SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ
8
PHẨM UẾ
90. KINH TRI PHÁP[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa tại Câu-xá-di, trong vườn Cù-sư-la.
Bấy giờ Tôn giả
Chu-na
nói với các Tỳ-kheo:
“Nếu có Tỳ-kheo nói
như thế nầy, ‘Tôi biết các pháp, những pháp được biết ấy không có tham
lam’. Nhưng trong tâm Hiền giả kia, ác tham lam
đã sanh và tồn tại.
“Cũng như vậy, tranh
tụng, nhuế hận, sân triền, phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh,
vô tàm, vô quý, ác dục, ác kiến.
Nhưng trong tâm Hiền giả ấy ác dục, ác kiến đã sanh và tồn tại. Các vị
đồng phạm hạnh biết Hiền giả ấy không biết các pháp, những pháp được biết
đến mà không có tham lam. Vì sao? Vì trong tâm Hiền giả ấy tham lam đã
sanh và tồn tại. Cũng như vậy, tranh tụng, nhuế hận, sân triền, phú kết,
bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh, vô tàm, vô quý, ác dục, ác kiến. Vì
sao? Vì trong tâm Hiền giả kia ác dục, ác kiến đã sanh và tồn tại.
“Này chư Hiền, như
người không giàu mà tự xưng là giàu, cũng không có phong ấp mà nói là có
phong ấp. Lại không có súc mục mà nói là có súc mục. Khi muốn tiêu dùng
thì không có vàng bạc, chơn châu, lưu ly, thủy tinh, hổ phách; không có
súc mục, lúa gạo; cũng không có nô tỳ. Các bằng hữu quen biết đến nhà
người ấy mà nói rằng: ‘Anh thật không giàu mà tự xưng là giàu, cũng không
có phong ấp mà nói có phong ấp; lại không có súc mục mà nói có súc mục.
Khi muốn tiêu dùng thì không có vàng bạc, chơn châu, lưu ly, thủy tinh, hổ
phách, không có súc mục, lúa gạo và cũng không có nô tỳ’. Cũng giống như
thế, này chư Hiền, nếu có Tỳ-kheo nói như thế này: ‘Tôi biết các pháp,
những pháp được biết mà không có tham lam’, nhưng trong tâm Hiền giả kia
tham lam đã sanh và tồn tại. Cũng như vậy, tranh tụng, nhuế hận, sân
triền, phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh, vô tàm, vô quý, ác
dục, ác kiến đã sanh và tồn tại. Các người phạm hạnh biết Hiền giả ấy
không biết các pháp, những pháp được biết mà không có tham lam. Vì sao? Vì
tâm của Hiền giả kia không hướng đến chỗ diệt tận tham lam, đến Vô dư
Niết-bàn. Cũng như vậy, tranh tụng, nhuế hận, sân triền, phú kết, bỏn sẻn,
ganh tị, lừa dối, dua nịnh, vô tàm, vô quý, ác dục, ác kiến. Vì sao? Vì
tâm Hiền giả kia không hướng đến chỗ diệt tận ác nhuế, đến Vô dư Niết-bàn.
“Này chư Hiền, hoặc
có Tỳ-kheo không nói như thế này: ‘Tôi biết các pháp, những pháp được biết
đến mà không có tham lam”, nhưng trong tâm Hiền giả kia tham lam không
sanh và tồn tại. Cũng như vậy, tranh tụng, nhuế hận, sân triền, phú kết,
bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh, vô tàm, vô quý, ác dục, ác kiến,
nhưng trong tâm Hiền giả kia ác dục, ác kiến không sanh và tồn tại. Các
người phạm hạnh biết Hiền giả ấy thật biết các pháp, những pháp được biết
đến mà không có tham lam. Vì sao? Vì trong tâm Hiền giả kia, ác tham lam
đã không sanh và tồn tại. Cũng như vậy, tranh tụng, nhuế hận, sân triền,
phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh, vô tàm, vô quý, ác dục, ác
kiến. Vì sao? Vì trong tâm Hiền giả kia ác dục, ác kiến không sanh và tồn
tại.
“Này chư Hiền, như
người giàu to mà tự nói không giàu, cũng có phong ấp mà nói là không có
phong ấp. Lại có súc mục mà nói là không có súc mục. Nếu lúc muốn tiêu
dùng thì có sẵn vàng bạc, chơn châu, lưu ly, thủy tinh, hổ phách; có súc
mục, lúa gạo và có nô tỳ. Các bằng hữu quen biết đến nhà người ấy, nói
rằng: ‘Anh thật giàu to mà nói là không giàu, cũng có phong ấp mà nói
không có phong ấp. Lại có súc mục mà nói không có súc mục, nhưng khi muốn
dùng thì có sẵn vàng bạc, chơn châu, lưu ly, thủy tinh, hổ phách; có súc
mục, lúa gạo và cũng có nô tỳ’.
Cũng giống như thế,
này chư Hiền, nếu có Tỳ-kheo không nói như thế này: ‘Tôi biết các pháp,
những pháp được biết đến mà không có tham lam”, nhưng trong tâm Hiền giả
kia ác tham lam đã không sanh và không tồn tại.
Cũng như vậy, tranh
tụng, nhuế hận, sân triền, phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh,
vô tàm, vô quý, ác dục, ác kiến, nhưng trong tâm Hiền giả kia ác dục, ác
kiến không sanh và tồn tại.
Các người đồng phạm
hạnh biết Hiền giả ấy thật biết các pháp, những pháp được biết đến mà
không có tham lam. Vì sao? Vì tâm Hiền giả ấy hướng đến chỗ diệt tận tham
lam, sân triền, phú kết, bỏn sẻn, ganh tị, lừa dối, dua nịnh, vô tàm, vô
quý, ác dục, ác kiến. Vì sao? Vì tâm Hiền giả kia hướng đến chỗ diệt tận
ác kiến, đến Vô dư Niết-bàn”.
Tôn giả Chu-na
thuyết như vậy, các thầy Tỳ-kheo sau khi nghe Tôn giả nói xong, hoan hỷ
phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 8
87 |
88 |
89 |
90 |
91 |
92 |
93 |
94 |
95 |
96
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003