TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập III
=================
60.
THIỀN SƯ PHÁP DUNG
(1)
Theo bia chùa Hương Nghiêm do Hoàng Xuân Hãn phát hiện và dẫn trong Lý
Thường Kiệt tr.453-461 thì Dung đúng ra phải có tên Đạo Dung “nhưng những
bản nay còn đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần
Hưng Đạo”. Thiền uyển tập anh, như một tác phẩm đời Trần, như vậy chắc đổi
chữ Đạo thành chữ Pháp.
(2)
Chùa Hương Nghiêm nay vẫn còn ở xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Chính tại nơi đây, mà ta tìm tấm bia dựng vào năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5
Giáp Thìn (1124) kể lại sự tích chùa và sự tích sư Đạo Dung. “Chùa này
hoàn toàn mới, các vật trong chùa đều mới, trừ quả chuông đúc đời Gia
Long. Trong vườn không thấy có tháp cổ. Còn có hồ”. Tấm bia chùa này còn
đọc rõ được là nhờ một nhà Sư tên Lê Văn Nghị trú trì chùa đó đã thuê thợ
đúc lại theo nét chữ xưa vào năm Lê Bảo Thái thứ 7 (1726).
“Ngày
nay làng Phủ lý không có núi. Núi Càn Ni chép ở bia, có lẽ chỉ là mô đất
cao hơn cánh đồng chung quanh”. Đấy là ý kiến của Hoàng Xuân Hãn. Núi Càn
Ni ở bên chùa Hương Nghiêm, tức núi Ma Ni ở đây, vì chữ Càn là húy đời
Trần. Đại Việt sử ký toàn thư B6 tờ 30a2-3 nói: “Cửa Cần trước đổi là Càn
vì tránh húy nên gọi làm Cần. Càn Ni, do thế bị tác giả Thiền uyển tập anh
đổi thành Ma Ni.
(3)
Tức xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, bởi vì không những
ngày nay xã đó đang có chùa Hương Nghiêm, trái lại còn về phía tây xã hiện
có hai làng Viên Quang và Hồ Đàm, đất của giáp Viên Đàm, mà bia chùa Hương
Nghiêm nói tới là đã có sự tranh chấp đất đai với giáp Bối Lý. Đất giáp
Bối Lý có lẽ phải bao gồm cả những đất của làng Nhân Lý và Mỹ Lý nữa.
(4)
Theo bia chùa Hương Nghiêm thì Lê Lương là người đầu tiên dựng chùa Hương
Nghiêm ở giáp Bối Lý vào thời Hậu Đường (923-937). “Ông thuộc một cự tộc ở
quận Cửu Chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu
rất có thế lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3000
người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật”. Đến khi Đinh Tiên
Hoàng lên ngôi vào năm 968, ông được phong Ái Châu Cửu Chân đô oai quốc
dịch sứ, hàm Kim tử quang lộc đại phu, phong ấp. Ngoài chùa Hương Nghiêm
ra, bia còn nói ông có dựng chùa Trinh Nghiêm và Minh Nghiêm nữa, nhưng
nay ta chưa tìm thấy chúng. Chúng có thể ở hai làng Nhân Lý hay Mỹ Lý.
(5)
Theo bia chùa Hương Nghiêm thì đến đời Lý, vua Lý Thái Tông đi chơi về
phương nam tới Ái Châu có qua chùa ấy. Hoàng Xuân Hãn sđd. tr. 456, dựa
vào Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư giả thiết Lý Thái Tông đến
chùa Hương Nghiêm khoảng năm 1031. Nhưng chùa, trải mấy đời thờ cúng,
rường cột đã đổ nát. Vua bèn sai sửa chữa lại. Vua lại ban cho cháu ông
Bộc xạ, là Đạo Quang trưởng lão làm thiền chủ, cấp cho 5 tên giúp việc, và
sai trụ trì ở đó”. Cha của Đạo Dung theo bia như vậy là Đạo Quang trưởng
lão, có lẽ đây là một tên phong khác, ngoài Huyền Ngung và Tăng Phán.
(6)
Bia chùa Hương Nghiêm: “Năm Bính Thìn (1076), Sư bỏ gia hương đi tìm bạn.
Cỡi thuyền ra bể, rồi tới Thăng Long. Ở đó thiền sư gặp một vị tăng hiệu
là Cao Tăng. Sư cảm phục, bèn theo học”. Xem Lý Thường Kiệt, tr. 457.
(7)
Bia chùa Hương Nghiêm: Đạo Dung hỏi: “Điều gì cốt yếu trong pháp?” Cao
tăng trả lời: “Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi”. Bỗng nghe Sư
thấy trong lòng nở nang, bèn giác ngộ. Xem sđd. tr. 457.
(8)
Bia chùa Hương Nghiêm: “Sư bèn ngược dòng sông Lô (Nhị Hà) trèo núi Thứu
Đài. Ngắm xem cảnh đẹp ấy, Sư dừng chân lại, cho là rất vừa ý. Sư sai thợ
chọn hướng, ghép đá làm nền, mà dựng nên chùa. Đặt tên là chùa Khai Giác.
Xem sđd. tr.458.
(9)
Hoàn Xuân Hãn, sđd, tr, 460, nhận xét: “Thiền uyển tập anh chép rằng: ‘Rồi
Sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm
Giáp ngọ 1174 đời Thiên Cảm Chí Báu’. Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm
1076 Sư đã ra Thăng Long. Nếu sống đến năm 1174, thì sư phải ít nhất cũng
một trăm hai mươi tuổi”.
Cứ theo
báo cáo của Hãn về cái bia chùa Hương Nghiêm này, thì quả thực nó đưa ra
khá nhiều vấn đề cho chúng ta về niên đại của Đạo Dung, bởi vì theo nó thì
năm 1076 Dung ra Thăng Long gặp Khánh Hỷ, năm 1087 (Hãn sửa lại là năm
1077) Dung trở về quê và yêu cầu tùng huynh Lưu Khánh Đàm sửa lại chùa
Hương Nghiêm, cùng năm này Dung được vua Lý Nhân Tông mời ra Thăng Long
lập đạo tràng trong cung, rồi năm 1122 Dung trở về quê, lại sửa chùa Hương
Nghiêm để ở. Sửa xong, viết bia đó vào năm 1124. Đến lúc này, thế nào Dung
cũng trên dưới 70 tuổi rồi. Không lẽ nào Dung còn sống thêm 50 năm nữa cho
tới năm 1174 mới mất sao? Nhưng cũng cần lưu ý rằng năm Bính Thìn 1076
cũng có thể là năm Bính Thìn 1136, năm Đinh Mão 1087 cũng có thể là năm
Đinh Mão 1147, và năm Nhâm Dần 1122 có thể là năm Canh Dần 1170.
61.
THIỀN SƯ TRÍ NHÀN
(1) Cả
hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều có “Trí thiền sư”. Nhưng Đạo
giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16a7-8 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn
Tây, mục Tăng thích, có ghi tên một vị thiền sư tên Trí Nhàn, mà chúng mô
tả như: “Người huyện Yên Lãng, siêng tu hạnh lành, thấy một con cọp đuổi
một con hưu bèn bảo: “Tất cả chúng sinh đều tiếc thân mình, mầy chớ hại
nhau”. Con cọp cúi đầu xuống đất mà đi. Bọn mọi Lào gần núi họp nhau ăn
trộm. Sư dẫn dắt khuyên dỗ, phần lớn cảm hóa theo lời sư dạy mà làm lành”.
Cứ vào
mô tả đó, thì thiền sư Trí Nhàn của Đạo giáo lưu nguyên, Đại nam nhất
thống chí, tức “Trí thiền sư” của Thiền uyển tập anh ở đây, chứ không ai
khác, bởi vì không những hợp về quê quán, mà còn hợp về những tình tiết
sống khác như chuyện nói chuyện với cọp và chuyện dạy “mọi Lào” đừng ăn
trộm. Chúng tôi do thế nghi rằng: “Trí thiền sư” của ba bản in Lê, Nguyễn
đã thiếu mất một chữ, đấy là chữ Nhàn, và tên đầy đủ của Trí thiền sư từ
đó phải là Trí Nhàn thiền sư. Chỉ có vấn đề là Đạo giáo nguyên lưu và Đại
nam nhất thống chí đã lấy tài liệu ở đâu đó có thể viết về thiền sư Trí
Nhàn như vậy. Chúng tôi nghi nó lấy từ An nam chí nguyên và đúng là nó lấy
ra từ sách đó. An nam chí nguyên 3 tờ 210 chép việc Trí Nhàn giống như Đại
nam nhất thống chí dẫn trên. Từ đó, dĩ nhiên cuốn sách ấy tất phải sử dụng
nếu không phải bản in Thiền uyển tập anh xưa nhất thì một tài liệu đã dùng
bản in Thiền uyển tập anh trước bản năm 1715 xưa nhất của chúng ta hiện
còn. Vì vậy, bản in trước năm 1715 chắc chắn phải có đầy đủ tên thiền sư
Trí Nhàn, chứ không phải cái tên thiếu là thiền sư Trí, mà bản in năm 1715
do in sót tạo ra, rồi di lụy đến bản in đời Nguyễn.
Chúng
tôi do vậy đề nghị bổ sung tên thiền sư Trí thành thiền sư Trí (Nhàn), để
cho tên các vị thiền sư ở đây được nhất quán. Thiền sư nào cũng có hiệu do
hai chữ ghép lại cả, dĩ nhiên trừ thiền sư Ấn độ.
(2) Yên
Lãng đây dĩ nhiên không phải là trại Yên Lãng, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà
Nội đời Nguyễn, mà là huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây đời Nguyễn, bởi vì
huyện Trí Nhàn ở đây nói “hai triều đại Anh và Cao Tông nhiều lần triệu
thỉnh mà Nhàn không đáp”, đến nỗi Tô Hiến Thành và Ngô Hòa Nghĩa phải “đem
lễ thầy trò đi tìm”, thì đủ rõ am của Nhàn tất không thể ở ngoại ô thành
phố Hà Nội được. Theo Đại nam nhất thống chí tỉnh Sơn Tây, mục Kiến trí
diên cách, thì Yên Lãng là tên huyện từ thời Đinh và Lý. Nay là huyện Yên
Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chúng
tôi hiện chưa truy ra một ngọn núi mang tên Cao đã thuộc huyện đấy.
(3)
Tức gồm đất huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. Xem chú thích (6)
truyện Pháp Hiền. Đại nam nhất thống chí nói Nhàn người huyện Yên Lãng.
Xem chú thích (1) trên.
(4)
Tức Lê Long Đĩnh, con thứ tư của Lê Đại Hành, được phong làm Ngự Man Vương
ở Phong Châu vào năm 991. Xem Đại Việt sử ký toàn thư B1 tờ 20a3 và Khâm
định Việt sử thông giám cương mục chính biên 1 tờ 26b1.
(5) Đại
Việt sử ký toàn thư B2 tờ 24bb3-4 viết: “Thông Thụy năm thứ 3 (1036) tháng
3, đem công chúa Kim Thành gả cho Châu mục Phong Châu Lê Thuận Tôn”. Đại
Việt sử lược 2 tờ 6b2 gọi công chúa Kim Thành là công chúa Khánh Thành. Lê
Thuận Tôn như vậy là con của Lê Long Đĩnh và là cháu nội của Lê Hoàn.
(6)
Châu mục đây phải là Châu mục Phong Châu, bởi vì tính tập ấm của chức ấy
dưới thời Lý. Nếu ông nội của Kiếm đã giữ chức Châu mục Phong Châu và Kiếm
lại là chắt ngoại của Lý Công Uẩn, thì mỗi sự tập ấm như vậy càng dễ
dàng, như trường hợp giòng họ Thân ở Lạng Giang.
(7)
Đại Việt sử ký toàn thư B7 tờ 40b8 viết: “Năm Long Khánh thứ 2 đình thí
tiến sĩ”. Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên 10 tờ 35a2
ghi: “Năm Long Khánh thứ 2 mùa xuân tháng 2 bắt đầu đặt khoa tiến sĩ”.
Nhưng cứ truyện Trí Nhàn ở đây thì từ tiến sĩ đã xuất hiện dưới thời Lý
Anh Tông, nếu không nói khoa tiến sĩ ra đời vào lúc ấy. An nam chí lược 14
tờ 133 có ghi chức cung hầu thư gia thuộc loại quan văn.
(8)
Dẫn kinh Kim cang tờ 752b:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán
(9)
Theo kinh Kim cang lời nói do đức Phật phát biểu ra có năm tính chất đây
là tính chân, tính thật, tính đúng, tính không dối, tính không thần dị.
Xem kinh Kim cang tờ 750b27: “Như Lai ngữ giả thị chân ngữ giả, thật ngữ
giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả”.
(10)
Đấy là thuyết chính danh của Nho giáo. Thuyết đấy cho rằng để thiết lập
trật tự xã hội và phục vụ lợi ích xã hội, thì người làm vua phải ra làm
vua, người làm cha phải ra người làm cha, người làm tôi phải ra người làm
tôi, người làm chồng phải ra người làm chồng, người làm vợ phải ra người
làm vợ v.v... nếu không được chính danh như vậy, xã hội sẽ loạn lạc, trật
tự bị đảo điên.
(11)
Tức thuyết tự lợi, lợi tha của Phật giáo. Trong Phật giáo, thông thường
chia làm hai phái, đấy là phái Thanh văn và phái Bồ tát. Phái Thanh văn có
nghĩa là phái nghe lấy những lời của Phật Thích Ca Mâu Ni để tu hành nhằm
giải phóng những khổ não do chính bản thân mình và chỉ nhằm sự giải phóng
đó thôi. Do thế, có một phái khác chủ trương phải giải phóng những khổ não
của những kẻ khác nữa, chứ không phải của chính mình. Phái này gọi là phái
Bồ tát, tức phái của những người nhằm sự giác ngộ hoàn toàn.
(12) Hy
Di chi lý, tức đạo lý cao siêu. Đạo đức kinh chương 14 định nghĩa chữ Hy
Di thế này: “Xem mà không thấy, gọi là Di, lắng mà không nghe gọi là Hi”.
Xem Đạo đức kinh thượng thiên tờ 7b2-3.
62.
THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG
(1)
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: “Núi Phổ Lại tại xã Phổ
Lại, huyện Quế Dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông Lục Đầu, cảnh
trí khoáng đãng. Trên núi có chùa Chúc Thánh, đó là nơi tu hành luyện tính
của thiền sư Không Lộ. Thời Trần, vua quan thường hay đến đó ngâm
vịnh..”.. Xem thêm Đại nam nhất thống chí tỉnh Bắc Ninh, mục Sơn xuyên.
Nay là núi Phả Lại tại xã Phả Lại, huyện Quế Dương, tỉnh Hà Bắc.
Một khi
đã xác định vị trí của núi Phả Lại như thế, thì vị trí của Phù Lan tất
không thể giới hạn theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên
1 tờ27a4 được, bởi vì theo nó thì “Phù Lan là tên một trại, nay là xã Phù
vệ thuộc huyện Đường hào, tỉnh Hải Dương”. Đất của trại Phù Lan đời Lê và
Lý, ngoài huyện Đường hào ra, còn phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện
Quế Dương và có thể là huyện Chí Linh nữa.
(2) Đại
Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: “Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055)
dựng chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu”. Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ
6a1 viết: “Núi Đông Cứu tại huyện Gia Định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng,
ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên Thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh
Dụ Tổ thường đến chơi nơi ấy..”.. Huyện Gia Định năm Minh Mạng thứ nhất
(1820) đổi làm huyện Gia Bình, nên Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh,
mục Sơn xuyên nói: “Núi Thiên Thai tại tây bắc huyện Gia Bình 5 dặm, một
ngọn đứng cao chót vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó
xuống dòng sông. Trên núi có chùa, có thể gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi
Đông Cứu một tên là núi Đông cao”.
Vị sư
Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không
biết một tí gì.
(3)
Qui mộc tương giao. Điển rút từ kinh Tạp a hàm: “Trong biển lớn có một con
rùa đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló đầu lên một lần. Lại
có một khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà
trôi đông hay trôi tây. Con rùa mù một trăm năm ló đầu ra một lần mà gặp
lỗ hổng của khúc gỗ đó, thật là khó thay”. Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm
kinh Niết bàn: “Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời
cũng khó. Giống như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ hổng trên
khúc cây”. Xem Đại bát niết bàn kinh 2.
(4)
Tức phải chỉ Thân Đạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình
Dương, bởi vì không những Nguyên đồng thời với Lý Thường Kiệt, mà còn vì
vợ của Nguyên là công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân
Không. Theo Đại Việt sử lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là
Thân Cảnh Nguyên, được Lý Thánh Tông chọn làm Phò mã năm 1059 và 1066 thì
chính thức cưới công chúa Thiên Thành. Tục tư tri thông giám trường biên
279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh Phúc, còn Mộng khê bút đàm 2 thì gọi
là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu
sao, Nguyên là một trong những vị tướng lãnh có công đầu trong trận chống
quân xâm lược Tống năm 1075.
(5)
Thiền sư Động Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà
ngộ đạo, bèn làm bài thơ:
Thiết kỵ tùng tha mích
Thiều thiều dữ ngã cư
Ngã kim độĂc tự vãng
Xứ xứ phùng đắc cừõ
(Rất kỵ tìm nơi khác
Cùng ta nó luôn đi
Ta nay riêng tự đến
Nơi nơi đều gặp y)
Xem
Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm “nơi nơi đều gặp y” là rút từ bài
thơ vừa dẫn.
(6)
Kiếp hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị
thiêu rụi bởi một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời. Ngọn lửa đấy gọi
là kiếp hỏa hay lửa kiếp. Xem A Tỳ Đạt Mạ Câu Xá Luận 12. Quan niệm thế
mạt đó sau này thiền tông mượn để đặt thành công án. Công án thứ 29 của
Bích nham lục đặt vấn đề thế này: “Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu
hoại, thì cái gì hoại, cái gì không hoại?”. Xem Bích nham lục 3 tờ
169a17-18.
(7)
Tuổi hạ mà từ Phật học Trung Quốc gọi là hạ lạp, là một thứ tuổi tính theo
tiêu chuẩn tổ chức Phật giáo. Tuổi ấy bắt đầu tính từ khi một người được
chính thức nhận vào tổ chức Phật giáo của những người xuất gia, thể hiện
qua việc người đó chấp nhận những kỷ luật đầy đủ của một người sống hoàn
toàn theo Phật giáo, tức kỷ luật Tỳ kheo. Chỉ khi nào chấp nhận kỷ luật
đó, tức thường gọi là “Cụ túc giới”, tuổi hạ bắt đầu tính.
Mỗi tuổi
hạ là tương đương với một tuổi đời, bởi vì nhận giới Tỳ kheo mỗi năm phải
sống cấm túc ba tháng mùa mưa, còn những tháng khác họ phải đi lang thang
hoạt động truyền giáo, nên nếu ai sống mỗi năm được ba tháng cấm túc đó
thì được một tuổi hạ.
(8)
Hoàng thái hậu đây tức Linh Nhân Hoàng thái hậu (?-1117), mẹ của Lý Nhân
Tông. Xem chú thích (3) truyện Thông Biện. Còn Thiên Thành công chúa
(?-1149) là con của Lý Thánh Tông và là vợ của Thân Đạo Nguyên. Xem chú
thích (3) ở trên.
(9) Cả
hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều viết: “Đệ tử Mậu Nhân ni sư”.
Nhưng truyện của Ni sư ở tờ 67a8 thì nói Ni sư tên Diệu Nhân. Chúng tôi
nghi chữ Mậu là một sai khác của chữ Diệu, kỵ húy tên mẹ Trần Thái Tông là
Lê Thị Diệu , nên Diệu đổi làm Mậu.
(10)
Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b3-6 chép y nguyên bài thơ, trừ câu thứ 5 mà nó
chép thành: “Vân oanh bích thảo thiêm tân Pháp”. Về những bàn cãi liên
quan tới tác giả bài thơ này cùng bài thơ ở truyện Quảng Trí xem chú thích
(3).
63.
THIỀN SƯ ĐẠO LÂM
(1)
Cái tên Long Phúc được nhắc tới hai lần trong Thiền uyển tập anh một ở đây
và một ở truyện Y Sơn tờ 70b1. Cứ vào thành phần cấu tạo nên nó, tức làng
Siêu Loại và Đại thông trường, ta có thể xác định phần đất đó thuộc gồm
hai huyện Siêu Loại và Gia Bình đời Nguyễn, tức huyện Thuận Thành và phần
bắc huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc hiện nay. Về vị trí là làng Siêu Loại,
xem chú thích (1) truyện Thiện Hội về Đại thông trường. Xem chú thích (1)
truyện Y Sơn.
(2)
Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: “Huyện Chu Diên đời Hán đặt thuộc
quận Giao Chỉ, đời Đường đổi làm Diên Châu, đời Lê là phủ Tam Đái, nay tức
đất đất phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây”. Nhưng cả Tùy thư 21 tờ 7b8 lẫn Cựu
đường thư 41 tờ 42b11 đều nói Chu Diên là đất quận Vũ Bình thời trước. Mà
ta đã khảo ra đất quận Vũ Bình rơi vào khoảng tỉnh Hưng Yên ngày nay. Xem
chú thích (2) truyện Tịnh Lực. Ngoài ra Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ
13a1 và Thái Bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu Diên ở về phía đông
nam, trị phủ Giao Châu, nghĩa là đóng phía nam thành phố Hà Nội ngày nay.
Chi tiết này Độc sửu phương dư kỷ yếu cũng chép y lại. Như vậy Chu Diên
chắc chắn phải nằm phía đông nam thành phố Hà Nội, nhưng nó gồm phần đất
những huyện nào?
Truyện
Đạo Lâm đây nói Lâm “người Cửu Cao, Chu Diên”. Mà cứ Đại Việt lịch triều
đăng khoa lục 2 có ghi ba người đỗ tiến sĩ xuất thân từ làng Cửu Cao “hạt
Gia Lâm”. Đây là Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514
và Nguyễn Di khoa năm 1532. Làng Cửu Cao này đến khoảng năm 1685 thì đổi
thành làng Thượng tốn bởi vì khoa năm đó có Đỗ Công Bật “người hạt Thượng
tốn”, đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đến con của Bật là Đỗ Công
Đỉnh cũng là đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa 1706 và Đỉnh lại ghi là
người làng Thượng Tốn, hạt Gia Lâm. Mà ta biết làng Thượng Tốn là làng Cửu
Cao đổi ra, vì Đại Việt lịch triều đăng khoa khi nói Trần Văn Bính là
người làng Cửu Cao, thì có chua thêm tức làng Thượng Tốn”.
Như vậy,
làng Cửu Cao, Chu Diên nay là làng Thượng Tốn, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc
Ninh. Địa phận của Chu Diên do thế phải ăn thâm vào phần đất của huyện Gia
Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Vùng Chu Diên xưa từ đó có thể gồm phần đất của những
huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh và huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên ngày nay.
(3)
Tức chỉ Phật giáo, bởi vì toàn bộ tư tưởng Phật giáo được xếp thành Hữu
tông, Không tông và Tánh tông mà Tánh tông lại bao hàm cả hữu lẫn không
tông. Nhưng Tánh tông và Không tông lại bị “các Thiền gia lộn cho là cùng
một tông, một giáo”, nên Phật giáo gọi là không tông. Xem Tông cảnh lục 34
tờ 616a6-617a4.
(4)
Truyện Tịnh Thiền tờ 68a7 nói: “Đến khi Lâm mất rồi, Thiền bèn đi khắp
chốn thiền tìm bạn học thêm”. Mà Thiền mất vào năm 1139. Như vậy Lâm tối
thiểu cũng phải mất trước năm đấy chừng mười năm, chứ đâu lại có chuyện
mất vào năm 1203, nghĩa là sau khi Thiền chết đến những mười năm. Lại thêm
vấn đề, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu chỉ thấy ở Đại Việt sử ký toàn thư B4
tờ 22b8 và 23a5, trong khi Đại Việt sử lược 3 tờ 14a1 v.v... viết là Thiên
Tư Bảo Hựu. Chúng tôi do thế nghi rằng có thể người hiệu đính bản in năm
1715 đã sửa thêm niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu đấy vào, mà tự nguyên ủy có
thể là Thiên Cảm Chí Bảo hay Chính Long Bảo Ứng. Vấn đề niên đại các vị sư
ở đây thật nan giải. Trừ khi tìm thêm những bia văn mới, ta mới có thể
giải quyết một phần nào.
Chúng
tôi hiện biết tính chất ngược ngạo phi lý của niên đại 1203 đấy, nhưng
không thể đề nghị một cách có căn cứ một niên đại giả thiết nào mới, vì
niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 đã nhằm đúng năm can chi của nó, tức
năm Quý Hợi, như Đại Việt sử ký toàn thư đã có. Dẫu sao, ta phải giả thiết
Lâm phải mất trước Thiền khoảng mười năm, tức có thể khoảng năm 1175.
64. NI
SƯ DIỆU NHÂN
(1)
Tức Phụng Càn Vương, tước của Lý Nhật Trung do cha là Lý Thái Tông phong
vào năm 1035. chữ Càn vì húy đời Trần, nên đổi ra chữ Yết. Đại Việt sử ký
toàn thư B6 tờ 30a2-3: “Cửa Cần, trước gọi là Càn, vì tránh húy nên làm
Cần”.
(2)
Duy ma cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 544b21: “Dĩ nhất thiết chúng sanh
bệnh, thị cố ngã bệnh”.
(3) Kim cang kinh tờ 752a17:
“Nhược
dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm
thanh cầu ngã
Thị nhân
hành tà đạo
Bất năng
kiến Như Lai”
(4)
Yến tọa, ngồi tĩnh lặng tư duy. Ở đây ám chỉ thiền thoại Tu Bồ Đề yến tọa
mà các thiền gia thường nhắc tới như sau: “Tu Bồ Đề yến toạ trong một đống
đá. Chư thiên mưa hoa tán thán”. Tôn giả hỏi: “Trong hư không làm mưa hoa
tán thán là ai đó?” Thiên trả lời: “Tôi là Phạm Thiên. Tôi tôn trọng Tôn
giả khéo nói Bát nhã ba la mật đa”. “Ta đối với Bát nhã chưa từng nói một
chữ, làm sao ngươi tán thán?” Thiên nói: “Tôn giả không nói, tôi cũng
không nghe. Không nghe, không nói, ấy là một chân thật về Bát nhã”. Xem
Giáo ngữ lục tờ 680a5.
(5) Đại
Việt sử ký toàn thư B3 tờ 16a7-9: “(Hội Tường Đại Khánh) năm thứ 4 (1113)
mùa hạ tháng 6, phu nhân Châu mục châu Chân Đăng công chúa họ Lý mất. Phu
nhân tên Ngọc Kiều là con gái lớn của Phụng Càn Vương. Thánh Tông nuôi
trong cung đến lớn, gả cho châu mục họ Lê châu Chân Đăng. Họ Lê chết, cô
tự thề ở góa, rồi xuất gia làm Ni. Đến đó mất, thọ 72 tuổi. Thần Tông tôn
hiệu là Ni sư”.
(6)
Bài kệ này Thái Tông hoàng đế ngự chế khóa hư quyển hạ tờ 33b 1-4 có chép
và nói là bài kệ khuyên chúng của Trần Thái Tông:
Sinh lão
bệnh tử
Lý chi
thường nhiên
Dục cầu
giải thoát
Giải
phược thiêm triền
Mê nhi
cầu Phật
Hoặc nhi
cầu thiền
Thiền
giả bất cầu
Đổ khẩu
vong ngôn
Những
chữ in đậm là khác với chữ trong bản Thiền uyển tập anh ở đây. Với những
chữ khác ấy, chúng tôi nghĩ rằng Trần Thái Tông đã lấy lại bài kệ thị tịch
của Ni sư Diệu Nhân, rồi đổi một vài chữ, để làm của mình, nhất là khi
quan niệm “nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân” (mỗi hồi nêu ra, mỗi hồi mới)
của các thiền gia đời Trần đối với các công án cũ rất là phổ biến. Trần
Nhân Tông, khi có người hỏi sao mình cứ lập lại các công án cũ của người
xưa như thế, đã trả lời: “Nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân”. Xem Thánh
đăng lục tờ 4b1-2.
65.
THIỀN SƯ VIÊN HỌC
(1) Tức
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Thuần
Chân.
(2)
Tức làng Như Nguyệt, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Nó không
phải là lộ Như Nguyệt giang, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 ghi làng
Như Nguyệt như là quê của Hứa Tam Tỉnh tiến sĩ khoa 1558.
(3)
Chỉ kinh điển Phật giáo. Nhị giáo luận của Đạo An trong Quảng hoằng minh
tập 8 tờ 136c11-16 viết: “Cố cứu hình chi giáo, giáo xưng vi ngoại, tế
thần chi điển, điển hiệu vi nội... Thích giáo vi nội, Nho giáo vi ngoại”.
(4) Tức làng Phù Cầm, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Xem
chú thích (2) truyện Minh Trí.
(5)
Sáu thức tức sáu thứ nhận thức do sáu giác quan đem lại, đây là nhận thức
của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ý.
(6)
Ngô Thông Thiền đây không phải là cư sĩ Thông Thiền, thầy của Tức Lự,
thuộc phái Kiến Sơ.
66.
THIỀN SƯ TỊNH THIỀN
(1)
Tức sáu món giúp người ta vượt bến khổ đau, cũng gọi là Ba la mật, đó là
bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí
tuệ
(2)
Tức tứ hoằng thệ nguyện, “Bốn thệ nguyện lớn”, đó là chúng sanh vô số
lường thệ nguyện đều độ khắp, phiền não vô cùng tận thệ nguyện đều dứt
sạch, pháp môn không kể xiết thệ nguyện đều tu học, Phật đạo không gì hơn
thệ nguyện đạt viên thành. Đấy là bốn lời nguyện tổng quát của Đại thừa.
Xem Tâm địa quán kinh 7 và Vãng sanh yếu tập quyển thượng.
(3)
Hương bôi, tức chén nước thơm dùng để cúng Phật, cũng gọi là a già bôi hay
ư già bôi, chỉ cho chùa chiền.
(4) Tứ
bộ hay tứ chúng, tức bốn thành phần của tăng đoàn Phật giáo, đó là Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di.
67. QUỐC
SƯ VIÊN THÔNG
(1) Cứ
Cựu đường thư 41 tờ 42b5-8 và Tân đường thư 43 thượng tờ 9b10 thì Nam Định
là tên một huyện đặt lần đầu tiên vào năm 621 thuộc Tống Châu, mà ngoài nó
ra còn gồm hai huyện khác, đó là Tống Bình và Hoằng Giáo. Đến năm sau thì
chia huyện Tống Bình thành hai huyện Giao Chỉ và Hoài Đức. Đến năm 627
hiệp ba huyện Giao Chỉ, Hoài Đức và Hoằng Giáo lại thành huyện Tống Bình
cùng với huyện Nam Định thuộc Giao Châu. Thông điển 184 tờ 50a9-13 của Đỗ
Hựu (735- 812) nói: “An Nam đô hộ phủ nay đóng tại Tống Bình”. Như vậy,
địa phận Tống Bình tức tương đương với phần đất thủ đô Hà Nội ngày nay với
một phần những huyện ngoại vi của nó thuộc tỉnh Hà Đông. Từ đó, phần đất
của huyện Nam Định tất cũng phải rơi vào khoảng tỉnh đấy.
Cứ Bắc
thành địa dư chí lục 3 thì huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, thuộc trấn
Sơn Nam thượng có một số xã tổng mang tên Cổ Hiền. Làng Cổ Hiền của Viên
Thông chắc chủ yếu là rơi vào địa phận tổng Cổ Hiền đấy. Tổng có 9 xã thôn
sau: Cổ Hiền (Thái Công), Cổ Hiền (Bảo Hiền), Dưỡng Hiền, Hưng Hiền, Nhụy
Khê (Thượng Đình nam thôn), Nhụy Khê (Hạ thôn), Thụy Ứng, Nhân Hiền và
Nhuệ Giang. Với những tên xã thôn như vậy vào thời Nguyễn thì ta không còn
nghi ngờ gì nữa về vị trí của làng Cổ Hiền thời Lý nữa. Trần Văn Giáp
trong Lược truyện các tác gia Việt Nam I tr.190 nói: “Hiện có hai làng Cổ
Hiền, một thuộc phủ Thường Tín, một thuộc huyện Phú Xuyên, cùng ở tỉnh Hà
Đông”. Nhưng nếu tra lại Bắc thành địa dư chí lục 3 thì những tổng xã thôn
của huyện Phú Xuyên thời Nguyễn không có tổng xã thôn nào tên Cổ Hiền hết.
Do thế, ta có thể dứt khoát xác định là làng Cổ Hiền của Viên Thông là
tương đương với tổng Cổ Hiền, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn
Nam thượng, tức nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Chúng tôi nói là
“tương đương” bởi vì tổng Đông Cứu, thuộc huyện Thượng Phúc cũng có thôn
tên Cổ Hiền.
Đất Nam
Định đời Lý như vậy là tương đương với địa phận huyện Thường Tín, tỉnh Hà
Đông ngày nay. Và làng Cổ Hiền của Viên Thông là thuộc huyện đó.
(2)
Phường Thái Bạch của kinh đô Thăng Long hiện chưa thể khảo được. Cứ Dư địa
chí cũng như Bắc thành địa dư chí lục 1 và Phương đình dư địa chí 2 ta
không tìm thấy tên Thái Cực giữa những tên phố trại thuộc thủ đô Thăng
Long. Phải chăng Thái Bạch đời Lý đã bị đổi thành phường Thái Cực, quê
hương của Lê Kim Quế tiến sĩ khoa 1580, mà Đại Việt lịch triều đăng khoa
lục 2 và Bắc thành địa dư chí lục 1 ghi lại.
(3)
Thiền sư Bảo Giác, cha của Viên Thông đây chắc không phải Bảo Giác chùa
Viên Minh, vị thầy của Tịnh Giới, mà truyện Tịnh Giới tờ 33b3 nói tới. Xem
chú thích (4) truyện Tịnh Giới. Bảo Giác cũng không phải là tác giả những
tác phẩm Chư Phật tích duyên sự, Tăng gia tạp lục và Viên Thông tập, như
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn đã ghi. Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi
Tăng gia tạp lục và Viên Thông tập là của Bảo Giác thôi. Chúng ta không
biết Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú đã lấy những thông tin sai lạc này từ đâu.
Bởi vì Viên Thông tập, Tăng gia tạp lục và Chư Phật tích duyên sự thì dứt
khoát không phải của Bảo Giác, mà là của Viên Thông, như Thiền uyển tập
anh đã có.
(4)
Những kỳ thi tuyển đấy không thấy các sử sách khác ghi. Xem chú thích (3)
truyện Thiền Nham.
(5)
Nguyên văn: Đại Khánh tam niên. Nhưng chữ “Đại Khánh tam” chắc là một sửa
sai của người viết tựa cho bản in năm 1715, bởi vì cứ Đại Việt sử ký toàn
thư B3 tờ 25a7 thì “năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127) mùa thu tháng 7
ngày Đinh Tỵ khánh thành chùa Trùng Hưng Diên Thọ”. Chùa Trùng Hưng Diên
Thọ như vậy khánh thành vào năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất, chứ không
phải là vào năm Đại Khánh thứ 3. Chữ “Đại Khánh tam niên” chắc là do chữ
“Thiên Phù Khánh Thọ nguyên niên” mà ra. Có lẽ để bản của bản in năm 1715
có những chữ đó bị mờ hay bị mối mọt ăn, nên nhà Nho giữ chức vụ “Chính ký
khuyết thất, trợ kỳ di lậu” cho bản in đó đã lầm tưởng những chữ “Thiên
Phù Khánh Thọ nguyên niên” ấy thành “Đại Khánh tam niên”, nhất là khi tự
dạng 6 chữ trước rất giống với 4 chữ sau, một khi chữ phù và chữ thọ đã
bị mờ hẳn hay bị mọt ăn đứt hoàn toàn. Còn lại chữ thiên thì rất dễ đọc
thành chữ đại, và chữ nguyên rất dễ đọc thành chữ tam. Chúng tôi do thế
bằng vào Đại Việt sử ký toàn thư và coi năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất
là năm khánh thành chùa Trùng Hưng Diên Thọ.
(6) Dẫn
Chu dịch: “Quẻ khôn” “Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất
tịch chi cố, kỳ do lai tiệm hỷ”. (Tôi giết vua, con giết cha, không phải
chuyện một sớm một chiều mà nguồn gốc nó đã có từ lâu lắm). Xem Chu dịch 1
tờ 7a1
(7) Đền
Tây Cương này nghi là đền Hai Bà Trưng mà sau này Lý Anh Tông sai dựng “ở
ngoài Tây Cương” như Đại việt sử lược 3 tờ 7b9 ghi lại. Việc cầu thần linh
giữ gìn thai vua này, chúng tôi nghi là xảy ra vào nửa sau niên năm Thiên
Chương Bảo Tự thứ 3, bởi vì đến tháng 3 năm sau Lý Thiên Tộ sinh, tức Lý
Anh Tông, có lẽ vì có tham dự việc đó nên dưới đây ta thấy nói tới chuyện
mời Viên Thông vào thọ cố mạng. Và việc thọ cố mạng như Lý Thần Tông giao
thì theo Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 41 b2 42a3 đã bị tham tri chính sự
Từ Văn Thông cải mạng vì nhận hối lộ của “ba phu nhân”. Thực ra, qua việc
đi cầu giữ thai trên “ba phu nhân” đã biết cách tạo dựng phe đảng cho mình
và sự lên ngôi của Lý Thiên Tộ bằng cách kéo Viên Thông đi với mình. Cho
nên, không phải chỉ Từ Văn Thông trách nhiệm trong việc cải mệnh đó thôi.
Nó còn có Viên Thông dù một phần rất nhỏ đi nữa
(8)
Nguyên văn: Cung xa yến giá. Hợp từ dùng trong truyện Phạm Huy của Sử ký,
mà Bùi Ân dẫn Ứng Thiệu và Vỹ Chiêu viết: “Ứng Thiệu nói: “Thiên tử phải
ban sáng dậy làm việc sớm, như vừa băng hà, nên gọi nghỉ xe”. Vỹ Chiếu
nói: “Hễ vừa mới băng hà thì là muộn giá, vì lòng thần tử còn muốn nghỉ
xe vua đang buộc ngựa nên ra muộn”. Xem Sử ký 79 tờ 9b 13-10a1.
(9)
Nguyên văn: Cập phụng di chiếu vương mạc hiến phó thác đẳng sự. Câu ấy có
3 chữ vương mạc hiến thật là khó hiểu. Chúng tôi thấy có một số cách hiểu
chúng. Thứ nhất, chúng tôi coi chữ vương có khả năng là một khắc thiếu nét
của chữ chủ. Coi chữ hiến có thể là một khắc sai của chữ du. Thứ hai,
vì chữ mạc và du đều có nghĩa tính toán, xắp xếp, mưu tính. Nên cả câu
vương mạc hiến phó thác đẳng sự có thể đọc dịch thành Chủ mạc du phó thác
đẳng sự với nghĩa “chủ trì mọi việc sắp xếp phó thác”. Ý nói Viên Thông
nhận di chiếu của Thần Tông về nên sắp xếp việc gửi gắm hoàng tử lên kế vị
cho Viên Thông chủ trì.
(10)
Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân họ Lê, mẹ của Lý Anh Tông. Việc Lê phu
nhân khen thưởng Viên Thông tất cũng không có gì là lạ hết, như ta đã thấy
ở chú thích (7) trên. Nhưng điều đáng lạ là không thấy sử sách nào khác
ghi lại cả. Ngay cả việc “nhận cố mạng và phụng di chiếu” cũng không thấy
ghi.
(11)
Nguyên văn: Thái hậu xưng chế. Thái hậu đây tức Cảm Thánh phu nhân họ Lê,
mẹ Lý Anh Tông. Còn xưng chế là một từ dùng chỉ cho việc nhiếp chính thay
vua, Bản kỷ của Lữ Cao Hậu trong Tiền hán thư nói: “Thái hậu lâm triều
xưng chế”. Nhan Sư Cổ giải thích: “Lời nói của Thiên tử, một gọi là chế
thư, hai gọi là chiếu thư. Chế thư tức là những mệnh lệnh về chế độ, chẳng
phải chỗ Hoàng hậu có thể có được. Nay Lữ thái hậu lâm triều làm việc
Thiên tử quyết đoán mọi sự, nên xưng chế chiếu”. Xem Tiền hán thư 3 tờ
1a9-11. Việc nhiếp chính của Lê thái hậu, tuy cả Đại việt sử lược lẫn Đại
Việt sử ký toàn thư không ghi rõ, nhưng khi viết về vụ triều biến năm
1148, Đại Việt sử lược 3 tờ 4a3-5 đã nói: “Nguyên trước, khi vua còn nhỏ
dại, việc triều chính, không kể lớn nhỏ, đều giao cho (Đỗ) Anh Vũ, mà Anh
Vũ lại tư thông với Thái hậu, nên càng trở nên kiêu ngạo phóng túng. Ở
triều đình thì vung tay lớn tiếng sai quan lại thì nhếch mép truyền hơi,
mọi người đều nghé mắt, không dám nói”. Ta cũng đủ rõ Lê thái hậu nhiếp
chính như thế nào. Cũng cần thêm là, Lý Anh Tông lúc lên ngôi mới có 3
tuổi.
(12)
Nguyên văn: Tam thôn chi phí. Chúng tôi nghĩ chữ thôn là một chép sai của
chữ tài, nên trong hiệu bản chúng tôi đã sửa tam thôn chi phí thành tam
tài chi phí và dịch thành “phí tổn ăn uống”. Lý do việc sửa và dịch ấy là
như thế này. Thiên Bản vị của Lã thị xuân thu có chữ “ngũ vị tam tài”.
Cao Dụ chua rằng: “Năm mùi là mặn, đắng, chua, cay và ngọt, tam tài là
nước, củi và lửa”. Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 4b11-12 Tam tài chi phí do
thế có nghĩa là “phí tổn về nước, củi và lửa” tức là phí tổn về việc ăn
uống tiêu dùng hàng ngày tức tổn phí xây dựng.
(13)
Nguyên văn: Thần du, chữ du ở đây nghi là một nét sai của chữ hàn vì dạng
chữ chúng khá giống nhau. Thần hàn như vậy có nghĩa là (chữ do bút vua
viết). Điều này có nghĩa chùa của Viên Thông có được ngự bút của Anh Tông,
để thêm sang quí.
(14)
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn nói: “Chư Phật tích duyên sự, 30 quyển, thầy
Bảo Giác soạn theo lịnh của Lý Nhân Tông”. Đương nhiên, Chư Phật tích
duyên sự là không phải của Bảo Giác, mà là của Viên Thông. Bảo Giác là cha
của Viên Thông. Ta không hiểu tại sao Lê Quí Đôn lại có thể chép sai như
thế. Phải chăng Đôn đã dùng một bản thư tịch thiết lập từ trước? Đây là
một có thể, bởi Đôn có ghi thêm là Chư Phật tích duyên sự là soạn theo
lịnh của Lý Nhân Tông, một việc Thiền uyển tập anh không nói tới. Văn tịch
chí của Phan Huy Chú không thấy ghi tác phẩm này.
(15)
Nghệ văn chí ghi: “Tăng gia tạp lục 50 quyển, thầy Bảo Giác soạn” Văn tịch
chí cũng ghi tác phẩm này và cho là Bảo Giác soạn.
(16)
Nghệ văn chí và Văn tịch chí đều ghi: “Viên Thông tập, 2 quyển thầy Bảo
Giác soạn. Bảo Giác người Cổ Hiền”. Viên Thông tập tức không phải của Bảo
Giác mà là của Viên Thông. Xem chú thích (9) trên.
68.
THIỀN SƯ Y SƠN
(1) Đại
Thông được nhiều sách sử ghi lại. Đại Việt sử lược 3 tờ 20a4- 5 ghi nó như
một tên châu và một bến đò. Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 6b1 nói nó là
tên một trấn. Lĩnh ngoại đại đáp 2 tờ 16 bảo nó là tên một phủ. Nhưng
không thấy nơi nào ghi Đại Thông trường cả. Với chữ trường đi sau nó, Đại
Thông đây chắc phải liên hệ với một cửa sông hay một cửa bể bởi vì ta
thấy những địa danh thời Lý có chữ trường theo sau thường chỉ liên hệ đó.
Chẳng hạn Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 291 nói: “Năm Thiên Thuận thứ nhất
(1128) mùa xuân tháng giêng ngày Mậu Thân Quang Lang trường dâng chín
chiếc thuyền của thương gia người Tống đạt tới”. Quang Lang trường đây dĩ
nhiên không phải ở Lạng Sơn mà là ở cạnh cửa bể Liêm Hộ, huyện Thụy Anh,
tỉnh Thái Bình. Bắc thành địa dư chí lục 4 có ghi một làng Quang Lang
thuộc huyện Thụy Anh, trấn Sơn Nam hạ.
Từ đó, Đại Thông trường chắc phải liên hệ với bến đò Đại Thông và châu Đại
Thông do Đại Việt sử lược nói tới. Bến đò Đại Thông hay Đại Thông bộ được
Đại Việt sử lược 3 nhắc nhiều lần như ở tờ 21a1, 22a2, 25a2 v.v... Nhưng
đặc biệt có hai lần, mà ta cần chú ý. Một ở tờ 25a3 nói: “Năm Kiến Gia thứ
3 (1213) mùa xuân tháng giêng ngày Tân Dậu (Trần) Tự Khánh, dẫn quân vào
trong cấm thành, đốt cầu Ngoạn Thiềm, rồi dẫn quân về bến Đại Thông”. Và
một ở tờ 28a4 viết: “Năm Kiến Gia thứ 4 (1213) mùa hạ tháng 4 Tự
Khánh đóng quân ở bến Đại Thông, xây lũy ở Nghĩa Trú”. Như vậy một mặt bến
Đại Thông phải cách thủ đô Hà Nội không xa lắm. Mặt khác nó phải ở gần địa
điểm Nghĩa Trú, để Tự Khánh có thể chỉ huy việc xây lũy. Mà Nghĩa Trú hiện
nằm tại huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên hiện nay. Như vậy bến Đại Thông chắc
nằm khoảng ranh giới huyện Gia Lâm với huyện Văn Giang, có thể chính tại
xã Xuân Lâm, huyện Văn Giang, nơi những thượng lưu của sông Nghĩa Trú tập
họp lại để chảy xuống sông Kinh Cầu. Từ đó, Đại Thông trường tất phải bao
gồm xã Xuân Lâm cũng như một vài xã khác quanh vùng tại huyện Văn Giang.
Một khi
đã xác định Đại Thông trường như thế, thì châu Đại Thông chắc phải là một
bãi đất lồi tại Đại Thông trường. Đại Việt sử lược 3 tờ 28a5 nói: “Tháng
tư năm Kiến Gia thứ 4 (1213) Trần Tự Khánh giết Phan Lân ở châu Đại Thông
trong khi đang ở bến Đại Thông xây lũy Nghĩa Trú, vì Lân muốn liên kết với
Nguyễn Nộn. Nhưng trước đó vào tháng giêng năm đó, Khánh giao cho Lân giữ
Siêu Loại. Do vậy, châu Đại Thông hẳn phải ở vùng bến Đại Thông và không
xa Siêu Loại bao nhiêu.
Kết luận
đấy hoàn toàn tỏ ra đúng đắn, khi truyện Y Sơn đây nói Đại Thông trường
thuộc Long Phúc, mà truyện Đạo Lâm tờ 66b3 lại nói Long Phúc có làng Siêu
Loại. Từ đó, Long Phúc chắc là tên một quận đời Lý và địa phận nó gồm một
phần huyện Siêu Loại và một phần huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh đời
Nguyễn, tức một phần huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và phần đất phía bắc
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay.
(2)
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc Ninh, mục Tăng Thích nói: “Thiền sư Y
Sơn, người huyện Gia Lâm, nhỏ thông kinh sử, lại càng giỏi cả sách Phật,
có chí lớn, làm lợi người, đến khi thị tịch, hoa cỏ chim muông đều bi
cảm”. Rồi chua thêm là: “Nói rõ trong An nam chí, về thế đại của thiền sư
chưa thể khảo được”.
An nam
chí mà lời chua nói đến, là tác phẩm của Cao Hùng Trưng, mà bản in ngày
nay gọi là An nam chí nguyên do một lầm lẫn. Khảo An nam chí nguyên 3 tờ
210 thì những ghi chú trên của Đại nam nhất thống chí về Y Sơn quả đã rút
ra từ đấy. Đến lượt mình, An nam chí nguyên 3 tờ 208 nói là mình đã rút
tài liệu từ “Cựu chí” và Quan báo các xứ cùng tương truyền của các phụ lão
mà “Cựu chí” thì những bản hiện còn như An nam chí lược và Việt kiều thư
không thấy sách nào nói đến Y Sơn cả. Phải chăng nó đã lấy từ những bản
đã mất như Giao Châu thông chí hay Các châu huyện chí v.v...? Dẫu rút từ
đâu đi nữa, thì những ghi chú trên về Y Sơn cuối cùng cũng phải rút ra từ
Thiền uyển tập anh, bởi vì văn cú giữa chúng và những chi tiết đều giống
nhau. Nếu vậy, tại sao những ghi chú ấy lại có thể bảo Y Sơn là “người
huyện Gia Lâm?”. Đó là vì Sơn hoạt động chính ở Gia Lâm.
(3)
Làng Yên Lãng này nghi là làng Yên Lãng quê mẹ của Từ Đạo Hạnh, tức nay là
làng Láng ở phía tây ngoại thành thủ đô Hà Nội. Xem chú thích (3) truyện
Đạo Hạnh. Làng này hiện có chùa tên là chùa Chiêu Thiền, nơi thờ Đạo Hạnh
và Lý Thần Tông, mà Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà Nội, mục Tự quán, nói
tới chùa đấy, Bắc thành địa dư chí lục 1 gọi là chùa Yên Lãng. Nhưng chưa
thấy tài liệu nào, ghi hay nói làng Yên Lãng đấy có chùa Nam Mô. Phải
chăng làng Yên Lãng đây là Yên Lãng thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Sơn Tây đời
Nguyễn, tức huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay? Chúng tôi hiện chưa
biết làng đấy có một ngôi chùa nào tên Nam Mô?
(4)
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 274c29-275a17: “Phật tử Bồ tát
ma ha tát ưng tri Như Lai thành chánh giác ư nhất thiết nghĩa, vô sở quán
sát, ư pháp bình đẳng, vô sở nghi hoặc, vô nhị vô tướng, vô hành vô chỉ,
vô lượng vô tế, viễn ly nhị biên, trú ư trung đạo, xuất quá nhất thiết văn
tự ngôn thuyết (...), đắc nhất thiết chúng sanh lượng đẳng thân, đắc nhất
thiết tam thế lượng đẳng thân, đắc nhất thiết Phật lượng đẳng thân, đắc
nhất thiết ngữ ngôn lượng đẳng thân, đắc chân như lượng đẳng thân, đắc
pháp giới lượng đẳng thân, đắc hư không giới lượng đẳng thân, đắc vô ngại
giới lượng đẳng thân, đắc nhất thiết nguyện lượng đẳng thân, đăc nhất
thiết hành lượng đẳng thân, đắc tịch diệt Niết bàn giới lượng đẳng thân”.
(5)
Hồi hộ bất hồi hộ. Xem Thạch đầu tam đồng khế trong Nhân thiên nhãn mục 5
tờ 327a19.
(6)
Nguyên văn: Kiến Gia tam niên Bính Tý. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 24b9
và Đại Việt sử ký toàn thư B4 tờ 30b6 thì Kiến Gia tam niên là năm Quí
Dậu, chứ không phải Bính Tý. Bính Tý phải là Kiến Gia lục niên, như Đại
Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đã có. Chúng tôi nghĩ, chữ tam là
một viết lộn của chữ lục, một việc rất dễ xảy ra, và đề nghị sửa lại thành
Kiến Gia lục niên, như bản dịch đã có.
69.
THIỀN SƯ THẢO ĐƯỜNG
(1) An
nam chí lược 15 tờ 147 viết: “Thảo Đường theo Sư phụ đến sống khách ở
Chiêm Thành. Xưa Lý Thánh Vương đi đánh Chiêm Thành, bắt được, đem cho vị
Tăng lục làm đứa ở. Vị Tăng lục viết Ngữ lục, để trên bàn mà đi. Sư lén
sửa lại. Vị Tăng lục lấy làm lạ về đứa ở, đem tâu vua. Vua bèn phong làm
Quốc sư”.
An nam
chí nguyên 3 tờ 209 viết: “Thiền sư Thảo Đường, rất có đạo hạnh, biết rành
sách Phật, vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi thẳng mà mất”. Vua Lý đây tức Lý
Thánh Vương của An nam chí lược mà Lý Thánh Vương đấy tức Lý Thánh Tông.
Cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 13b3-14a8 và Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ
4b7-5a2 thì suốt đời mình Lý Thánh Tông chỉ đi chinh phạt Chiêm Thành một
lần vào năm Thần Vũ thứ nhất (1069). Việc bắt được Thảo Đường chắc chắn
xảy ra vào năm đó. Còn Thảo Đường được phong làm Quốc sư có lẽ vào năm
1070, hay cùng lắm là năm 1071, bởi vì đầu năm 1072, tức tháng giêng năm
Thần Vũ thứ 4, Lý Thánh Tông bị bệnh nặng, rồi mất luôn. Vị Tăng lục, ngày
nay ta chưa biết đích xác là ai. Rất có thể là Huệ Sinh, lúc bây giờ đã
làm Tăng thống và theo Việt điện u linh tập, đã có tham dự vào cuộc viễn
chinh Chiêm Thành ấy.
Đạo giáo
nguyên lưu quyển thượng tờ 15b10 viết: “Thiền sư Thảo Đường rất có đạo
hạnh, tinh thông kinh điển, Vua Lý tôn làm thầy, sau ngồi kiết già mà
mất”. Tây hồ chí, tập Tự am, dưới mục chùa Khai Quốc và chùa Vạn Niên, nói
Thảo Đường họ Lý, và nơi trú trì của Đường không phải chỉ có chùa Khai
Quốc, mà có cả chùa Vạn Tuế, tức Vạn Niên nữa.
(2) Về
chùa Khai Quốc, xem chú thích (1) truyện Vân Phong.
(3)
Tức thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết Đậu tại châu Ninh, Trung
Quốc, đệ tử của Trí Môn Quang Tộ thuộc phái Vân môn. Xem Tục Truyền đăng
lục 2 tờ 475a9- 476a25 và Tuyết đậu minh giác ngữ lục.
70.
HOÀNG ĐẾ LÝ THÁNH TÔNG
71. THIỀN SƯ BÁT NHÃ
(1)
Tức Nguyễn Bát Nhã, đại diện cho thiền phái Thảo Đường, mà Quách Thần Nghi
khi xem xong Chiếu đối bản của Thông Biện và Nam tông tự pháp đồ của
Thường Chiếu đã hỏi Chiếu: “Sao không thấy nói tới hai phái Nguyễn Đại
Điên và Nguyễn Bát Nhã?”. Chiếu trả lời: “Ắt Thông Biện có một ức ý nào
đó”.
(2)
Chùa Từ Quang Phúc Thánh này rất có thể là chùa Phúc Thánh mà Đại Việt sử
ký toàn thư B4 tờ 5b4 nói là dựng vào năm Đại Định thứ 5, tức năm 1154,
cùng với chùa Vĩnh Long.
(3) Tức
huyện Đan Phụng, tỉnh Hà Đông hiện nay. Làng Dịch Vương, sau này gọi là
Dịch Vọng của Hà Nội ngày nay.
72. Cư
Sĩ NGỘ XÁ
(1)
Làng Bảo Tài cũng như Long Chương, hiện chưa có thể khảo được.
73. THAM
CHÁNH NGÔ ÍCH
74.
THIỀN SƯ HOẰNG MINH
(1)
Làng Yên Lãng đây nghi làng Yên Lãng hay làng Láng tại ngoại thành Hà Nội,
quê của mẹ Từ Đạo Hạnh. Xem chú thích (3) truyện Đạo Hạnh. Nhưng Đại Việt
sử ký toàn thư B2 tờ 20b1-2 viết: “Năm Thiên Thành thứ 3 (1030) mùa đông
tháng mười được mùa lớn, vua đi xem gặt ở ruộng Ô Lộ, đổi tên ruộng là
Vĩnh Hưng. Ngày đó vua hoàn cung”. Khâm định Việt sử thông giám cương mục
chính biên 2 tờ 35b6 chú rằng: “Ô Lộ, Vĩnh Hưng, chưa rõ đích xác chỗ nào.
Xét huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên, nghi là đó”. Khảo Bắc thành địa dư chí
lục 3 về những tên xã của tổng Vĩnh Hưng cũng như của huyện Đông Yên, ta
không thấy có xã thôn nào tên Yên Lãng cả, tuy có những tổng xã mang tên
Yên Cảnh, Yên Lịch,Yên Vĩ, Yên Viên. Do thế không phải là không có thể
làng Yên Lãng của Vĩnh Hưng ở tại vùng huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên đấy.
Thêm vào đó, truyện Cửu Chỉ nói núi Long Đội ở Yên Lãng. Như vậy, làng Yên
Lãng đời Lý có thể gồm cả phần đất phía đông của huyện Duy Tiên, Hà Nam
nữa.
75.
THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
(1)
Tức chùa Thần Quang hay chùa Keo tại xã Dũng Nghĩa, huyện Giao Chỉ, tỉnh
Thái Bình. Xem chú thích (1) truyện Không Lộ.
76.
THIỀN SƯ ĐỊNH GIÁC
77. THÁI
PHÓ ĐỖ VŨ
(1) Có
thể là Đỗ Anh Vũ (?-1158). Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 3a4 thì năm
Thiệu Minh thứ 3 (1139) Đỗ Anh Vũ đã giữ chức Thái úy. Theo Đại Việt sử ký
toàn thư B4 tờ 1b1 thì năm sau, tức năm Đại Định thứ nhất (1140) “lấy Đỗ
Anh Vũ làm Cung điện lịnh trị nội ngoại sự”, nhưng không bao giờ thấy nó
ghi thêm chức tước gì cho Đỗ Anh Vũ cả. Dẫu thế, việc Đỗ Anh Vũ giữ chức
Thái úy khoảng từ năm 1139 trở đi là một chắc chắn. Và cứ An nam chí lược
14 tờ 133 thì Thái úy phải là chức trên Thái phó. Đặc biệt là từ khi Hoàng
Xuân Hãn phát hiện ra bia mộ của Đỗ Anh Vũ, thì có lúc rõ ràng Đỗ Anh Vũ
đã giữ chức Thái phó. Do thế, Thái phó Đỗ Vũ chắc chắn là Thái úy Đỗ Anh
Vũ.
78.
THIỀN SƯ PHẠM ÂM
(1) Tức
địa phận tỉnh Thanh Oai, tỉnh Hà Đông hiện nay. Làng Thanh Oai này, chúng
tôi nghi là tương đương với làng Trung Thanh Oai do Bắc thành dư địa chí
lục 3 liệt ra, bởi vì, làng đấy lúc bấy giờ có ba thôn, trong đó hai thôn
mang tên Xa La và An Xá. An Xá và Xa La đây chắc là một phân xã của tên An
La. Có thể An Xá và Xa La thời Lý là phủ trị của An La, và chúng là một
chứng tích cho sự có mặt đó.
(2)
Thiệu Minh đây, nghi là Hoằng Minh chép sai.
79.
HOÀNG ĐẾ LÝ ANH TÔNG
80.
THIỀN SƯ ĐỖ ĐÔ
81.
THIỀN SƯ TRƯƠNG TAM TẠNG
82.
THIỀN SƯ CHÂN HUYỀN
83. THÁI
PHÓ ĐỖ THƯỜNG
(1)
Đại Việt sử lược 3 tờ 24a6 nói trong lần lánh nạn năm1112, Lý Huệ Tông
“đã đến nhà của Đại liêu ban Đỗ Thường ở Đông Ngạn”. Đại liêu ban dĩ nhiên
là một tên gọi khác của Thái phó. Do sắc lịnh năm Đại Định thứ 20 (1159)
của Lý Anh Tông thiết định, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 6b3 đã ghi lại. Do đó
Đại liêu ban Đỗ Thường cũng là Thái phó Đỗ Thường. Chỉ có vấn đề là chữ
thường của Đại liêu ban Đỗ Thường, thông thường thì vẫn có thể đọc như
chữ thường, nhưng cũng có thể đọc thành chữ thưởng. Vì vậy, Đại liêu ban
Đỗ Thường rất có thể là Đại liêu ban Đỗ Thưởng chứ không phải Thái phó Đỗ
Thường. Dầu sao đi nữa, chúng tôi vẫn nghĩ Đại liêu ban Đỗ Thường hay
Thưởng là Thái phó Đỗ Thường ở đây.
(2)
Nguyên văn: Tự Kiến Sơ Tịnh...thiền sư. Như vậy, ta chỉ biết “nối dõi
thiền sư Tịnh... của phái Kiến Sơ”. Chúng tôi ghi thêm là Tịnh Giới, bởi
nghĩ rằng thế hệ của Đỗ Thường còn có những người như Trương Tam Tạng được
coi là đệ tử của Định Giác, tức Giác Hải của phái Kiến Sơ. Cho nên, nếu
bảo Thường là một đệ tử của một Tịnh gì đấy của phái Kiến Sơ thì có lẽ
không sai mấy khi ta đi tìm trong thế hệ của Giác Hải có một người nào tên
Tịnh gì đấy không. Nhưng thế hệ Giác Hải có đến ba người có tên bắt đầu
bằng chữ Tịnh, đấy là Tịnh Không (1091-1170), Tịnh Lực (1112-1175) và Tịnh
Giới (1140?-1207). Chúng tôi chọn Tịnh Giới, không những vì Giới có một
đời sống phù phép không kém gì Không Lộ và Giác Hải, mà còn vì truyện Tịnh
Giới nói “có nơi nói Giới ở chùa Quốc Thanh, Hải Thanh”, nghĩa là Giới đến
từ một chùa và một vùng với Không Lộ và Giác Hải.
84.
THIỀN SƯ HẢI TỊNH
(1)
Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 15b5-6 dưới mục Tuyết Đậu truyền pháp,
viết: “Kinh đô Thăng Long, chùa Khai Quốc đại sư Thảo Đường, từ đó truyền
tông phái Tuyết Đậu làm đời thứ nhất. Đời thứ hai truyền cho Bát Nhã. Đời
thứ ba truyền cho Hoằng Minh. Đời thứ tư truyền cho bốn vị tổ, danh hiệu
chưa rõ. Đời thứ năm truyền cho Chân Huyền. Đời thứ sáu truyền cho Hải
Tịnh”.
Nói như
thế, chứng tỏ rằng khi An Thiền viết và in xong Đạo giáo nguyên lưu khoảng
năm 1845, ông chưa có “Cựu bản chùa Tiêu Sơn” của Thiền uyển tập anh, mà
sau này vào năm 1859 ông đã in thành quyển thượng của bộ Đại nam thiền
uyển truyền đăng của ông. Thế thứ lưu truyền của phái Thảo Đường do ông
liệt, do thế có thể rút từ những tài liệu khác với Thiền uyển tập anh ở
đây và vì vậy có một giá trị kiểm chứng nào đó.
85.
HOÀNG ĐẾ LÝ CAO TÔN
86.
XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP NGUYỄN THỨC
87. PHỤNG NGỰ PHẠM ĐẲNG
---o0o---
[Mục Lục tập 3]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-01-2003