SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 10
PHẨM LÂM
115. KINH MẬT HOÀN DỤ[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa Thích-ki-sấu, ở tại Ca-duy-la-vệ.
Bấy giờ sau khi đêm
tối qua, vào buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn đắp y, ôm bát, rửa tay chân, lấy
Ni-sư-đàn vắt lên vai, đi đến rừng trúc
trong chùa Thích-ca,
rồi Ngài đi vào Đại lâm,
đến dưới một gốc cây, trải Ni-sư-đàn ngồi kiết già.
Khi ấy, Chấp Trượng
Thích
chống gậy mà đi, sau bữa cơm trưa, ung dung tìm đến chỗ Phật, cùng nhau
chào hỏi, chống gậy đứng trước Đức Phật, rồi hỏi Đức Thế Tôn rằng:
“Sa-môn Cù-đàm, Ngài
lấy gì làm tông chỉ? Và thuyết giảng những pháp gì?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này người họ Thích,
nếu tất cả chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ ngườøi đến trời trên
thế gian này đều không đấu tranh,
tu tập ly dục, thanh tịnh phạm hạnh, lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ hối,
không đắm trước nơi hữu, phi hữu, cũng không có tưởng.
Đó là tông chỉ của Ta. Pháp Ta thuyết giảng cũng như vậy”.
Khi ấy, Chấp Trượng
Thích nghe Đức Phật nói, không cho là phải, không cho là trái. Chấp Trượng
Thích lắc đầu rồi bỏ đi.
Bấy giờ, sau khi
Chấp Trượng Thích bỏ đi không lâu, vào lúc xế, Đức Thế Tôn từ chỗ thiền
tọa đứng dậy, đi vào giảng đường, đến trước chúng hội Tỳ-kheo, trải tọa cụ
ngồi xuống, rồi nói với các Tỳ-kheo:
“Hôm nay, vào buổi sáng sớm, Ta đắp y, ôm bát vào Ca-duy-la-vệ khất thực.
Sau khi ăn xong, Ta thâu y bát, rửa tay chân, lấy Ni-sư-đàn vắt lên vai,
đến khóm trúc trong chùa Thích-ca, rồi Ta đi vào Đại lâm ấy, đến dưới một
gốc cây, trải Ni-sư-đàn rồi ngồi kiết già. Khi ấy, có Chấp Trượng Thích
chống gậy mà đi, sau bữa cơm trưa ung dung tìm đến chỗ Ta, cùng nhau chào
hỏi, chống gậy đứng trước mặt Ta rồi hỏi Ta rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm, Ngài lấy
gì làm tông chỉ và thuyết giảng những pháp gì?’ Ta đáp, ‘Này người họ
Thích, nếu tất cả chư Thiên, Ma, phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ ngườøi đến
trời trên thế gian này đều không đấu tranh, tu tập ly dục, thanh tịnh phạm
hạnh, lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ hối, không đắm trước nơi hữu, phi hữu,
cũng không có tưởng. Đó là tông chỉ của Ta. Pháp Ta thuyết giảng cũng như
vậy’. Khi ấy Chấp Trượng Thích nghe Ta nói không cho là phải, cũng không
cho là trái. Chấp Trượng Thích lắc đầu rồi bỏ đi”.
Khi ấy có một
Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, chắp tay hướng Phật
mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, sao
gọi là tất cả những Thiên, Ma, phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ ngườøi đến trời
trên thế gian này đều không đấu tranh, tu tập ly dục, thanh tịnh phạm
hạnh, lìa bỏ siểm khúc, dứt trừ hối, không đắm trước nơi hữu, phi hữu,
cũng không có tưởng?”
Đức Thế Tôn nói:
“Tỳ-kheo, nếu người
đối với tư niệm nhân đó mà xuất gia học đạo,
tu tập tư tưởng, và đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị lai, mà không ái,
không lạc, không đắm trước, không trụ, đó gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử,
nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử,
đấu tranh, tắng tat, siểm nịnh, lừa
bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác,
đó gọi là tận cùng sự khổ”.
Đức Phật nói như vậy
rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa.
Khi ấy các Tỳ-kheo
liền suy nghĩ rằng: ‘Này chư Hiền, nên biết, Đức Thế Tôn nói nghĩa này một
cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh
thất tĩnh tọa, ‘Nếu người đối với tư niệm nhân đó mà xuất gia học đạo, tu
tập tư tưởng, và đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị lai, mà không ái,
không lạc, không đắm trước, không trụ, đó gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử,
nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh,
tắng tat, siểm nịnh, lừa bịp, nói
dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác, đó gọi là tận cùng
sự khổ’.”
Rồi lại suy nghĩ
rằng: “Này chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn
vừa nói vắn tắt ấy?”
Rồi họ lại suy nghĩ: “Chỉ có Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thường được Đức Thế
Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể
phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy. Này chư
Hiền, hãy cùng nhau đi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-chiên-diên yêu cầu ngài nói
nghĩa này. Nếu đượïc Tôn giả Đại Ca-chiên-diên phân biệt cho thì chúng ta
sẽ khéo léo nhận lãnh rồi ghi nhớ”.
Rồi thì các Tỳ-kheo
đi đến chỗ của Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, cùng nhau chào hỏi rồi ngồi một
bên mà bạch rằng:
“Thưa Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên, nên biết, Đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không
phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa.
“Tỳ-kheo, nếu người đối với tư niệm nhân đó mà xuất gia học đạo, tu tập tư
tưởng, và đối với pháp hiện tại, quá khứ và vị lai, mà không ái, không
lạc, không đắm trước, không trụ, đó gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế
sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh, tắng tật,
siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện
khác, đó gọi là tận cùng sự khổ’. Chúng tôi liền suy nghĩ rằng: ‘Này chư
Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn vừa nói vắn
tắt?’ Rồi chúng tôi lại suy nghĩ: ‘Chỉ có Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thường
được Đức Thế Tôn và các vị phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn nói vắn tắt
ấy. Ngưỡng mong Tôn giả Đại Ca-chiên-diên thương xót mà giảng rộng cho!”
Bấy giờ Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên bảo rằng:
“Này chư Hiền, hãy
nghe tôi nói ví dụ này. Người có trí tuệ nghe dụ này sẽ hiểu rõ nghĩa lý.
“Này chư Hiền, ví
như có người tìm lõi cây. Vì muốn tìm lõi cây nên người ấy cầm búa vào
rừng. Người ấy thấy cây đại thọ đã thành rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa và
lõi. Người ấy không đụng đến rễ, thân, cành, lõi, mà chỉ đụng đến nhánh và
lá. Những điều chư Hiền nói cũng giống như vậy. Đức Thế Tôn đang ở đây mà
chư Hiền lại bỏ Ngài đến tôi để hỏi nghĩa này. Vì sao vậy? Này chư Hiền,
nên biết, Đức Thế Tôn là Bậc có mắt, là Bậc có trí. Ngài là Pháp, là Bậc
Pháp Chủ, là Pháp tướng, là Bậc nói nghĩa chân đế, hiển hiện tất cả nghĩa.
Do đó chư Hiền nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn mà hỏi nghĩa này, rằng: ‘Bạch
Thế Tôn, điều này là thế nào? Điều này có nghĩa gì?’ Nếu như Đức Thế Tôn
có nói gì thì chư Hiền hãy khéo léo nhận lãnh và ghi nhớ”.
Bấy giờ các Tỳ-kheo
bạch rằng:
“Đúng vậy, thưa Tôn
giả Đại Ca-chiên-diên, Đức Thế Tôn là bậc có mắt, là bậc có trí. Ngài là
nghĩa, là Pháp, là bậc Pháp chủ, là bậc Pháp tướng, là bậc nói nghĩa chân
đế, hiển hiện tất cả nghĩa. Do đó chúng tôi nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn mà
hỏi nghĩa này, ‘Bạch Thế Tôn, điều này là thế nào? Điều này có nghĩa gì?’
Nếu như Đức Thế Tôn có nói gì thì chúng tôi khéo léo nhận lãnh rồi ghi
nhớ. Nhưng thưa Tôn giả Đại Ca-chiên-diên, Ngài thường được Đức Thế Tôn và
các vị phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có thể phân
biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn vừa nói vắn tắt ấy. Ngưỡng mong Tôn
giả Đại Ca-chiên-diên thương xót mà giảng rộng cho”.
Tôn giả Đại
Ca-chiên-diên bảo các Tỳ-kheo:
“Vậy, này chư Hiền,
xin hãy nghe tôi nói”.
“Này chư Hiền, duyên
nhãn và sắc mà sanh nhãn thức. Ba sự này cùng tụ hội liền có xúc. Do duyên
xúc nên có cảm thọ. Có cảm thọ thì có tưởng. Có tưởng thì có tư duy. Có tư
duy thì có niệm. Có niệm thì có phân biệt.
“Tỳ-kheo do suy niệm
như vậy nên xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, trong đó đối với pháp hiện
tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước, không trụ; đó
gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh sử, kiến
sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói hai lưỡi và vô
lượng pháp ác bất thiện khác. Đó gọi là tận cùng sự khổ.
“Với tai, mũi, lưỡi,
thân cũng vậy. Duyên ý và pháp mà phát sanh ý thức. Ba sự cùng tụ hội liền
có xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Có cảm thọ thì có tưởng. Có tưởng thì
có tư duy. Có tư duy thì có suy niệm. Có suy niệm thì có phân biệt.
Tỳ-kheo do niệm ấy mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, trong đó đối với
pháp hiện tại, quá khứ và vị lai không ái, không lạc, không đắm trước,
không trụ. Đó gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô
minh sử, kiến sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối, nói
hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác. Đó gọi là tận cùng sự khổ.
“Này chư Hiền,
Tỳ-kheo trừ con mắt, trừ sắc, trừ nhãn thức mà có xúc, mà giả thiết có
xúc, điều này không thể có. Nếu không giả thiết có xúc mà giả thiết có cảm
thọ, điều ấy kkhông xảy ra. Nếu không giả thiết cảm thọ mà giả thiết có
suy niệm rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều này không thể có. Với
tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Trừ ý, trừ pháp, trừ ý thức mà có xúc, giả
thiết có xúc, điều này không thể có. Nếu không giả thiết xúc mà có thọ,
giả thiết có thọ, điều này không thể có. Nếu không giả thiết thọ mà giả
thiết có suy niệm, rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều này không
thể có.
“Này chư Hiền, do con mắt, do sắc, do nhãn thức mà có xúc, giả thiết có
xúc, điều này có thật. Do giả thiết xúc mà có thọ, giả thiết có thọ, điều
này có thật. Do giả thiết thọ mà giả thiết có suy niệm rồi xuất gia học
đạo, tu tập tư tưởng, điều này có thật. Do giả thiết thọ mà giả thiết có
suy niệm rồi xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều này có thật.
“Với tai, mũi, lưỡi,
thân cũng vậy. Do ý, do pháp, do ý thức mà có xúc, chủ trương có xúc, điều
này có thật. Do chủ trương xúc mà có cảm thọ, giả thiết có cảm thọ, điều
này có thật. Do giả thiết có cảm thọ mà giả thiết có suy niệm, rồi xuất
gia học đạo, tu tập tư tưởng, điều này có thật.
“Này chư Hiền, Đức
Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng rãi mà từ chỗ
ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất tĩnh tọa, ‘Tỳ-kheo, nếu người đối với tư
niệm nhân đó mà xuất gia học đạo, tu tập tư tưởng, và đối với pháp hiện
tại, quá khứ và vị lai, mà không ái, không lạc, không đắm trước, không
trụ, đó gọi là tận cùng sự khổ. Dục sử, nhuế sử, hữu sử, mạn sử, vô minh
sử, kiến sử, nghi sử, đấu tranh, tắng tật, siểm nịnh, lừa bịp, nói dối,
nói hai lưỡi và vô lượng pháp ác bất thiện khác, đó gọi là tận cùng sự
khổ’. Đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không phân biệt rộng
rãi. Tôi đã diễn rộng câu ấy, văn ấy như vậy.
“Này chư Hiền, có
thể đi đến chỗ Phật, tường trình lại đầy đủ, nếu đúng như nghĩa mà Đức Thế
Tôn muốn nói, chư Hiền hãy nhận lãnh và ghi nhớ”.
Khi ấy các Tỳ-kheo
nghe những gì Tôn giả Đại Ca-chiên-diên nói, khéo ghi nhớ, tụng đọc, từ
chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Tôn giả Đại Ca-chiên-diên ba vòng rồi đi
đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi xuống một bên mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, vừa rồi Đức Thế Tôn nói nghĩa này một cách vắn tắt, không
phân biệt rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh thất nghỉ ngơi.
Tôn giả Đại Ca-chiên-diên đã đem những câu này, văn này mà diễn rộng ra”.
Đức Thế Tôn nghe
xong, khen rằng:
“Lành thay! Lành
thay! Trong hàng đệ tử của Ta, có vị là bậc có mắt, có trí, có pháp, có
nghĩa. Vì sao? Vì khi Tôn sư nói nghĩa này cho họ từ một cách vắn tắt,
không phân biệt một cách rộng rãi, mà vị đệ tử kia đã diễn rộng ra những
câu ấy, văn ấy. Đúng như những gì Tỳ-kheo Đại Ca-chiên-diên đã nói, các
thầy hãy nên nhận lãnh rồi ghi nhớ như vậy. Vì sao vậy? Vì nói, quán nghĩa
phải như vậy.
“Này các Tỳ-kheo, ví
như có người do đi đến chỗ rừng vắng, trong rừng sâu, giữa những cây cối,
bỗng nhiên gặp được bánh mật,
vị ấy ăn, thưởng thức vị ngọt; thiện nam tử cũng giống như vậy, ở trong
Pháp Luật chân chánh này của Ta, tùy theo những gì được quán sát, vị ấy
thưởng thức được vị ngọt của nó. Quán sát con mắt, thưởng thức được vị
ngọt. Quán sát tai, mũi, lưỡi, thân, quán sát ý thưởng thức được vị ngọt”.
Bấy giờ Tôn giả
A-nan đang cầm quạt hầu Đức Thế Tôn, Tôn giả A-nan liền chắp tay hướng
Phật mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, Pháp
này tên gọi là gì? Chúng con phải phụng trì như thế nào?”
Đức Thế Tôn nói:
“Này A-nan, Pháp này
tên là ‘Mật hoàn dụ’,
ông hãy
nên nhận lãnh và ghi nhớ”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn
bảo các Tỳ-kheo:
“Các ngươi hãy nhận
lãnh pháp ‘Mật hoàn dụ’ này, phải thường tụng đọc. Vì sao vậy? Này các
Tỳ-kheo, pháp “Mật hoàn dụ” này có pháp, có nghĩa, là gốc của phạm hạnh,
dẫn đến trí thông, dẫn đến giác ngộ, đưa đến Niết-bàn. Nếu là thiện nam tử
cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình học đạo, thì hãy nên khéo léo nhận lãnh, ghi nhớ pháp ‘Mật hoàn dụ’
này”.
Phật thuyết như vậy.
Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 10
107
|
108 |
109
|
110
|
111
|
112
|
113
|
114
|
115
|
116
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003