SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 14
PHẨM TÂM
177. KINH THUYẾT
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa tại Câu-lâu-sấu, ở trong Kiếm-ma-sắt-đàm, đô ấp của Câu-lâu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn
nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Ta sẽ thuyết pháp
cho các ngươi nghe, vi diệu ở khởi đầu, vi diệu ở quảng giữa và vi diệu ở
đoạn cuối; có văn, có nghĩa, đầy đủ thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh. Đó là
kinh ‘Tứ Chủng Thuyết’. Sau đây Ta sẽ phân biệt nghĩa lý của kinh ‘Tứ
Chủng Thuyết’. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy khéo tư niệm. Ta sẽ nói”.
Khi ấy các Tỳ-kheo
vâng lời dạy, lắng nghe.
Đức Phật nói:
“Thế nào gọi là phân
biệt nghĩa lý của kinh Tứ Chủng Thuyết?
“Nếu có Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng và tiêu đích, mà ly dục, ly pháp ác
bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền,
thành tựu an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm
trên đối tượng, tiêu đích này mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với dục
lạc, bèn thoái chuyển, thì Tỳ-kheo ấy phải nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này
mà không trụ, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này nên khiến ta
bị thoái chuyển. Do đó định này của ta không tồn tại lâu dài’. Thầy
Tỳ-kheo ấy phải nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác bất thiện, có
giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền, thành tựu an
trụ và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này,
lập niệm đúng như pháp, khiến an trụ với ý chuyên nhất, thì Tỳ-kheo ấy nên
biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không tiến, cũng không yểm ly.
Ta sanh pháp này có thể khiến ta an trụ, mà định này của ta chắc chắn tồn
tại lâu dài’. Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác
bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền,
thành tựu và an trụ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy
niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ niệm tưởng tương ưng với đệ Nhị
thiền, thành tựu sự thăng tiến, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng: ‘Ta sanh
pháp này mà không thoái, không trụ, cũng không yểm ly tởm. Ta sanh pháp
này khiến ta được thăng tiến, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng đắc đệ
Nhị thiền’. Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích mà ly dục, ly pháp ác bất thiện, có
giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh, chứng đắc Sơ thiền, thành tựu và
an trụ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng,
tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, thành tựu
vô dục, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái,
không trụ, cũng không thăng tiến. Ta sanh pháp này có thể khiến ta yểm ly.
Như vậy, không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận’. Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết
như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm,
không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc đệ Nhị thiền, thành
tựu và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên
đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Sơ thiền,
thành tựu sự thoái chuyển, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này
mà không trụ, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này nên khiến ta
bị thoái chuyển, do đó định này của ta không tồn tại lâu dài’. Thầy
Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm,
không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc đệ Nhị thiền, thành
tựu và an trụ. Vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu
đích này, lập niệm đúng như pháp, an trụ với ý chuyên nhất, thì Tỳ-kheo ấy
nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không tiến, cũng không yểm
ly. Ta sanh pháp này có thể khiến ta được an trụ, do đó định này của ta
chắc chắn tồn tại lâu dài’. Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm,
không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc đệ Nhị thiền, thành
tựu và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên
đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với đệ Tam
thiền, thành tựu sự thăng tiến, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp
này mà không thoái, không trụ, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này có thể
khiến ta được thăng tiến, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng đắc đệ Tam
thiền’. Thầy Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm,
không giác, không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc đệ Nhị thiền, thành
tựu và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên
đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt,
tịch tĩnh, thành tựu vô dục, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp
này mà không thoái chuyển, không trụ, cũng không thăng tiến. Ta sanh pháp
này nên khiến ta yểm ly, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận’.
Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ, dục, xả, vô cầu, an trụ với
chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều được Thánh gọi là được
Thánh xả, niệm, an trú lạc, chứng đắc đệ Tam thiền, thành tựu và an trụ.
Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng,
tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với đệ Nhị thiền, thành
tựu sự thoái chuyển, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà
không trụ, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này nên khiến ta bị
thoái chuyển, do đó định này của ta không tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên
biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ, dục, xả, vô cầu, an trụ với
chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều được Thánh gọi là được
Thánh xả, niệm, an trụ lạc, chứng đắc đệ Tam thiền, thành tựu và an trụ;
và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập
niệm đúng như pháp, an trụ với ý chuyên nhất, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng
‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh
pháp này có thể khiến ta được an trụ, do đó định này của ta chắn chắn tồn
tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ, dục, xả, an trụ vô cầu, với
chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều được Thánh gọi là được
Thánh xả, niệm, an trú lạc, chứng đắc đệ Tam thiền, thành tựu và an trụ.
Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng,
tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với đệ Tứ thiền, thành tựu
sự thăng tiến, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không
thoái, không trụ, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này nên khiến ta được
thăng tiến, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng đệ Tứ thiền’. Tỳ-kheo ấy
nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo với sở hành, đối tượng, tiêu đích, ly hỷ, dục, xả, vô
cầu, an trụ với chánh niệm, chánh trí, thân cảm giác lạc, điều được Thánh
gọi là được Thánh xả, niệm, an trụ lạc, chứng đắc đệ Tam thiền, thành tựu
và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối
tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch
tĩnh, thành tựu sự vô dục, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này
mà không thoái, không trụ, cũng không thăng tiến. Ta sanh pháp này nên có
thể khiến ta bị yểm ly, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận’.
Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã
có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành
tựu và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên
đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với đệ Tam
thiền, thành sự thối thất, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này
mà không trụ, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này nên khiến ta
bị thối thất, do đó định này của ta không tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên
biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã
có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành
tựu và an trụ. Và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng,
tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp với ý chuyên nhất, thì Tỳ-kheo ấy
nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không tiến, cũng không yểm
ly. Ta sanh pháp này nên ta được an trụ, do đó, định này của ta chắc chắn
tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã
có; không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành
tựu và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên
đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với Vô lượng
không xứ, với sự thăng tiến, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp
này mà không thoái chuyển, không trụ, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này
nên ta được thăng tiến, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng đắc Vô lượng
không xứ’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, diệt lạc, diệt khổ, diệt ưu hỷ vốn đã
có, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng đắc đệ Tứ thiền, thành
tựu và an trụ. Nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên
đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt,
tịch tĩnh, thành tựu sự vô dục, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp
này mà không thoái, không trụ, cũng không thăng tiến. Ta sanh pháp này có
thể khiến ta yểm ly, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận’.
Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối
tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập vô lượng không, thành
tựu và an trụ Vô lượng không xứ. Nhưng vị ấy chấp thọ sở hành này, không
suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương ưng
với ái lạc sắc, thành tựu sự thoái chuyển, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng
‘Ta sanh pháp này mà không trụ, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh
pháp này khiến ta bị thối thất, do đó, định này của ta không tồn tại lâu
dài’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối
tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập vô lượng không, thành
tựu và an trụ Vô lượng không xứ, và vị ấy chấp thọ sở hành này, suy niệm
trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an trụ với ý chuyên
nhất, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không
tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này có thể khiến ta được an trụ, do
đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên biết như
vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối
tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập vô lượng không, thành
tựu và an trụ Vô lượng không xứ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này,
không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương
ưng với Vô lượng thức xứ, thành tựu thăng tiến, thì Tỳ-kheo ấy nên biết
rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không trụ, cũng không yểm ly. Ta
sanh pháp này nên ta được thăng tiến, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng
đắc Vô lượng thức xứ’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối
tưởng, không suy niệm bất cứ loại tưởng nào, nhập vô lượng không, thành
tựu và an trụ Vô lượng không xứ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở hành này,
không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm tưởng tương
ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, thành tựu vô dục, thì Tỳ-kheo ấy nên biết
rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái, không trụ, cũng không thăng tiến.
Ta sanh pháp này có thể khiến ta yểm ly, như vậy không bao lâu nữa sẽ
chứng quả lậu tận’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập
vô lượng thức, thành tựu và an trụ Vô lượng thức xứ, nhưng vị ấy không
chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ
hành niệm tưởng tương ưng với Vô lượng không xứ, thành tựu thoái chuyển,
thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không trụ, không tiến,
cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này nên ta bị thối thất, do đó, định này
của ta không tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập
vô lượng thức, thành tựu và an trụ Vô lượng thức xứ, và vị ấy chấp thọ sở
hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp,
an trụ với ý chuyên nhất, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này
mà không thoái chuyển, không tiến, cũng không yểm ly. Ta sanh pháp này
khiến ta được an trụ, do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài’.
Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập
vô lượng thức, thành tựu và an trụ Vô lượng thức xứ, nhưng vị ấy không
chấp thọ sở hành này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành
niệm tưởng tương ưng với Vô sở hữu xứ, thành tựu thăng tiến, thì Tỳ-kheo
ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái chuyển, không trụ, cũng
không yểm ly. Ta sanh pháp này nên ta được thăng tiến, như vậy không bao
lâu nữa sẽ chứng đắc Vô sở hữu xứ’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng không xứ, nhập
vô lượng thức, thành tựu và an trụ Vô lượng thức xứ, nhưng vị ấy không
chấp thọ sở hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ
hành niệm tưởng tương ưng với tịch diệt, tịch tĩnh, thành tựu vô dục, thì
Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái chuyển, không
trụ, cũng không thăng tiến; vì ta sanh pháp này nên khiến ta yểm ly, như
vậy không bao lâu nữa sẽ chứng quả lậu tận’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập
vô sở hữu, thành tựu và an trụ Vô sở hữu xứ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở
hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm
tưởng tương ưng với Vô lượng thức xứ, thành tựu thoái chuyển, thì Tỳ-kheo
ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không trụ, không tiến, cũng không
yểm ly. Ta sanh pháp này khiến ta bị thối thất, do đó, định này của ta
không tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập
vô sở hữu, thành tựu và an trụ Vô sở hữu xứ, và vị ấy chấp thọ sở hành
này, suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, lập niệm đúng như pháp, an
trụ với ý chuyên nhất, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà
không thoái chuyển, không tiến, cũng không yểm ly; vì ta sanh pháp này nên
ta được an trụ, do đó, định này của ta chắc chắn tồn tại lâu dài’. Tỳ-kheo
ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập
vô sở hữu, thành tựu và an trụ Vô sở hữu xứ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở
hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm
tưởng tương ưng với Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu sự thăng
tiến, thì Tỳ-kheo ấy nên biết rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái
chuyển, không trụ, cũng không yểm ly; vì ta sanh pháp này nên ta được
thăng tiến, như vậy không bao lâu nữa sẽ chứng đắc phi hữu tưởng, phi vô
tưởng xứ’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Lại nữa, Tỳ-kheo
với sở hành, đối tượng, tiêu đích, vượt qua tất cả Vô lượng thức xứ, nhập
vô sở hữu, thành tựu và an trụ Vô sở hữu xứ, nhưng vị ấy không chấp thọ sở
hành này, không suy niệm trên đối tượng, tiêu đích này, mà chỉ hành niệm
tưởng tương ưng với sự nhàm tởm, thành tựu vô dục, thì Tỳ-kheo ấy nên biết
rằng ‘Ta sanh pháp này mà không thoái chuyển, không trụ, cũng không thăng
tiến; vì ta sanh pháp này nên khiến ta nhàm tởm, như vậy không bao lâu nữa
sẽ chứng quả lậu tận’. Tỳ-kheo ấy nên biết như vậy.
“Có tưởng và có tri.
Ngang mức ấy còn được tri; cho đến Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ là hành
dư cao hơn hết trong sự hữu.
Tỳ-kheo hành thiền hãy phát khởi theo như vậy, hãy thuyết giảng lại cho
người khác biết.
Đức Phật thuyết
như vậy, các thầy Tỳ-kheo sau khi Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 14
172
|
173
|
174
|
175
|
176
|
177
|
178
|
179
|
180
|
181
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003