5.
MỘT CUỘC TỰ VƯỢT TRONG
TƯ TUỞNG GIỚI ÂU CHÂU
CŨNG
như Kierkegaard, Nietzche (1844-1900) hoàn toàn
chối bỏ mọi nhận thức khách quan để đề cao vai trò chủ quan của
con người. Con người phải nhập cuộc để tự xây dựng chấn lý
cho mình. Nhưng với Nietzsche sắc thái nổi loạn đã được phát
triển một cách hết sức mạnh mẽ. Chính tư tưởng của Nietzsche đã
làm cho phong trào hiện sinh, nhất là phái hiện sinh vô thần của thế
kỷ XX trở thành cuồng nhiệt hơn. Nếu ở Kierkegaard, ta thấy tính
chất nổi loạn hoàn toàn nằm trong lĩnh vực tình cảm đam mê, và
còn ngừng nghỉ ở trạng thái đạo nghĩa để rồi lấy sức vươn
lên trạng thái giải thoát, tuyệt đối hiện sinh thì ở Nietzsche, ta
thấy tình cảm đam mê đã chuyển thành ý chí cuồng điên. Ý chí con
người quyết thắng tất cả để đặt con người vào địa vị tự
chủ tuyệt đối. Ông chấp nhận thân phận con người hàm chứa
những sự trạng thái nghịch. Những sự trạng ấy là điều kiện
thiết yếu của giòng hiện sinh. Bằng vào đó, ông đã tung ra những
khẩu hiệu nóng bỏng nhằm thực hiện một cuộc cách mạng tư tưởng
toàn triệt. "Đảo lại hết mọi giá trị" đó là mục tiêu
chính của cuộc nổi loạn này. Những gì mà người đời vẫn tôn
trọng đều bị ông đả kích và lên án. Ông đặt lại mọi nhận
định về thiện ác một cách hoàn toàn mới: ông thay bảng giá trị
tư tưởng duy niệm của truyền thống cổ điển bằng một giá trị
mới là tư tưởng hiện sinh. Thay những tin tưởng yếm thế của tôn
giáo bằng lý tưởng siêu nhân. Một sinh khí sung động mãnh liệt
đã được thể hiện qua tư tưởng ông.
Nietzsche, ngay tuổi mới lớn, đã được nung nấu trong
những vần thơ mạnh như vũ bão của Goethe, Goethe là một thi sĩ đặc
biệt đề cao hành động. Ông cho hành động đã có từ nguyên
thủy. Đây là tư tưởng căn bản của Nietzsche. Tiếp đó Nietzsche
lại một lần nữa chìm ngợp trong tư tưởng của Schopenhauer. Ở
Schopenhauer ta gặp được những chủ đề chính của Nietzsche nhất là
của những con người hiện sinh và các nghệ sĩ lập thể thời đại.
"Vũ trụ là cái nhìn của tôi". "Ý chí là căn thể trong
con người, ý chí điều khiển trí tuệ". "Chủ thể trí thức
là một người sống thực vì trí thức đã đồng nhất với thân
xác, hành động của thân thể là hành động của ý chí khi ý chí
nhằm đối tượng là vũ trụ" Nietzsche là một người đã tổng
hợp được cảm tính hiếu động của một thi sĩ và suy tưởng hiếu
động của một triết nhân, để hoàn thành một chủ quan hiếu động
tột độ của mình rồi làm nghiêng lệch hẳn nhận thức cố cựu
của nhân loại trước đó.
Ta có thể xét tư tưởng của Nietzsche qua hai phần
chính. Phần đả phá và phần xây dựng. Với chủ trương đặt lại
mọi giá trị mới, Nietzsche đã tận lực đả phá mọi giá trị cũ
đến độ điên cuồng. Đối tượng chính của ông xỉa mũi nhọn vào
là nền luân lý và Thượng đế. Ông cho luân lý là một thứ qui
ước hoàn toàn có tính chất giả tạo, nhằm nô lệ hóa con người.
Luân lý làm thui chột ý chí tự chủ, tự cường của con người.
Luân lý là của quần chúng ngu tối nhắm mắt tuân theo những lề
thói tập tục của xã hội. Tình trạng đó ông gọi là tình trạng
nô lệ tinh thần. Mà nô lệ tinh thần đáng khinh, đáng thương hơn
tình trạng nô?ệ thân xác nhiều. Luân lý chỉ là sợi dây tròng
vào cổ đoàn vật, vì nó chỉ có mục đích đảm bảo yên vui cho lũ
người ươn hèn mà thôi. Cứu cánh của nền luân lý ươn hèn này
tất nhiên là Thượng đế, theo Nietzsche thì: "Thượng đế đã
chết rồi". Đây là một tuyên ngôn vô cùng táo bạo và ngỗ
nghịch mà từ xưa đến nay chưa một triết nhân nào dùng tới. Ông
nhất quyết hạ độc thủ với Thượng đế vì, theo ông, chính
Thượng đế là bức tường lớn nhất, kiên cố nhất đã chắn
mất ý chí tự chủ và hằng vượt của con người. "Vậy phải
giết Thượng đế thì siêu nhân mới có thể xuất hiện
được". Siêu nhân là một con người kiêu hùng gắn liền với
thực tại trái đất, trong quần chúng mà ra, nhưng phải vượt lên
trên quần chúng, thúc đẩy nhân loại phải tiến triển bằng cách
đánh thức những đam mê vẫn ngủ yên trong mỗi người dậy.
Sang tới phần xây dựng ông cho rằng cuộc hiện sinh
của con người vốn mang một thân phận ngang trái đầy kinh sợ và
thống khổ. Con người là một giòng hiện sinh cô độc giữa vũ trụ
vô nghĩa. Tuy thực thể người vốn bắt nguồn từ sức mạnh tăm
tối vô biên của thiên nhiên, để có sức sống đam mê mộc mạc,
nhưng mặt khác con người có lý trí suy tư, luôn luôn muốn khắc
phục giòng sống đam mê của mình. Chính vì con người hàm chứa hai
thành tố đó, nên con người thường có tâm trạng giằng xé hãi
hùng. Ông đã tượng trưng cho chúng bằng hai vị thần cổ Hy lạp là
thần Dionysos và Apollon. Thần Dionysos là bản năng đam mê của con
người có khuynh hướng quay về hòa mình với biển sống mênh mông
vũ trụ, để đạt tới trạng thái thực tại thường hằng và
quyền năng trọn vẹn. Thần Apollon tượng trưng cho lý trí có khả
năng phân biệt để diễn tả thành sự trạng và như vậy có nghĩa
tạo lập một cuộc sống luân lý xa lìa bản nhiên của thần Dionysos,
để rồi thấy mình hiện sinh cô độc trong vũ trụ vô nghĩa. Bằng
vào thực tại tâm trạng trái ngược đó Nietzsche có tham vọng vận
dụng lý trí vào việc giúp sức bản năng để thành ý chí kiêu
hùng quyết thắng, rồi đặt con người lên ngang hàng với Thượng
đế, tức là con người siêu nhân. Trong khi đả phá nền luân lý
mà ông gọi là của bọn nô lệ, Nietzche đã đề cao ý chí kiêu
hùng của con người, ý chí đó quyết trút bỏ mọi quan niệm hèn
yếu để vượt lên trên tất cả những cái gì tầm thường của
thế nhân ; dám coi khinh khen chê, dám sống cuộc đời vô luân để
kiến tạo cho mình một cuộc sống tự do tự chủ tuyệt đối.
"Hãy tự thắng mình", "tự vượt mình", và "tự
trở nên chính mình", "tự đặt lấy giá trị cho mình".
"Tự xây dựng chân lý hiện sinh cho mình". Tuy ông thấy cũng
cần thiết đối với mình, nhưng đó là sự cần thiết nguy hại.
Chúng ta cần có thầy để hướng dẫn, nhưng chính thầy cũng là một
sự cản bước tiến của ta. Vậy, ta phải dám vượt qua khuôn sáo
của thầy. Có như thế con người mới thực hiện nổi một cuộc tự
vượt không ngừng. Siêu nhân phải tự thắp đuốc mà đi, không
nhờ vào bất cứ một ngoại lực nào kể cả Thượng đế. Nietzsche
đã cố gắng phá bỏ nền luân lý duy thần để xây dựng một nền
luân lý siêu nhân, thúc bách con người phải thường trực vượt
lên khỏi tâm trạng an phận hèn yếu nô lệ để tự tạo một cuộc
hiện sinh tuyệt đối bằng những hãi hùng và vô nghĩa.
Quan niệm nhân bản tuyệt đối đã được Nietzsche
triệt để khai thác. Phải kể rằng thế kỷ hai mươi này là một thế
kỷ bị dao động bởi tư tưởng quá khích của Nietzsche. Ông xuất
hiện như một cơn lốc cuồng điên cuốn bay cả một lớp thành kiến
già nua cố đế. Qua ông người ta mới truy tầm ra sự hiện hữu
của tư tưởng Kierkegaard. Qua ông người ta mới tìm thấy một toà
lâu đài tráng lệ giữa kinh thành đổ nát, đó là tư tưởng
Schopenhauer. Rồi qua Schopenhauer, ta bắt gặp một luồng tư tưởng Ấn
Độ, nhất là luồng tư tưởng của đạo Phật. Nói như vậy, không
có nghĩa là cố ý "chụp mũ", nhưng là một sự thật. Cũng
như đạo Phật, tư tưởng Nietzsche đã chấp nhận thân phận khổ đau
đầy hãi hùng của con người rồi đề cao tuyệt đỉnh sự tự thắng
mình để đưa mình tới trạng thái tự chủ tuyệt đối. Nhưng khác
với Phật, Nietzsche không những chỉ thắng mình còn quyết vượt
thắng tha nhân nữa. Trái lại, đạo Phật không vượt thắng tha nhân
mà là từ bi hỷ xả đối với tha nhân để tất cả vươn lên địa
vị tự chủ, tự giải thoát. Sự khác biệt đó bắt nguồn từ quan
niệm hoàn toàn cá nhân chủ nghĩa của Nietzsche và quan niệm cá nhân
tập thể chủ nghĩa của đạo Phật. Chính quan niệm một chiều quá
khích của Nietzsche đã đưa đến hậu quả vô cùng tai hại là sản ra
chế độ phát xít Mussolini và Hitler. Mussolini và Hitler đã lấy người
hùng của Nietzsche làm mẫu người lý tưởng cho thanh niên Ý, Đức,
để xô hai dân tộc Ý, Đức và nhân loại vào vòng đại chiến.
Nếu trên lĩnh vực tư tưởng, Nietzsche đã gây ra một cuộc bạo
loạn thì trên thực tế, Mussolini và Hitler đã sản ra một cuộc đại
loạn. Bên cạnh những tội ác đó dù sao cũng vẫn có một đóng
góp đáng kể với lịch sử trong việc giải phóng tư tưởng và
giải phóng nhược tiểu dân tộc của thế kỷ hai mươi này. Nietzsche
đã làm cho nhân loại tự phản tỉnh để chuyển hóa tư tưởng sang
một giai đoạn mới. Và, cuộc quật khởi tàn khốc đẫm máu quá
khích của người tiểu tư sản do Mussolini và Hitler làm tiêu biểu đã
có công dụng thức tỉnh nhân dân các nhược tiểu dân tộc trong
công cuộc giải phóng đất nước và giải phóng nhân loại hiện nay.