theo một cảnh nào khác; sau đó là nghe đến đâu thì di
chuyển theo đến đó, không lưu lại điều gì trong tai cả. Tiếp theo đó,
tâm và cảnh đều vắng lặng, từ “nhập lưu” đến “vong sở”[56],
cũng tức là nói rằng: tiếng từ đâu tới, cùng ta đã không can hệ gì nhau;
tiếng là tiếng, ta là ta, an trú nơi cảnh giới tự tâm, bấy giờ đã do từ
nhĩ căn mà qui về ý căn vậy. Mục đích của sự lắng nghe âm thanh chỉ là
dùng nó như một phương pháp trừ khử trạng thái tán loạn; hay nói cách
khác, tất cả các phương pháp tu hành (chỉ cho môn học tu định và các môn
học trong Phật pháp) đều cần qui kết về ý căn mà hạ thủ tu tập. Pháp môn
nhĩ căn rất thích hợp cho con người ở xã hội nông nghiệp trước kia tu
trì. Thời đại ngày nay không giống như thế. Chúng ta đang sống trong cái
hoàn cảnh hỗn tạp, chen lấn, ồn ào, khó có thể nghe được tiếng nước róc
rách, tiếng gió xào xạc. Đến ngày nghỉ cuối tuần mới được rảnh rang,
lòng vui mừng hớn hở, ra chơi nơi bờ hồ hay công viên, không ngờ đâu
cũng đầy người! Người lớn kêu réo, trẻ con la hét, không chỗ nào có thể
ngồi nghỉ yên tâm. Đường sá đầy xe, chen lấn vô trật tự, vất vả lắm mới
về được đến nhà; thì lại phải nghe nào tiếng chuông điện gọi cửa, tiếng
điện thoại reo, tiếng chó sủa bên nhà hàng xóm, tiếng loa rao hàng của
người bán hàng rong, tiếng còi xe hơi, tiếng đầu máy xe lửa xình xịch
chạy qua; rồi tiếng còi xe cứu hỏa, xe cứu thương đau nhói tim người,
tiếng còi báo động inh tai nhức óc...... Hôm nay thì ông A tới thăm;
ngày mai lại phải đi thăm ông B. Mới vừa ngồi xuống trên chiếc bồ đoàn
thì chuông điện thoại lại reo! Trong cái không khí sinh hoạt đầy khẩn
trương, bận rộn của khắp cả mọi người, nếu mỗi ngày có thể có được một
khoảng thời gian chừng một giờ đồng hồ để tĩnh tọa, thế là quí quá rồi,
đâu dám mong có bốn, năm giờ, cho đến tám, chín giờ! Nếu không có được
một khoảng thời gian dài liên tục trong một hoàn cảnh yên tĩnh, làm sao
tu tập được pháp môn nhĩ căn viên thông? Cho nên, nếu có một pháp môn
nào đó cho phép chúng ta, bất luận là trong lúc hoạt động hay trong lúc
tĩnh tọa đều có thể tu trì được, thì đó chính là cái pháp môn mà cả
người học thiền tu định lẫn người tu tịnh độ trong thời hiện đại, đều
mong mỏi khao khát. Niệm Phật Vô Tướng chính là loại pháp
môn ấy! Vả lại, Niệm Phật Vô Tướng là pháp môn trực tiếp từ ý căn
mà hạ thủ tu tập, một khi thành công thì bất luận là ở tình huống nào,
đều có thể nhớ Phật niệm Phật. Dù cho hoạt động không ngừng trong âm
thanh và hình sắc, sự tịnh niệm nhớ Phật vẫn giữ được liên tục, không bị
gián đoạn, không bị trở ngại. Đó là điều mà các thiền sư thường nói:
“Cưỡi lên âm thanh, che phủ hình sắc”. Đến bực này thì muốn tu tập
Lăng-nghiêm đại định cũng được, muốn phát nguyện cầu vãng sinh tịnh độ
của chư Phật cũng được, mà muốn tham thiền ngay trong sinh hoạt hằng
ngày cũng được; tại vì đã có đầy đủ cái công phu trong động vậy.
3. Trong
kinh văn của chương “Niệm Phật Viên Thông” ấy có nói dùng tâm nhớ
Phật niệm Phật; cuối đoạn kinh văn ấy thì nói thu nhiếp hết cả sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định. Đó không phải là “trì danh niệm
Phật”; như câu: “Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tại
và tương lai nhất định thấy Phật, thân cận bên Phật.” Hoặc như câu:
“Tôi trong thời kì tu nhân, đã dùng tâm niệm Phật mà chứng vô sinh
nhẫn.” Những câu ấy đều nói đến việc trực tiếp dùng tâm niệm để bắt
đầu tu tập: Câu trên thì nói dùng tâm mà nhớ Phật niệm Phật, không phải
xưng tụng danh hiệu; câu dưới thì đức Bồ-tát Đại Thế Chí nói chính mình
đã do dùng tâm niệm Phật mà chứng nhập vô sinh pháp nhẫn.
Nếu người
tu mà danh hiệu Phật cứ liên tục ở trong tâm, muốn nhập vào chánh định,
tương đối có khó khăn; tại vì, mỗi một câu Phật hiệu là do rất nhiều
vọng niệm hoặc âm thanh kết thành. Trong tâm mà cứ đeo dính danh hiệu
Phật không rời thì không thể nhập định. Nếu người ấy ít phiền não, lại
có tri kiến chân chính, sẽ hiểu được rằng, ở phút chót, khi vọng tưởng
không còn sinh khởi nữa, thì Phật hiệu cũng không còn xuất hiện trong
tâm, chỉ an trú trong một niệm nhớ Phật, tâm không chấp trước vào Phật,
bèn dần dần có thể vào định. Nhưng xét cho cùng, đó cũng chỉ là cách
gián tiếp, so ra thì đâu có bằng cách trực tiếp dùng tâm nhớ Phật niệm
Phật!
Lại như có
người ngồi chuyên tâm niệm ra tiếng danh hiệu Phật, người này cũng rất
khó vào định. Nếu người ấy ít phiền não, khi xướng niệm Phật hiệu đã đến
chỗ vọng tưởng không còn sinh khởi nữa, tâm không còn chấp trước ở Phật
hiệu; miệng cứ tiếp tục niệm Phật hiệu, không gấp không huỡn, mà tâm
không đeo dính Phật hiệu, một lòng nhớ Phật mà không chấp trước vào
Phật, thì có thể ở trong trạng thái câu Phật hiệu không dứt nơi miệng mà
cũng vào được chánh định. Tuy nhiên, ở trường hợp này, cần phải có công
phu thật mạnh mẽ, chứ muốn đến được cảnh giới ấy hoàn toàn không dễ
dàng. Dù sao cũng không bằng trực tiếp đem tâm niệm mà nhớ Phật niệm
Phật, đã nhẹ nhàng, không tổn hơi, lại dễ vào định, thành tựu nhanh
chóng.
Bởi vì
pháp môn này là trực tiếp do ý căn – lấy tâm niệm để hạ thủ tu tập,
không phải do thiệt căn và nhĩ căn mà chuyển vào ý căn, cho nên nói là
“Thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định, đó
là đệ nhất.” Và như thế thì có thể biết, pháp môn niệm Phật này là
vô tướng, là pháp môn Tịnh Độ do tu định mà chứng nhập; cũng tức là pháp
môn khử trừ hình tượng, ngôn ngữ, văn tự, danh hiệu, mà trực tiếp đem
tâm nhớ Phật để niệm Phật. Và cũng cần phải dùng cái phương cách
“tịnh niệm nối tiếp nhau không dứt để nhớ Phật” này mới có thể nói
được là “thu nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”; nếu có một ý
niệm nào khác, thậm chí một câu Phật hiệu xuất hiện, đều không thể gọi
là “tịnh niệm tiếp nối”. Do sự nhớ Phật bằng tịnh niệm tiếp nối không
gián đoạn này mà sau cùng có thể nhập vào chánh định, như người có căn
cơ thượng thượng, cho đến chứng nhập cảnh giới năm uẩn đều không, giải
thoát rốt ráo, đó là tịnh độ duy tâm, tịnh độ rốt ráo; đó chính là pháp
môn Niệm Phật Viên Thông mà đức Bồ-tát Đại Thế Chí đã nói.
Nhìn tổng
quát lại những điều vừa trình bày trên, có thể thấy, pháp môn này là
Niệm Phật Vô Tướng, là pháp môn Tịnh Độ do định mà chứng
nhập. Quí vị hành giả chớ nên vì trong quá khứ các vị thiện tri thức đã
dùng việc trì danh niệm Phật làm phương tiện hướng dẫn mà chưa nói đến
cảnh giới niệm Phật vô tướng, bèn cho rằng đa số các vị thiện tri thức
đều công nhận pháp môn niệm Phật viên thông do đức Bồ-tát Đại Thế Chí
nói đúng là trì danh niệm Phật, mà lấy đó cho là quan niệm chủ yếu, rồi
bài xích pháp môn niệm Phật vô tướng. Kẻ hậu học này tin tưởng sâu sắc
rằng, chư vị thiện tri thức khi quán sát thấy nhân duyên thành thục, tất
sẽ nói tiếp về cái lí lẽ thâm diệu của việc nhớ Phật niệm Phật, niệm
Phật vô tướng, v.v... nói chung là pháp môn Niệm Phật Viên Thông, để cho
cái công đức rộng lớn của việc hoằng dương pháp môn Niệm Phật Viên Thông
được hoàn toàn viên mãn.
IV. NGƯỜI
HỌC PHẬT NÊN XA LÌA TÂM TAM ĐỘC,
TÂM PHAN
DUYÊN và TÂM GIÁC QUÁN
(BÀN TIẾP về TRI
KIẾN – 2)
Tổ thứ tư
của Thiền tông là thiền sư Đạo Tín nói: “Trừ bỏ tâm tam độc, tâm phan
duyên[57],
tâm giác quán. Niệm Phật tâm tâm tiếp nối, bỗng nhiên lắng trong, không
còn niệm sở duyên. Kinh Đại Phẩm nói: ‘Không có cái để niệm,
đó gọi là niệm Phật.’ Thế nào gọi là không có cái để niệm? Tức là,
niệm Phật bằng tâm thì gọi là không có cái để niệm...... Vì sao vậy?
Thức không có hình, Phật không có hình, Phật không có tướng mạo.”
Trên đây là trích lời của thiền sư Đạo Tín[58],
mục đích là để hành giả khử trừ hay giảm thấp tâm chấp trước đối với sắc
thân, danh hiệu, thanh âm, và vọng niệm.
Người thế
gian phần nhiều bị ba thứ phiền não độc hại là tham ái, sân hận và vô
minh che lấp, đến nỗi không thể tự mình thấy được Phật tánh; do đó mà
tham đắm vào các dục vọng như hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc
chạm, hoặc tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ; thường là
không biết kính trên nhường dưới. Một chút gì không bằng lòng liền nổi
trận lôi đình. Khi tiền của, thế lực không đủ bằng người, liền nghĩ cách
ám hại báo thù; nếu tiền của dồi dào, thế lực mạnh mẽ thì công nhiên
cưỡng đoạt của người. Tất cả những hành động tham lam, sân hận của thân,
miệng, ý đều nhân vì vô minh mà gây nên. Do vô minh mà không thấy được
thật tướng của pháp giới chúng sinh, cho rằng vật chất là thật có mà
sinh tâm chấp trước; không thấy cái bản chất chân không diệu hữu của tự
tánh, nên mới chấp cái thân năm uẩn huyễn hữu này mà cho là “ngã”;
từ đó tạo ra các nghiệp. Người tốt thì biết làm lành để cầu sinh lên các
cõi trời; người ở bậc trung bình thì biết làm lành để cầu có được phước
báo, tiếng tốt trong đời này; người xấu ác thì làm lành giả dối, mượn
danh khi người, thậm chí dùng mánh khóe thủ đoạn để cướp đoạt của người;
nhân đó mà tâm phan duyên không dứt, mỗi niệm mỗi niệm đều chứa đầy tham
sân si.
Nếu tự
mình thấy được tự tánh, cảnh giới chứng ngộ không lùi, tất thấy cái bản
chất chân không diệu hữu của Phật tánh vốn có, cái cảm giác chân thật về
thân tâm và thế giới liền tiêu mất; không còn khởi niệm chấp trước đối
với thân tâm thế giới, thì tâm tam độc tự nhiên dứt tuyệt, không còn tạo
nghiệp xấu nữa. Kẻ phàm phu chúng ta nên suy nghĩ thân tâm là vô thường,
thế giới là vô thường, tất cả mọi vật đều do nhân duyên giả hợp, chỉ có
tạm thời, cuối cùng cũng tiêu hoại. Nếu trong sinh hoạt hằng ngày, gặp
việc gì cũng suy nghĩ về sự vô thường, trong lúc tĩnh tọa lại càng suy
nghĩ sâu xa về tính chất vô thường của thân tâm và thế giới, thì tâm
chấp trước của chúng ta đối với thế giới, thân tâm, quyến thuộc, của
cải, danh lợi v.v..., sẽ giảm nhẹ đi nhiều lắm, cái tác dụng của tâm tam
độc cũng yếu dần, và lúc đó thì cái tâm phan duyên cũng hạ xuống thật
thấp, rất dễ dàng an trú trong chánh niệm để niệm Phật.
Ở trong
thế giới đầy năm trược này, nếu có người tu định, tham thiền, tu tịnh
độ, cho đến nhiều pháp môn khác, để cầu ra khỏi ba cõi, giải thoát sinh
tử, cũng như hồi hướng đến việc cứu độ chúng sinh ra khỏi ba cõi, giải
thoát sinh tử, thật khó có gì đáng quí hơn! Nhưng người tu thì nhiều mà
người thành công thì ít; bởi vì phần nhiều người ta thiếu chánh tri
chánh kiến và mong cầu cảm ứng, mà giác quán thì không dứt. Chính cái
tâm giác quán này đã làm chướng ngại cho người niệm Phật hoặc tu thiền
tập định, khiến cho họ khó đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn.
Sau đây
xin lược bàn về tâm giác quán, từ cạn đến sâu, giúp cho hành giả xây
dựng được tri kiến chính xác, trong quá trình tu học tự biết chọn lựa,
quyết định. Xin quí vị hành giả xem kĩ và suy nghĩ.
Người niệm
Phật nhân mong cầu cảm ứng, luôn luôn quán sát trong lúc niệm Phật có
trạng thái khác lạ hay không, tâm khởi giác quán. Nếu thấy ánh sáng,
nghe âm thanh, ngửi mùi hương, thân tâm khinh an, bèn khởi tâm phan
duyên, bồng bềnh không định tĩnh. Muốn được nhất tâm bất loạn thật là
khó khăn. Họa hoằn có người trì niệm danh hiệu Phật mà đạt đến chỗ không
còn khởi vọng tưởng, người ấy lúc bấy giờ trong tâm chỉ muốn định, chứ
không muốn niệm danh hiệu Phật; nhưng vì không nghe được những lời chỉ
dạy về định, tri kiến không đầy đủ, trong tâm dùng dằng, không biết nên
trì niệm Phật hiệu hay bỏ đi, rồi sinh phiền não, đến nỗi không được
nhất tâm bất loạn. Nếu có đầy đủ tri kiến, thiện căn, thì lúc bấy giờ
người ấy sẽ biết buông bỏ Phật hiệu mà an trú trong cảnh giới niệm Phật
vô tướng. Nếu được Phật cảm ứng, phóng ánh sáng, nghe mùi hương, thân
tâm khinh an, mà không lấy đó làm mừng, tâm không khởi động, luyện tập
lâu dài, ngày ngày tiếp nối không gián đoạn; thậm chí trong sinh hoạt
hằng ngày, lúc động cũng như lúc tĩnh đều có thể niệm Phật vô tướng,
được thấy một niệm ban sơ[59],
cho đến dần dần đạt được chánh định niệm Phật, thì có niềm vui nào sánh
bằng! Được như vậy là đều do đã xa lìa được tâm giác quán thô thiển.
Qua những
điều vừa trình bày trên thì biết rằng, tâm tam độc, tâm phan duyên và
tâm giác quán, đối với người niệm Phật rất là đại kị, cần phải xa lìa.
Đến như
người tu học thiền định, thì cái hại của tâm tam độc tham
sân si như vừa nói trên, cũng đại kị và cần phải xa lìa như vậy. Lại
nữa, người tham thiền có lúc nào đó bỗng thấy mình là người lợi căn, rồi
sinh tâm khinh bỉ người niệm Phật, cho rằng người niệm Phật căn khí yếu
kém, cả tri kiến và đức tin đều không đầy đủ, cho nên mới niệm Phật để
cầu sinh về cõi tịnh độ do chư Phật hóa hiện ra. Đâu biết rằng, trong số
người niệm Phật cũng không thiếu gì những người thượng căn, từng đạt đến
chỗ tâm không có gì để niệm, không có Phật để niệm, dường như tâm định.
Cũng có
một số ít người tu thiền, không những khinh bỉ người niệm Phật, mà đối
với những người cùng tu thiền, thậm chí đối với những đạo tràng tu thiền
khác, cũng sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình là giỏi hơn tất cả, không
chịu lắng nghe tiếng nói cùng những kinh nghiệm của người khác. Như thế
là ở trên cái tâm tam độc lại có thêm cái tâm ngã mạn, rồi nhân cái tâm
ngã mạn ấy mà tâm sân hận càng trở nên mạnh mẽ. Cho nên, tâm ngã mạn
thật quả là mối nguy hại to lớn cho người học thiền tu định; nếu không
dứt trừ thì suốt ngày chỉ lẩn quẩn trong cái ý niệm nhân ngã, phân biệt
hơn thua, muốn cầu tâm được định, cho đến thấy được tánh, thật giống như
kẻ phàm phu mà muốn lên các cõi trời, khó khăn vô cùng!
Còn cái
tâm phan duyên làm chướng ngại cho thiền định, đối với các
hành giả mới phát tâm cũng như những vị đã tu tập lâu năm, hầu như không
khác nhau mấy. Người mới học thiền định, thường thường ở trong quá trình
tu hành, hễ nghe âm thanh, thấy ngoại cảnh, liền khởi tâm phan duyên; đó
gọi là “tâm viên ý mã”[60],
đợi đến lúc tỉnh ra thì có sớm cũng đã mười tám ngàn dặm, muốn được tâm
định, ôi xa quá là xa! Đến như người tu hành đã lâu năm thì thường cố
chấp nơi Phật pháp và cảnh giới khinh an, niệm niệm không trụ, phan
duyên không dừng, muốn cầu được tâm định, cũng quả thật là khó! Muốn trừ
khử cái tâm phan duyên này, trong lúc động cũng như trong lúc tĩnh đều
có cách để tu. Cuốn sách này nhằm giới thiệu pháp môn “NIỆM PHẬT VÔ
TƯỚNG”, động tĩnh đều thích nghi; dùng cái tâm vô tướng nhớ Phật lạy
Phật, và cách trì danh niệm Phật làm phương tiện quyền xảo cho bước khởi
đầu, thì có thể nhập vào pháp môn đó.
Tâm giác quán không những là phiền não đối với người tu định, mà còn là thứ đại kị đối
với người tham thiền; xin phân tích trình bày như sau:
1. Người
tu định thường dùng phép đếm hơi thở, thu nhiếp tâm ý vào một cảnh liên
tục. Lúc đầu tâm còn thô sơ nên tán loạn, phải mỗi hơi thở mỗi đếm; đếm
tới mười thì trở lại một. Cứ lặp đi lặp lại như thế, cho đến khi tâm
không còn phan duyên thì chuyển sang phép theo dõi hơi thở. Theo dõi hơi
thở một cách liên tục thì tâm sẽ qui về một mối thuần nhất. Lúc đó thì
cái tâm giác quán thô sơ cũng không còn, người có trí sẽ khéo léo dùng
tâm giác quán vi tế, khi các thứ cảnh giới vi diệu khởi lên từ tâm thuần
nhất đó, biết khéo léo chọn lựa quyết định, sẽ chọn lựa một cảnh giới
thiện diệu mà để tâm an trụ vào đó. Nếu an trụ được lâu, tâm sẽ lại
chuyển thành vi tế hơn nữa, bấy giờ phải dần dần xả bỏ luôn tâm giác
quán vi tế, mới có thể nhập vào “vị-đáo-địa định”[61].
Nếu đã nhập được vào vị-đáo-địa định, lại tập luyện thuần thục, khi
những chướng ngại tâm tánh đều bị tiêu trừ hết, liền ở nơi sự sáng tỏ
hoàn toàn của giác quán mà được nhập vào Sơ-thiền. Do công đức Sơ-thiền
mà có được lạc-thọ, đó gọi là tâm thuần nhất với giác quán hỉ lạc[62].
Nếu đến giai đoạn cuối cùng mà vẫn còn chấp chặt nơi giác quán, không
chịu buông bỏ, thì không thể nhập vào vị-đáo-địa định; không tu tập
vị-đáo-địa định thì khó có thể nhập Sơ-thiền, huống gì là Nhị, Tam hay
Tứ-thiền! Cho nên người tu định, trong thời kì đầu phải buông bỏ tâm
giác quán thô lậu, cột tâm vào một pháp; sau đó sinh khởi tâm giác quán
vi tế, khiến tâm an trú nơi cảnh giới vi tế. Sau khi sự an trú đã trở
nên thuần thục, bấy giờ lại phải buông bỏ luôn tâm giác quán vi tế, mới
có thể chứng nhập vị-đáo-địa định và Sơ-thiền. Khi tu Nhị-thiền,
Tam-thiền, Tứ-thiền, và Tứ-không định, cũng hoàn toàn giống như vậy.
Hành giả do biết rõ giác quán, có thể bỏ cái thô sơ lấy cái vi tế, cuối
cùng thì bỏ luôn cái vi tế mới có thể vào định, chứng được các thiền.
Còn nữa, khi các cảnh giới huyễn hóa của sáu thức hiện ra, phải khéo léo
đối trị, không để bị giao động. Nếu chấp trước nơi tâm giác quán thì
liền bị mê hoặc bởi các cảnh giới do sáu thức biến hóa, tâm phát sinh
tham ái, tạo cơ hội thuận lợi cho ma vương dẫn dắt vào đường hiểm ác;
rồi đưa đến việc nói dối mình chứng đắc cảnh thiền này, cảnh thánh nọ,
đó là cầu đi lên nhưng trái lại là đọa lạc. Cũng có lúc qua lại với quỉ
thần, bị quỉ thần quấy phá, tâm không định được, tất không thể nhập vào
cảnh giới của chư Phật.
2. Người
tham thiền lại càng phải trừ bỏ giác quán. Nếu không đoạn giác quán thì
công phu sẽ không thể kết tụ thành một khối, nghi tình không khởi không
sâu. Muốn tiến vào được giai đoạn “thấy núi không phải là núi, thấy
sông không phải là sông” (xin xem chú thích số 7 của tác
giả ở cuối sách) cũng còn không thể
được, nói gì đến việc đánh phá khối nghi, thấy tánh giác ngộ!
Bác Sơn Vô
Dị Nguyên Lai thiền sư[63]
là một vị thiền sư lớn ở cuối triều đại nhà Minh[64],
cũng là vị cao tăng quán thông cả Tông-môn và Giáo-hạ[65],
từng biên soạn sách Tông Giáo Thông Thuyết (1 quyển). Ngài cũng
có sách Bác Sơn Hòa Thượng Tham Thiền Kỉnh Ngữ lưu truyền ở đời,
trong đó ngài chỉ dạy người tham thiền phải tu tập như thế nào. Nơi nào
trong sách ấy ngài cũng nêu rõ cái lỗi của tâm giác quán, lại còn nhấn
mạnh điều mà ngài bảo là “Không được đem tâm chờ ngộ[66]!”
Người tham thiền, khi tâm sinh khởi nghi tình, nếu có tâm “chờ ngộ”
thì không thể tiến được vào giai đoạn “thấy núi không phải là núi”.
Nếu không có đủ công phu để tiến vào cảnh giới này, muốn cầu tự mình
minh tâm kiến tánh, quả thật là khó khăn! Chỉ có nương nhờ một vị thiện
tri thức thông suốt cả Tông và Giáo hướng dẫn và thúc đẩy mà thôi; nhưng
loại thiện tri thức như thế cũng thật là hiếm có!
Bác Sơn
thiền sư lại nói: “Khi tu tập, chỉ biết nghi tình không phá, ngoài ra
không có niệm gì khác. Nếu có một niệm tơ hào nào khác, tức thì huệ mạng
bị tổn thương.” Thậm chí ngài còn nói rằng: “Tôi nói ‘niệm
khác’, không phải chỉ có pháp thế gian, mà tất cả những việc tốt
trong Phật pháp – ngoại trừ việc quán xét tâm, – tất cả đều gọi là
‘niệm khác’. Mà cũng đâu phải chỉ có những việc trong Phật pháp, mà
ngay nơi tâm thể, những niệm như lấy, bỏ, chấp, buông, cũng đều gọi là
‘niệm khác’ vậy.” Tham thiền vì sao như thế? Nguyên nhân chính là
tâm giác quán; đó là đại kị. Giác quán không đoạn trừ thì thoại đầu
thường bị mất, nghi tình không phát khởi, vội gì bàn đến việc tham
thiền!
Người niệm
Phật cũng vậy, cần phải diệt trừ tâm tam độc, tâm phan duyên và tâm giác
quán; cần phải niệm Phật, niệm niệm tiếp nối. Niệm cho đến khi nhất tâm
bất loạn, lắng trong vắng lặng, trong tâm không còn một niệm gì để
duyên; điều đó cũng có nghĩa là không phan duyên cả đến hình tướng và
danh hiệu Phật, âm thanh của danh hiệu Phật, cho đến một niệm nhớ tưởng
cũng không phan duyên. Thiền sư Đạo Tín còn nêu một đoạn trong Kinh
Đại Phẩm[67],
rằng: “Không có cái để niệm, gọi là niệm Phật. Thế nào là không có
cái để niệm? Tức là tâm niệm Phật, gọi là không có cái để niệm.” Nói
cách khác, bất luận hành giả tu hành theo pháp môn nào, chỉ cần lấy “đệ
nhất nghĩa” làm căn bản, không chấp trước vào “sắc ngã”, cho đến không
chấp trước vào “thọ tưởng hành thức ngã”, không khởi các tâm tam độc,
phan duyên và giác quán, không chấp trước vào tất cả pháp thế gian lẫn
xuất thế gian, không một niệm nào duyên theo cảnh, bám theo cảnh, gọi đó
là “không có cái để niệm”. Cái tâm “lắng trong vắng lặng không có
một niệm phan duyên” này mới thực sự là cái “tâm niệm Phật”; đó là cảnh
giới “lí nhất tâm”, là cảnh giới của “thật tướng niệm Phật”. Cư sĩ Bành
Nhị Lâm[68]
cũng đã viết trong tác phẩm Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận
của ông: “Biết tất cả Phật cho đến tâm ta, tất cả đều như mộng. Biết
tất cả Phật đều như ảnh tượng, tâm mình như nước. Biết sắc tướng của tất
cả Phật cho đến tâm mình, tất cả đều như huyễn. Biết tất cả Phật cho đến
tâm mình, tất cả đều như tiếng vang. Ta biết như thế, ức niệm như thế,
thì tất cả chư Phật mà ta trông thấy, đều do tự tâm.”
Niệm Phật
đạt đến cảnh giới “lí nhất tâm”, tất phải nhờ tu tập cùng lúc cả Thiền
và Tịnh, thể cứu niệm Phật, tự mình thấy rõ bản lai diện mục
“niệm Phật là ai?”, cảnh giới giác ngộ không lùi mất, từng giờ từng
phút, lúc nào cũng đem con mắt tâm quán chiếu, thấy rõ Phật tánh vốn có
sẵn nơi mình, trải qua tháng năm, vĩnh viễn không lùi mất. Cảnh giới ấy,
không phải người chuyên niệm Phật thì không dễ thành tựu, ngay cả người
tham thiền cũng ít ai đạt đến được. Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận[69]
thường lặp đi lặp lại câu nói: “Trong cửa này, ngàn người, vạn người,
chỉ được ba, năm người.” Cho nên người tham thiền không nên khinh
chê người niệm Phật, cũng đừng nên coi thường pháp môn Vô Tướng Niệm
Phật. Pháp môn này có sâu có cạn. Cạn thì được “sự nhất tâm”, nhưng
phần đông người tham thiền còn không nhất định đạt được. Sâu thì không
những được “lí nhất tâm”, mà còn có thể chứng đắc Đẳng-giác, Diệu-giác[70],
giải thoát rốt ráo.
Câu mở đầu
của chương “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông” nói rằng:
“Pháp vương tử Đại Thế Chí và 52 vị Bồ-tát cùng tu một pháp môn, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, ......” Đã có vô lượng vô số các
vị Bồ-tát từng tu chung pháp môn Niệm Phật Viên Thông với Bồ-tát Đại Thế
Chí, cùng lúc tham dự pháp hội Lăng-nghiêm, trong đó, 52 vị làm đại
biểu, đã cùng với Bồ-tát Đại Thế Chí đảnh lễ chân Phật; rồi do chính
Bồ-tát Đại Thế Chí nói ra pháp môn Niệm Phật Viên Thông này. Vì sao có
52 vị Bồ-tát làm đại biểu, mà không phải là một con số nào khác? Con số
“52” đó hàm chứa một ý nghĩa sâu xa rằng, pháp môn này có cạn có sâu,
thu nhiếp cả người lợi căn lẫn độn căn. Từ hạng Bồ-tát phàm phu cạn cợt
nhất (bắt đầu từ bậc Tín đầu tiên đến bậc Tín thứ mười, tức trọn vẹn
cấp Thập-tín) và hạng Bồ-tát ở địa vị Hiền (gồm 3 cấp Thập-trụ,
Thập-hạnh và Thập-hồi-hướng), lên trên đến Bồ-tát ở địa vị Thánh (từ
Địa thứ nhất đến Địa thứ 10, tức trọn vẹn cấp Thập-địa), cho đến chư vị
Bồ-tát sắp thành Phật ở hai địa vị Đẳng-giác và Diệu-giác[71],
vô luợng vô số, đều đồng tu pháp môn Niệm Phật Viên Thông này. Từ đó có
thể thấy, pháp môn Niệm Phật Viên Thông thù thắng đến mức nào!
Phương
pháp mà sách này trình bày, có thể giúp cho hành giả từ giai đoạn niệm
Phật hữu tướng với tâm tán loạn, đạt đến giai đoạn niệm Phật
trong “sự nhất tâm” (tức niệm Phật vô tướng). Phương pháp
này giúp cho hành giả, ngay trong nếp sinh hoạt bận rộn của thời đại
ngày nay, cũng có thể có được tịnh niệm tiếp nối (tức niệm Phật vô
tướng); đó chính là một loại “công phu trong động”. Trong sinh
hoạt thường ngày mà có thể hành trì vô tướng niệm Phật nhất tâm bất
loạn, thì trong lúc tĩnh tọa lại càng dễ dàng đạt đến cảnh giới nhất tâm
bất loạn. Đến như có thể đạt đến chỗ “lí nhất tâm” hay không, thì
còn phải coi xem các kiếp trước của hành giả, thiện căn, tuệ căn thế
nào; nhân duyên quả báo ra sao; cho đến có dứt bỏ được sự chướng, tiêu
trừ được tánh chướng mà tinh tấn tu trì hay không.
Hành giả
tu tập pháp môn Niệm Phật Viên Thông này được thành công ở bước đầu (tức
niệm Phật vô tướng trong sự nhất tâm), trong tương lai khi xả bỏ báo
thân, muốn vãng sinh về cõi Phương-tiện hữu-dư hoặc cõi Thật-báo
trang-nghiêm ở thế giới Cực-lạc, tùy ý mà cảm ứng, chắc chắn được vãng
sinh (xin xem chú thích số 1 của tác giả ở cuối sách);
ngoại trừ trường hợp vẫn còn quyến luyến thế gian, không buông bỏ quyến
thuộc, tiền của và sự nghiệp, hoặc chưa tương ứng với biệt nguyện của
chư Phật (xin xem chú thích số 8 của tác giả ở cuối sách).
Nếu hành giả có đầy đủ thiện căn phước đức làm tư lương, và có phương
tiện thiện xảo, tu tập vào sâu đến lí nhất tâm và cảnh giới thâm diệu
hơn nữa, thì muốn vãng sinh về tịnh độ của chư Phật cũng đều được vãng
sinh. Nếu không muốn sinh về tịnh độ chư Phật, cũng có thể trụ nơi “duy
tâm tịnh độ”. Người đạt được sự nhất tâm (tức tu tập thành công pháp môn
Niệm Phật Vô Tướng), cố nhiên có thể cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc ở
phương Tây, cũng có thể sinh liền vào cảnh giới thâm diệu để tu học sâu
xa hơn, nhờ đó mà tiến lên các phẩm hoa sen, được sớm trở lại cõi Ta-bà,
cứu độ chúng sinh đau khổ.
Người tham
thiền nếu không muốn đi sâu vào pháp môn Niệm Phật Viên Thông, có thể
lấy nó làm phương tiện, dùng xong liền bỏ đi – sự thật thì pháp môn này
còn quí hơn cả vàng ngọc; cũng như qua sông thì phải dùng thuyền, khi đã
đến bờ rồi thì không cần dùng thuyền nữa. Sau khi lấy pháp môn này tu
tập thành tựu công phu trong động, tức đã đầy đủ năng lực khán thoại
đầu, tham công án. Lúc bấy giờ tham thiền thì thật chắc chắn, vững vàng,
tuyệt đối không gặp trở ngại. Cho nên người thật tâm tham thiền, nếu
chưa có đủ năng lực khán thoại đầu, xin đừng nên vì không vừa lòng với
phương tiện thiện xảo trong thời kì đầu của pháp môn này (tức lạy Phật
và trì danh niệm Phật), mà bỏ cái pháp môn tu tập công phu trong động
một cách tuyệt diệu này! Hành giả tu tập pháp môn ấy, có thể thành tựu
công phu trong động; công phu đã có, bèn trở về thiền môn, tu thiền càng
có hiệu quả lớn lao, còn gì vui hơn, sao lại không làm!? Lại còn có một
điều lợi nữa: Pháp môn này rất thích hợp cho việc tu tập trong hoàn cảnh
đầy chao động. Mỗi ngày chỉ cần hai buổi sớm tối đều dành ra từ 10 đến
20 phút để lạy Phật, đối với người học Phật bận rộn ngày nay, việc đó
thích hợp không gì bằng!
Những điều
vừa trình bày ở trên, xin quí vị hành giả nên lĩnh hội sâu sắc, nắm vững
tinh nghĩa, sau đó hãy y theo phương pháp và thứ tự rất mực đơn giản sẽ
được trình bày trong Chương Bốn sau đây mà tinh tấn luyện tập, thì chắc
chắn sẽ thành tựu pháp tu Niệm Phật Vô Tướng; không những có hi vọng cầu
vãng sinh Tịnh-độ, mà còn có thể tùy duyên tham thiền, thể cứu niệm
Phật, vui biết bao nhiêu!