TÌM HIỂU VỀ ÂM NHẠC PHẬT GIÁO
Đồng Thành
---o0o---
Âm nhạc vốn là
một loại hình nghệ thuật luôn gắn liền với đời sống con người. Với tôn
giáo, âm nhạc là một phương tiện thực nghiệm tâm linh cao cả, một hình
thức biểu hiện niềm tin thiêng liêng, thanh thoát. Mang tinh thần giáo lý
từ bi và giải thoát, lễ nhạc Phật giáo là phương tiện đem đến người Phật
tử một đời sống thanh thản và hướng thượng. Trong bài này, chúng tôi bước
đầu tìm hiểu những bước hình thành âm nhạc Phật giáo.
Vốn
là một phương tiện biểu hiện cảm xúc và tư tưởng, xưa nay âm nhạc vẫn luôn
là một hình thức sinh hoạt tinh thần không thể thiếu trong đời sống con
người, suốt cả chiều dài lịch sử. Khi đề cập đến vai trò của âm nhạc trong
cuộc sống, dù rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau, nhưng không một ai có
thể phủ nhận một sự thật là âm nhạc luôn gắn liền với cuộc đời của mỗi
người. Từ khi còn nằm trong nôi, con thơ đã nghe được lời ru ngọt ngào tha
thiết của mẹ hiền. Khi trưởng thành, người ta có dịp tiếp xúc với vô số
giai điệu khác nhau, vui hay buồn, nhộn nhịp hay trầm lắng, lạc quan hay
tuyệt vọng của trường đời. Rồi khi một ai đó đi về cõi vô biên, những âm
thanh thống thiết, xót xa của nhạc tang lại trầm bổng ngân vang nơi nâm mồ
hoang liêu, cô quạnh.
Thuở Đức Phật còn
tại thế, các vị Tỳ kheo tu tập rất tinh cần. Ngoài việc khất thực, nghe
pháp hay giáo hoá quần chúng, họ dành toàn bộ thời gian còn lại cho việc
tu tập thiền quán. Lúc ấy, âm nhạc chỉ phù hợp với người cư sĩ tại gia,
còn đối với Tăng đoàn thì âm nhạc được xem là không phù hợp lắm vì nó
thường gợi lên những tính cảm bi luỵ, quyến luyến, làm xáo động tâm thức
và gây ra nhiều trở ngại cho sự thăng hoa của tâm linh. Mỗi khi tụ hội và
ôn lại những lời dạy của Đức Phật, chư vị Tỳ kheo chỉ tụng theo ngữ điệu
thông thường, không có nhạc cụ, và dĩ nhiên cũng không tán tụng du dương
như thời nay. Kinh Tỳ Ni Mẫu có kể chuyện một Tỳ kheo nọ rất đam mê âm
nhạc. vị ấy thường hay tấu lên những khúc nhạc véo von khi tụng lời Phật
dạy. Khi hay tin này, Đức Thế Tôn liền quở trách và cấm không cho vị ấy sử
dụng âm nhạc nữa. Âm nhạc không những làm nhiễu loạn tâm tư của kẻ phàm
phu mà ngay cả ngài Ca Diếp cũng bất giác rung chân nhịp theo từng âm điệu
trong lúc 500 vị tiên nhân đang vui đùa ca múa. Đối với hàng Phật tử tại
gia, Đức Thế Tôn cho phép họ được ca múa, đánh đàn, thổi sáo, tấu nhạc để
tỏ lòng thành kính của mình, tán thán và cúng dường lên ngôi Tam bảo.
Người Phật tử Ấn Độ thời bấy giờ thường dùng điệu Raga, một làn điệu âm
nhạc nhịp nhàng, êm ái cổ xưa để bày tỏ niềm tri ân với Đức Phật. Âm Nhạc
Phật giáo được hình thành từ những hình thái ban đầu này.
Đức Phật luôn nhắc
nhở các đệ tử của ngài rằng, sự tham đắm, luyến ái chính là cội gốc của
sanh tử luân hồi, người nào chưa đoạn trừ được tham ái cứ mãi chìm đắm
trong dòng đời khổ đau chập chùng. Do vậy, Ngài khuyên những người xuất
gia cần phải nhiếp tâm tu trì, không dong ruổi theo thế gian; thay vì tìm
kiếm niềm vui trong âm nhạc như người thế tục thì hàng xuất gia nên tìm
niềm an lạc chân thật, kỳ diệu trong thể tánh thanh tịnh của mình. Hầu hết
giới luật dành cho người xuất gia cũng như giới Bát quan trai của người
Phật tử đều răn cấm các giới tử không được biểu diễn hoặc xem nghe âm
nhạc. Kinh Phạm Võng Bồ Tát nói: “Chẳng được đi xem hát, nghe nhạc, chơi
cờ, đánh bạc…”. Như vậy ngay cả hàng Bồ Tát mới phát tâm cũng còn phải giữ
cấm giới về âm nhạc . Còn đối với các bậc Bồ Tát thượng thừa trở lên, âm
nhạc là một trong những phương tiện cho việc hoá độ chúng sanh. Tuy các
Ngài đàn hát, ca múa… hay làm những việc thế tục để tuỳ thuận chúng sanh,
nhưng không một mảy bụi nào có thể bám vào tâm thể chói ngời, không một âm
thanh sắc tướng nào có thể lay chuyển tâm kim cang bất hoại của các Ngài.
Khi xưa cũng vì phương tiện độ sanh mà Đức Phật cũng dùng đến âm nhạc. Căn
Bản Tạp Sự, quyển 38 có nói: “Đức Phật vì muốn độ nhạc thần Càn Thác Bà
Vương Thiện Ái đã lên trời tấu đàn Không hầu lưu ly ngàn dây”.
Sau khi Đức Phật
nhập Niết bàn, Phật giáo Đại thừa được hình thành và phát triển mạnh mẽ
tại Ấn Độ, tạo nên một sinh khí mới, một sự thay đổi lớn lao trong dòng tư
tưởng triết học và hệ thống nhận thức luận Phật giáo . Phật giáo Đại thừa
với tinh thần nhập thế tích cực, với một thái độ phóng khoáng, cởi mở đã
đưa ra nhiều hình thức hoằng pháp khác nhau, trong đó âm nhạc Phật giáo có
một vai trò vô cùng quan trọng. Quan niệm về việc cấm đoán sử dụng âm nhạc
trong hàng xuất gia cũng có nhiều thay đổi, nhất là sau khi Bồ Tát Mã Minh
(đầu thế kỷ thứ II Tây lịch) tự mình thỉnh chuông đánh trống, điều hoà
cung bậc đàn sáo, dùng âm nhạc để diễn thuyết yếu nghĩa của Phật pháp,
khiến cho 500 vị vương tử hồi tâm, cùng xin xuất gia trong Tăng đoàn.
Khi Phật giáo được
truyền sang Trung Quốc, một trong những mảnh đất văn hoá và thi ca của
phương Đông, thì quan điểm về âm nhạc trong PG thay đổi rất nhiều. Từ xa
xưa, người Trung Quốc rất say mê âm nhạc. Rất nhiều bài ca, câu hát thâm
tình của họ được ghi lại đầy đủ trong kinh Thi. Âm Nhạc dân gian Trung
Quốc phát triển mạnh đến nỗi các vị hoàng đế phải xây dựng các nhạc cung
để nghiên cứu chúng. Người Trung Quốc rất coi trọng lễ nhạc. Đối với họ
“lễ là dưỡng”, nghĩa là nuôi dưỡng tính trung chính, hoà ái, tôi luyện
nhân cách của mỗi người; còn “nhạc là vui, vui thì an, an ắt lâu dài”,
nghĩa là nhạc tôi luyện tính hoà ái, nhường nhịn tạo sự hoà thuận cho làng
xóm, thanh bình cho quốc gia. Với một quốc gia mà âm nhạc được đề cao như
thế, thì việc đưa Phật giáo vào chủ đề chính của nền thi ca, âm nhạc dân
gian là một việc làm rất có ý nghĩa trong việc hoằng pháp lợi sinh. Chính
vì lẽ đó, chư vị tổ sư đã nhanh chóng phát triển loại hình âm nhạc Phật
giáo dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo ông Tế Văn Đình, một chuyên gia
về âm nhạc dân gian Trung Quốc, thì âm nhạc Phật giáo đã xuất hiện tại
Trung Quốc cách đây hàng ngàn năm. “Điệp luyến hoa” là một trong nhiều ca
khúc dân gian nổi tiếng được mô phỏng theo các ca khúc Phật giáo được sáng
tác dưới triều Tống. Kinh điển Đại thừa thường diễn tả hình ảnh chư thiên
trổi nhạc, rải hoa cúng dường Đức Phật và các vị thánh Tăng. Kinh A Di Đà
cũng mô tả những âm thanh siêu thoát trong cảnh giới tịnh độ. Các công
trình kiến trúc Phật giáo cũng nổi bậc với những hình ảnh các thiên thần
đang đàn ca, tấu nhạc, thổi sao trong lúc Đức Phật đang thuyết pháp. Trong
Đại Trí Độ Luận, bồ tát Long Thọ có viết: “Bồ tát muốn thanh tịnh cõi Phật
thì phải dùng âm nhạc hay, muốn cho chúng sanh trong quốc độ nghe được
nhạc hay thì tâm họ phải nhu nhuyến. Tâm nhu nhuyến thì việc hoá độ được
dễ dàng. Vậy nên hãy dùng âm nhạc để cúng dường chư Phật”. Tiến sĩ Cao Nhã
Lợi, một nhà nghiên cứu âm nhạc Phật giáo Trung Quốc, cho rằng Phật giáo
Đại thừa có một quan niệm rất phóng khoáng về âm nhạc: “Thay vì lẫn tránh
âm nhạc một cách tiêu cực, hãy sử dụng chúng với một tinh thần cởi mở,
tích cực”. Chính quan điểm tiến bộ này đã làm cho âm nhạc càng ngày càng
thịnh hành trong các vùng Phật giáo Đại thừa và rồi nó trở thành một nét
văn hoá đặc trưng của truyền thống này. Hiện nay các nhà nghiên cứu âm
nhạc Trung Quốc đã sưu tầm các tác phẩm âm nhạc Phật giáo cổ và hiện đại
vào một bộ sưu tập gồm 50 quyển. Hầu hết, các chuyên gia âm nhạc Phật giáo
tại Trung Quốc và Đài Loan đều phân loại âm nhạc Phật giáo ra hai loại
chính đó là: lễ nhạc Phật Giáo và âm nhạc Phật giáo thông thường.
Lễ nhạc Phật giáo
là một loại âm nhạc thuần tuý mang tính tôn giáo, bao gồm các nghi lễ
thường nhật trong các tự viện do các vị xuất gia thực hiện. Đối với các vị
Tỳ kheo, lễ nhạc Phật giáo là một phương tiện để biểu lộ niềm tin, một
trong những phương tiện tu tập, vì thế nó không bị ràng buộc vào một hình
thức nghệ thuật cố định nào cả. Từng lời kinh sâu lắng, thanh tao hoà vào
trong hương trầm quyện bay và nhịp điệu, âm vang thanh thoát của các pháp
khí như Chuông, Mõ, Khánh, Đẩu …để rồi ngân vang trong cảnh trầm tịch của
chốn thiền môn đã tạo nên một thế giới tâm linh siêu phàm thoát tục. Trong
cảnh giới ấy, chân lý và tinh tuý Phật giáo được thể hiện qua những giai
âm, thanh điệu một cách kỳ diệu. Khi chứng kiến được cảnh giới ấy, ngay cả
những người bình thường cũng cảm thấy lòng mình bỗng trào dâng một niềm hỷ
lạc. Tác phẩm “Văn Hoá Khổ Lữ” của Thừa Thu Vũ có kể một câu chuyện nói
lên sự vi diệu của lễ nhạc Phật giáo: Khi còn trẻ, ông Vũ là một cậu bé
kháu khỉnh, dễ mến. Một hôm có một toán người lạ mặt đến dụ dỗ rồi bắt ông
mang về làng của họ. Trời tối đến cả đoàn người ghé vào một ngôi nhà để
nghỉ qua đêm để sớm mai đi tiếp. Trong đêm thanh vắng, tiếng tụng kinh của
các vị Tăng trong một ngôi chùa gần đó ngân xa vang vọng, làm cho đoàn
người ai nấy đều hồi tâm hướng thiện. Họ cảm thấy xấu hổ với việc làm của
mình, và sáng hôm sau, họ liền mang cậu bé Vũ trả lại nơi cũ. Lễ nhạc Phật
giáo với những âm điệu u huyền luôn diễn tả những tư tưởng triết lý thâm
sâu, khơi nguồn cho dòng suối từ bi tuôn trào bất tận, và đôi khi nó cũng
trở thành một thứ lương dược xoa diệu bao nỗi đau sâu kín trong mỗi người.
Huệ Quán là một sinh viên tại một trường đại học ở Đài Loan. Lúc tốt
nghiệp đại học cũng chính là lúc cô rơi vào thảm cảnh oan nghiệt của gia
đình. Cô cảm thấy đau xót, tuyệt vọng và không còn tha thiết với cuộc sống
nữa. Theo lời khuyên của một người bạn, cô đã tham dự một khoá tu tại một
ngôi chùa hẻo lánh trên núi cao. Một đêm nọ, khi đang trầm ngâm về cuộc
đời bất hạnh của mình, cô bỗng nghe tiếng tụng kinh cùng âm điệu nhịp
nhàng của chuông, mõ từ xa vang vọng lại, rồi dường như có một sự ấm áp lạ
lùng toả khắp cõi lòng giá buốt và trống vắng của cô, bao nhiêu phiền lụy,
bao nỗi chán chường đều tan biến và thay vào đó là một niềm thanh thản an
lạc vô biên. Ngay ngày hôm sau, cô liền xin quy y và xuất gia đầu Phật.
Loại âm nhạc Phật giáo thông thường là những bài hát, những ca khúc, các
điệu hợp xướng…mang chủ đề Phật giáo. Âm nhạc Phật giáo mang âm điệu thâm
trầm, sâu lắng, phát xuất từ quan niệm cuộc đời như một giấc mơ, một huyễn
cảnh. Các ca khúc Phật giáo đều có khuynh hướng thức tỉnh những ai còn mãi
đắm say trong cõi vô thường, thôi thúc người nghe hãy chọn cho mình một lý
tưởng sống cao đẹp.
Ngày nay, nhân loại đang hướng về cội nguồn của dân tộc mình, tìm lại
những giá trị luân lý đạo đức mà tổ tiên đã hun đúc qua bao thế hệ, vì thế
việc bảo tồn và phát triển các hình thức nghệ thuật, trong đó có âm nhạc
tôn giáo, là một điều vô cùng cần thiết. Vấn đề đặt ra cho các nhà sáng
tạo âm nhạc Phật giáo hiện nay là phải làm sao cho các bài hát Phật giáo
không bị ảnh hưởng theo xu hướng thế tục, và làm cách nào để mỗi ca khúc
Phật giáo hội đủ hai yếu tố chân lý và nghệ thuật trên cả hai phương diện
nội dung và hình thức. Hoà thượng Tâm Định, viện chủ Phật Quang Sơn tại
Đài Loan nói rằng, âm nhạc là một hình thức hữu hiệu nhất để chiếm được
tình cảm quần chúng. Nếu âm nhạc Phật giáo đổi mới quá nhiều theo khuynh
hướng thế tục thì nó sẽ không gợi lên những tình cảm tôn giáo sâu sắc.
Nhưng vốn là một phương tiện đưa đến giác ngộ nên âm nhạc Phật giáo có thể
làm cho người đời gần gũi với Phật giáo hơn, và đó cũng là phương tiện cần
thiết để thức tỉnh mọi người hướng về chân trời giải thoát.
Hiện nay, Đài Loan là nơi mà âm
nhạc Phật giáo đang phát triển nhanh nhất. Từ năm 1979, đại sư Tinh Vân,
vị khai sáng Phật Quang Sơn, đã nghiên cứu kết hợp những yếu tố của âm
nhạc phương tây và lễ nhạc Phật giáo để sáng tác một thể loại âm nhạc Phật
giáo sinh động, mới mẻ phù hợp với trào lưu và thị hiếu âm nhạc hiện đại.
Phật Quang Sơn đã tổ chức rất nhiều buổi biểu diễn âm nhạc trong nước và
đã cử các đoàn âm nhạc biểu diễn tại Nhật Bản, Hồng Công, và Châu Âu.
Những buổi biểu diễn âm nhạc Phật giáo của đoàn âm nhạc Phật Quang Sơn và
các tổ chức Phật giáo khác tại Đài Loan luôn thu hút đông đảo khán giả
tham dự. Trong một buổi trình diễn âm nhạc giao hưởng Phật giáo được tổ
chức vào đầu năm nay tại Phật Quang Sơn, một số học giả bày tỏ mối lo ngại
về xu hướng thế tục hoá âm nhạc Phật giáo. Song, cũng có nhiều ý kiến cho
rằng âm nhạc Phật giáo hiện đại phải mang một tinh thần phóng khoáng,
không nên quá thiên về tình cảm tôn giáo, miễn sao cho thính giả cảm thấy
thanh thản, an lạc khi nghe một bản nhạc Phật giáo. Giới trẻ tại Đài Loan
rất thích các đĩa nhạc Phật giáo mang phong cách hiện đại. Ngoài các phim
truyện Phật giáo, có nhiều album âm nhạc Phật giáo đã được phát hành được
hàng trăm ngàn bản và có cả album được chọn cho các giải thưởng nghệ thuật
như Chú Đại Bi và Lục Mẫu Tâm Chú.
Trong thời đại mới, khi âm nhạc
Phật giáo đang trở thành một nhu cầu mới của quần chúng đặc biệt là các
Phật tử, các nhà soạn nhạc cần phải có một cách nhìn mới về việc sáng tác
nhạc Phật giáo. Họ cần phải thấy rỏ sự nguy hiểm của những loại âm nhạc
thiếu văn hoá đưa người nghe đến chỗ bi lụy, tuyệt vọng, chán chường hay
mất đi chí cầu tiến của mình. Bản thân các nhà sáng tác nhạc Phật giáo cần
phải ý thức được sứ mạng cao cả của mình là cho ra đời những ca khúc Phật
giáo mang tính luân lý giáo dục, giúp cho người nghe thâm nhập diệu lý
nhân quả vô thường, từ bi, vô ngã… để từ đó họ có thể thực hiện một nếp
sống lành mạnh, hướng thượng, vị tha, để tự mình tận hưởng niềm hạnh phúc
chân thật ngay trong đời sống hiện tại của mỗi người.
Tài liệu tham khảo.
- Tạp chí Sinorama, 8/2000
- Lược Sử Âm Nhạc Thế Giới
- Cương Yếu Giới Luật - PS
Thánh Nghiêm.
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 1-2-2004