KINH NA TIÊN
TỲ KHEO
Cao Hữu Ðính dịch
Việt
---o0o---
Mục lục
Lời giới thiệu
Lời nói đầu
Phần I
1. Vô Ngã hay Danh
2. Danh số
3. Cách nói chuyện của hiền giả và vương giả hay điều kiện đối thoại.
4. Di Lan Ðà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung
5. Cứu cánh đích thực của bậc xuất gia
6. Nguyên nhân luân hồi và phương pháp giải thoát
7. Pháp lành
8. Tương quan giữa thân trước và thân sau.
9. Tự biết hết tái sanh
10. Trí và Minh.
Phần II
11. Ðắc đạo rồi có còn đau khổ không ?
12. Vui khổ thiện và bất thiện
13. Danh thân tái sanh
14. Ðã hỏi rồi không nên hỏi lại
15. Danh và thân tương liên
16. Thời gian
17. Ðầu mối của sanh tử
18. Nhân duyên sanh
19. Linh hồn
20. Liên hệ giữa căn và tâm thần
21. Xúc
22. Cảm thọ
23. Giác
24. Sở niệm
25. Nội động
26. Nỗi lòng
27. Muối
28. Duyên nghiệp của tri giác
29. Nguyên nhân bất bình đẳng giữa loài người
30. Phải sớm làm điều lành
Phần III
31. Lửa địa ngục
32. Nước dựa trên không khí
33. Niết Bàn
34. Phật có ra đời
35. Phật là tối thắng
36. Thân cũ không tái sanh
37. Thân mất , việc làm còn
38. Không thể biết quả báo về sau.
39. Niết Bàn ở đâu?
40. Vì sao Sa môn săn sóc cái thân?
41. Tại sao Phật không giống cha mẹ?
42. Chơi chữ
43. Ai truyền giới cho Phật?
44. Giọt nước mắt lành
45. Mê ngộ khác nhau
46. Trí nhớ
47. Mười sáu cách nhớ
48. Phật là Ðấng Toàn Giác
49. Nhân it, quả nhiều
50. Ngừa giặc khi chưa đến
51. Thần thông chẳng quản xa gần
52. Cùng đến một lượt
53. Bảy sự việc tựu thành giác ngộ.
54. Làm việc lành nhỏ được phước lớn.
55. Kẻ trí làm điều dữ ít bị tai vạ hơn người ngu
56. Bay lên trên không
57. Xương dài bốn ngàn dặm
58. Ngừng hơi thở
59. Biển
60. Trí tuệ soi thấu tất cả.
61. Thần hồn, trí và thức
62. Phật làm được việc khó làm
Lời cuối cùng
|
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh là một bộ
kinh phản ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lý Nguyên Thủy. Nhưng
nếu chỉ có thế thôi thì kinh này chỉ là một bản trùng tuyên vô vị, không
đáng được có một địa vị Tam Tạng Thánh Giáo.
Ðặc sắc của kinh
này dĩ nhiên không phải ở chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Ðặc tánh của nó là
chính ở những ví dụ rất khế lý và khế cơ mà Ngài Na Tiên đã khéo sử dụng
để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Các
ví dụ rất linh động ấy là hoàn toàn do ngài sáng chế để đóng góp vào chánh
pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau thêm.
Kinh này xuất hiện
vào thời kỳ nào? Căn cứ vào tiểu sử vua Di Lan Ðà, người mà Na Tiên đã đối
thoại và trực tiếp giáo hóa, thì Na Tiên sống vào tiền bán thế kỷ II trước
Tây lịch. Cuộc đối thoại về giáo lý giữa Thầy (Na Tiên) và trò (Di Lan Ðà),
nếu xét sâu vào nội dung thì thấy quả thật là thú vị và hấp dẫn. Vì vậy,
nội dung đối thoại nầy bấy giờ được truyền tụng, được các giới Phật Tử tôn
thờ gần ngang hàng với các kinh do kim khẩu Phật nói ra. Cũng nên biết
rằng, đặc biệt với Phật Giáo Miến Ðiện, kinh này được nhiếp thâu vào Tiểu
Bộ Kinh tức bộ thứ năm trong Ngũ Bộ Kinh của Giáo điển Nguyên Thủy. Vậy
niên đại xuất hiện của kinh nầy, sớm nhất là vào khoảng thế kỷ I trước Tây
lịch. Và nơi chốn xuất hiện lần đầu tiên hẳn phải là miền Tây Bắc Ấn Ðộ,
trên lưu vực Ngũ Hà, nơi đã xảy ra cuộc đối thoại ấy.
Vì nội dung kinh
này là một lợi khí truyền bá Phật giáo rất mạnh, nên không bao lâu sau,
lan rất nhanh sang lưu vực sông Hằng rồi từ đấy tràn lan khắp Ấn Ðộ, cho
đến Tích Lan. Do đó mà tuy nội dung vốn một nhưng kỹ thuật kiết tập thì
lại mỗi địa phương một khác. Các bản kiết tập tại lưu vực sông Hằng về sau
thành kinh Milindapanhà (Di Lan Ðà vấn kinh), được truyền bá sang Tích Lan
và các nước Nam Phương Phật giáo. Các bản kiét tập tại Tây Bắc Ấn Ðộ thì
được truyền bá lên Trung Á rồi sang Trung Hoa và Tây Tạng, mệnh danh là Na
Tiên Tỳ Kheo Kinh.
Riêng Na Tiên Tỳ
Kheo Kinh truyền qua Trung Hoa cũng đã có ba bản dịch khác nhau. Cả ba bản
đều mất tên người dịch nên không rõ là đã dịch vào thời đại nào. Chỉ thấy
Ðại Tạng ghi là "Phụ Ðông Tấn Lục". Văn dịch rất xưa và hơi tối nghĩa. Căn
cứ vào đó, ta có thể suy đoán rằng các bản dịch nầy có lẽ đã được thực
hiện vào khoảng đời Tam Quốc hay đời Tây Tấn, nghĩa là khi Phật Giáo mới
du nhập Trung Hoa.
Hiện trong Ðại
Tạng chỉ thấy có hai bản, ghi số 1670 A va 1670 B. Bản 1670 A phóng theo
các bản in đời Tống, đời Nguyên mà hiệu đính lại. Bản 1067 B căn cứ vào
bản in đời Minh nhưng cũng có đối chiếu với hai bản đời Tống và đời Nguyên
mà hiệu đính. tuy đã có hiệu đính rồi mà cả hai bản vẫn còn tối nghĩa.
Nay nhân đạo hữu
Cao Hữu Ðính phụ trách dạy kinh này tại Phật Học Viện Nha Trang, đạo hữu
bèn gia công sưu khảo nghiên cứu, nhằm mục đích làm sáng tỏ thêm nghĩa
kinh. Ông căn cứ vào cả hai bản nhất là bản 1670 B rồi tham khảo với Kinh
Milindapanhà của Phật giáo Nam Phương và bản dịch Pháp văn kinh này, soạn
thành bài học dạy cho Học Tăng ở Phật Học Viện, Trung Phần tại Nha Trang
do tôi điều khiển.
Xét thấy phần đầu,
tức duyên khởi của kinh Milindapanhà và của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hai bên
không giống nhau nên đạo hữu đã cho lướt qua, đợi tham cứu sau. Thay vào
đó, ông viết một "Lời Nói Ðầu" ghi lại tiểu sử vua Di Lan Ðà và ngài Na
Tiên, cùng là bối cảnh lịch sử thời bấy giờ. Nội dung đối thoại thì giữ
lại trọn vẹn và gắng diễn dịch thế nào trung thành với ý kinh. Trong
trường hợp gặp những danh từ mà nay đã biến nghĩa, đạo hữu đã tùy nghi
châm chế cải đổi chút đỉnh, để độc giả dễ dàng lãnh hội ý chính.
Ðọc hết loại bài
của đạo hữu biên soạn, tôi lấy làm vừa ý, nên vội cho xuất bản, hầu mong
cung cấp món ăn giáo lý cần thiết cho Phật tử bốn phương.
Vậy, xin có mấy
lời giới thiệu với chư Phật tử và thiện hữu tri thức hằng lưu tâm đến tiền
đồ Phật giáo nước nhà.
Nay kính,
Nha Trang, Thu Canh Tuất P.L. 2514 (1970)
Giám viện Trung phần
Hòa Thượng Thích Trí Thủ
Kinh này theo bản văn Pali lấy
nhan đề là: Milindapanhà.
Millinda là tên
một vị vua người gốc Hy Lạp [1], trị vì từ năm 163 đến năm 150 trước Tây
lịch, trên một lãnh thổ rộng lớn, chiều đông tây chạy dài từ phía tây lưu
vực sông Hằng đến miền Ðông nước Ba tư ngày nay, chiều nam bắc chạy từ cửa
sông Ấn lên tới chân núi Hy mã lạp, hoặc xa hơn nữa, trong vùng A Phú Hãn
ngày nay. Thủ đô đóng tại Sàkalà (cũng viết là Ságala), trên vùng thượng
lưu Ngũ hà. Nhà vua là bậc văn võ toàn tài, kết tinh của hai giòng máu,
cha người Hy, mẹ người Trung Á, sinh tại vùng Kabal. Ông xuất thân là một
bộ tướng của Démétrios, vua nước Ðại Hạ (Bactriane), được vua nầy gã con
gái cho là công chúa Agathocleia. Trên đường chinh phục nước Ấn Ðộ,
Démétrios cùng với Millinda từng kéo quân đến vây hãm thành Hoa Thị (Patalipatra).
Ðương vây thành nầy thì được tin tại thủ đô nước Ðại Hạ có chính biến do
Eucratidès cầm đầu. Vua Démétrios cho Milinda về đóng gữi vùng Ngũ Hà, còn
mình thì trực chỉ Ðại Hạ để dẹp nội loạn, nhưng khi đến gần thủ đô thì bị
Eucratidè phục kích giết chết. Bấy giờ là năm 167 trước Tây lịch, từ đó,
vương quốc Ðại Hạ tách ra làm hai: vương quốc miền Tây do Eucratidè cai
trị, và vuơng quốc miền Ðông do Apollodots I (em ruột Démétrios) cai trị.
Ðến năm 163 trước Tây lịch, Apollodotes I bị Eucratidè tiến đánh và giết
chết luôn, Milinda lên kế vị và dời đô từ Taxila về Sàkala. Trong 13 năm
trị vì, ông mở mang bờ cõi đất nước mỗi ngày một rộng thêm. Cuộc đối thoại
về giáo pháp giữa nhà vua và Ðại đức Na Tiên (Nagasena) xảy ra tại thủ đô
Sàkala trong khoảng thời gian từ năm 163 đến năm 150 trước Tây lịch.
Về danh xưng
Milinda, có nhiều cách ghi khác nhau: trên các đồng tiền vàng do triều đại
này đúc thì thấy ghi là Menendra, trên bí ký thì là Minapra, trong kinh
Tàranàtha thì ghi là Minara, bản Pháp văn ghi là Ménandre, bản dịch Hán
văn phiên âm là Di Lan Ðà.
Panhà nghĩa là "hỏi",
Milindapanhà như vậy có nghĩa là "Di Lan Ðà hỏi". Nếu dịch ra chữ Hán thì
có lẽ nên dịch là "Di Lan Ðà vấn kinh".
Nội dung kinh nầy,
Hán văn có cả thảy 3 bản dịch do các dịch kinh Trung Hoa phiên dịch vào
thế kỷ III, IV, và V. Bản hiện lưu hành là bản thứ nhì, dịch trong khoảng
từ năm 317 đến năm 420, lấy nhan đề là "Na Tiên Tỳ Kheo Kinh". Nguyên bản
của bản này do Hữu bộ kiết tập và viết bằng văn tự Pràkrit.
So sánh hai bản
"Na Tiên Tỳ Kheo Kinh" và "Milindapanhà" người ta thấy rằng bản thứ nhất
tương đồng với phần đầu của bản thứ hai. Trong số 7 quyển của bản nầy (Milindapanhà),
chỉ một phần của quyển I, trọn quyển II, và quyển III, nội dung không khác
gì Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Bốn quyển còn lại, từ quyển IV đến quyển VII, là
do Phật giáo Tích Lan thêm dần vào từ thế kỷ thứ V, cho hợp với lập trường
giáo nghĩa của Thượng tọa bộ Tích Lan (Theravada) [2].
Gác ngoài những
phần thêm thắt, nội dung nguyên thủy chia hai phẩn: phần mở đầu và phần
đối thoại chính. Phần mở đầu gồm một đoạn văn tả cảnh kinh thành Sákala (Xá
Kiệt) chỗ vua Di Lan Ðà đóng đô, sự tích của vua Di Lan Ðà và những nỗi
bâng khuâng bất mãn của ông trên con đường tầm đạo vấn chân, sự tích sơ
lược về Tỳ kheo Na Tiên, và cuối cùng là sự đối diện giữa hai người.
Phần đối thoại đề
cập đến hầu hết các vắn đề từng được Giáo pháp Nguyên Thủy giảng dạy như:
vô ngã, luân hồi, tái sanh của danh sắc trạng thái của La Hán, bản thể của
Niết Bàn, sự xuất thế của Phật, tánh cách vô thượng của Phật v.v. Trong
cuộc đối thoại nầy, vấn đề hấp dẫn nhà vua nhất là sự lợi ích của đời sống
tu hành mà từ trước chưa được ai giải đáp thỏa mãn. Câu giải đáp của Na
Tiên là: người xuất gia chắc chắn đạt được thánh thiện, và đạt được mau
chóng hơn kẻ tại gia.
Tuy nội dung phần
đối thoại không có gì mới so với giáo nghĩa Nguyên Thủy, nhưng cách trình
bày thật là sắc sảo, mạnh mẽ, sáng sủa, tinh vi và nhất là sống động, luôn
luôn kèm theo nhiều thí dụ rất sát ý, khiến người đọc thấy tâm hồn mình
phấn khởi một cách phơi phới. Ðặc điểm độc đáo là chính ở đấy.
Và chính vì đặc
điểm độc đáo ấy mà Milindapanhà được Giáo Hội Phật Giáo Tích Lan tôn thờ
gần ngang hàng với thánh điển Ngũ bộ Kinh; Phật giáo Miến Ðiện thì xếp
Milindapanhà vào thánh điển hẳn. Vào thế kỷ thứ V, luận chủ số một của Nam
Tông là ngài Phật Âm (Buddhaghosa) thường trích dẫn kinh nầy để dùng làm
luận cứ chứng minh cho các tác phẩm của ngài, và trên lục địa Ấn độ, một
đại luận chủ khác là ngài Thế Thân (Vasubandhu) cũng nhắc đến kinh
Milindaphanhà trong khi soạn bộ luận trứ danh của ngài là bộ A tỳ đạt ma
Câu xá luận (Abhidharmakosa).
Như trên, ta đã
thấy giá trị và uy tín của Milindapanhà đối với Phật giáo đồ như thế nào,
và địa vị của Milindapanhà trong rừng Thánh điển Phật giáo cao cả trang
trọng ra sao.
Theo bản văn Pali
của Tích Lan thì soạn giả là đại đức Pitakaculàbhaya, người Trung Ấn. Theo
bản Hán dịch hiện lưu hành trong Bắc Phương Phật giáo thì soạn giả là Bồ
tát Long thọ, vị luận sư số một của Ðại thừa Phật giáo thường được tôn
xưng là Ðệ Nhị Thích Ca.
Có lẽ cả hai
thuyết đều đúng. Và đúng hơn nữa là soạn giả không chỉ có hai, mà còn
nhiều vị khác nữa. Bằng chứng là phương Bắc có 3 bản Hán dịch dựa vào 3
nguyên bản khác nhau.
Theo sử liệu chắc
thật thì vua Di Lan Ðà trị vì từ năm 163 đến năm 150 trước Tây lịch. Bấy
giờ, nhà vua chỉ hỏi miệng, và ngài Na Tiên khi đáp,cũng chỉ đáp miệng.
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi
trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau
Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày, từ miệng này sang miệng khác có sai
lệch đi chăng, cho nên bấy giờ các Thánh Tăng mới bắt đầu kiết tập thành
sách. Hiện tượng giống như việc kết tập "Những lời Phật dạy" thành Thánh
điển A Hàm hay Thánh Ðiển Ngũ Bộ Kinh. Vì có nhiều người trước soạn trong
nhiều thứ tiếng khác nhau, do đó mà tuy nội dung vẫn chỉ một, nhưng cách
bố cục và cách hành văn có xê xích bất đồng.
Một điều khác cần
sự lưu ý là trong phần mở đầu có đoạn ám chỉ rằng Phật giáo bấy giờ đang
bị tai biến (Mi Tiên vấn đáp trang 29) . Vậy tai biến đó là gì? Ta nên
biết rằng khi Di Lan Ðà lên ngôi (163) thì triều đại Khổng Tước của A Dục
đã sụp đổ năm 187 tức trước đó 24 năm. Bấy giờ ở lưu vực sông Hằng, triều
đại kế tiếp thuộc dòng họ Sanga của võ tướng Pusyamitra, một quyền thần
của tiền triều lên chiếm. Triều đại nầy rất có ác cảm với Phật giáo và tập
trung hết nỗ lực vào việc chấn hưng Bà la môn giáo. Vua Di Lan Ðà người
gốc Hy, vào làm vua ở Tây bắc Ấn Ðộ và quy y theo Phật giáo, ngoài lý do
tín ngưỡng, chắc hẳn thế nào cũng còn có lý do chính trị nhằm mục đích thu
phục nhân tâm mà đa số là tín đồ Phật giáo chống lại Pusyamitra. Cái tai
biến của Phật giáo lúc bấy giờ chính là cái tai biến do Pusyamitra gây ra
vậy. Do đó, sự xuất hiện của Na Tiên và cuộc đối thoại về đạo lý với vua
Di Lan Ðà lại càng dễ được người đời truyền tụng và nhớ dai, cho nên ai
sức nào ghi lại sức ấy. Ðây là lý do thứ hai khiến có nhiều bản kinh Na
Tiên khác nhau.
Cuối cùng, đứng về
mặt giáo nghĩa, đọc kinh Na Tiên, ta thấy rõ tư tưởng của ngài mặc dù là
tuyệt đối trung thành với giáo pháp nguyên thủy, nhưng có nhiều khía cạnh
đã manh nha những điểm tế nhị ảo diệu của tư tưởng đại thừa. Có lẽ chính
vì đặc điểm này mà ngài Long Thọ (xuất hiện hơn 2 thế kỷ sau) cũng trước
soạn lại kinh Na Tiên để mở màn cho giáo lý trung quán xuất hiện. Xét ở
khía cạnh này, rõ ràng tư tưởng Na Tiên là tư tưởng chuyển tiếp giữa Tiểu
thừa và Ðại thừa. Như vậy địa vị quan trọng của Kinh Na Tiên lại cũng được
chứng minh ở đặc điểm này nữa.
Về tiểu sử của Ðại
đức Na Tiên, tài liệu hiện lưu truyền nói rất mơ hồ, lắm khi còn mâu thuẫn
nhau nữa.
Phần I của Na Tiên
Tỳ Kheo Kinh (tương đương với quyển I kinh Milindapanhà) có cung cấp cho
ta một ít tia sáng. Nhưng các chi tiết của tiểu sử ấy quá sơ sài và lờ mờ
khiến các sử gia Phật giáo bâng khuâng tự hỏi nhân vật Na Tiên có quả thật
là nhân vật lịch sử không?
Có người từng
khẳng định rằng đồng đời với vua Di Lan Ðà (Milinda) không thấy có ghi vị
tỳ kheo đắc đạo nào tên là Na Tiên (Nagasena) cả. Họ ức đoán rằng có lẽ Bồ
tát Long Thọ (Nagarjuna), vị thánh tăng xuất hiện sau hơn hai thế kỷ, vì
muốn soạn một quyển kinh bằng thể vấn đáp để dễ truyền bá Phật pháp nên
nhân có vua Di Lan Ðà là người gốc Hy quy y theo Phật giáo và cai trị vùng
Tây bắc Ấn Ðộ bao trùm cả lãnh thỗ Ba Tư và A Phú Hãn trong thế kỷ II
trước Tây lịch, Bồ tát bèn sáng chế ra tên Nagasna mà cách phát âm lơ lớ
giống tên Nagarjana để gửi gấm những ý kiến của riêng mình. Giả thuyết này
từng được soạn giả Ðoàn Trung Còn ghi lại trong bài tựa của Na Tiên Tỳ
Kheo Kinh do ông phiên dịch.
Theo tài liệu về
Phật học sử do các sử gia đứng đắn kê cứu thì Bồ tát Long Thọ, xuất hiện
vào đầu hoặc giữa thế kỷ II sau Tây lịch mà kinh Milindapanhà bằng tiếng
Pali thì đã từng được lưu hành trong khoảng thế kỷ đầu của Tây lịch. Như
vậy, giả thuyết trên khó có thể đứng vững được. Phương chi, truyền thống
Nam Tông theo văn hệ Pali ít có thiện cãm với tư tưởng Long Thọ, và những
gì bắt gốc từ Long Thọ đều bị truyền thống ấy gạt ra ngoài, không bao giờ
nhắc nhở đến. Như thế nếu Na Tiên Tỳ Kheo Kinh thật là sáng tác của Long
Thọ thì e rằng Nam Tông không chịu kết tập lại, như họ đã từng không chịu
chấp nhận các tác phẩm lừng danh trong học giới của vị Bồ tát "Ðệ Nhị
Thích Ca" nầy là Trung Quán, Thập Nhị Môn Quán v.v.
Do đó mà suy, ta
chỉ có thể chấp giả thuyết đã được trình bày ở đoạn đầu Lời Nói Ðầu này,
với một Na Tiên có thật.
Tiểu sử của ngài,
căn cứ vào phần một của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hoặc quyển I của
Milindapanhà, đại khái như sau:
Ngài sanh tại làng
Casangala (Kajangala), dưới chân núi Hy Mã Lạp, ở vùng Tây bắc Ấn Ðộ,
trong một gia đình Bà La Môn mà thân phụ tên là Sonattara. Theo bản Hán
dịch thì làng nầy thuộc nước Kế Tân (Kashmir). Ngài xuất gia thọ giáo với
La hán Lâu Hán (Rohana), từng được bổn sư cho tháp tùng để học đạo và du
hóa tại các chùa trên núi Hy Mã Lạp. Tiếp theo ngài được gửi đến thọ giáo
với La hán Át Bá Nhựt (Assagutta) tại chùa Hộ Tân (Vattaniya). Trong thời
gian thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt, nhân một thời pháp nói cho một lão
tín nữ nghe, cã ngài và lão tín nữ bổng nhiên được pháp quả "nhãn tịnh",
và cả hai cùng chứng đắc sơ quả "Dự lưu" mà siêu phàm nhập thánh. Sau đó,
Ngài được La hán Át Bá Nhựt cho đông du, đến thọ giáo với La hán Ðạt Ma Ra
Khi Ta (Dhammarakhita) tại chùa A Dục (Asokàrama) ở thành Hoa Thị (Pataliputra).
Ngài thông suốt Tam Tạng Thánh Giáo và chứng quả A La Hán tại đây. Từ đó,
tiếng tăm lừng lẫy, ngài đi giáo hóa khắp đó đây. Cuối cùng, ngài dừng
chân tại chùa San Khế Da (Sankkheyà) ở thủ đô Xá Kiệt (Sagala) trong vùng
thượng lưu Ngũ Hà (Punjab) . Tại đây, Ngài gặp vua Di Lan Ðà, trước đó đã
quy y với trưởng lão Dã Hòa La (Ayupàla) mà nhà vua đã nhiều lần đến hỏi
đạo và không mấy được thỏa mãn. Sự tương ngộ giữa Di Lan Ðà và ngài là đầu
mối của Kinh Milindapanhà hay Na Tiên Tỳ Kheo Kinh nầy mà nội dung sẽ được
trình bày lại trong mục đối thoại sau đây.
Nha Trang, ngày 7 tháng 5, 1970
Soạn giả
Cao Hữu Ðính
Ghi chú:
[1] Ðây là dựa
theo giả thuyết được nhiều học giả công nhận rằng Milinda có lẽ là tên của
vua Menander của giống dân Hy Lạp miền Bactria.
[2] Hòa thượng
Giới Nghiêm Thitasìlo, chùa Phật Bảo, Ðà Nẳng, đã dịch sang Việt ngữ bộ
kinh Pali Milindapanhà, với tựa đề "Mi Tiên Vấn Ðáp": quyển 1 năm 1963,
quyển 2 năm 1973, và quyển 3 năm 1981. Bộ nầy đã được Thích Ca Thiền Viện,
California, Hoa Kỳ, tái bản năm 1998.
Chân thành cám ơn Nhóm chủ trương Nguyệt san Phật Học, Kentucky, Hoa
Kỳ,đã có thiện tâm gửi tặng bản điện tử bộ kinh Na Tiên Tỳ Kheo nầy - (Bình
Anson, 08-1999)
Source: BuddhaSasana
--- o0o ---
Mục lục |
01 | 02 |
03 |
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |