Khổ khổ…
Khổ khổ là
một trong tam khổ [1]luôn xảy ra trong cõi Ta Bà này. Khổ là sự bất an,
sự đau đớn, sự thống thiết, sự kêu gào, sự chịu đựng, sự bấn loạn, sự
cay điếng, sự tan nát, sự chấn động, sự đả thương… từ thân thể đến tinh
thần của một chúng sanh. Sự khổ đó không chừa một ai, từ một em bé mới
sinh, một thanh niên vạm vỡ, cho đến cụ ông bà già trăm tuổi tóc bạc da
nhăn gần kề cái chết. Cái khổ này chồng chất lên cái khổ khác, cái khổ
cơ thể vật chất sinh lý nguyên thủy của con người, cộng với cái khổ dày
xéo bất an nội tâm sâu kín. Cái khổ còn thấy được, cái khổ không thấy
được, cái khổ có người giúp, cái khổ không người giúp, và cái khổ chẳng
thấy, chẳng ai giúp được. Cái khổ thế nào cũng chỉ cảm được cụ thể, khi
chính mình đang khổ mới là cái khổ thống thiết.
Định nghĩa
khổ chỉ là định nghĩa phỏng tâm cảm động, chua xót trắc ẩn nhất thời,
chứ chẳng thể hiểu được cảm thọ va chạm đau đớn. Chỉ hiểu được sự khổ
thật khổ như Phật dạy, ngay khi chúng ta đang may mắn hạnh phúc hưởng
lạc hiện thực cuộc đời này, vì cái gọi là hạnh phúc hưởng lạc chỉ là
sanh diệt sát na, đó chính là sự khổ chính đáng; và đó gọi là hoại khổ,
phát sinh theo vô vàn thống khổ mà chúng sanh phải trực nhận. Đó chính
là sự vô thường bất thật của sự vật, của con người của vũ trụ nhân sinh.
Một vật thể, hình thể, rồi phải hoại dần; một con người, vật thể tất
nhiên chẳng ra khỏi chân lý hư hoại, và đến cả ý thức vi tế cũng thay
đổi liên tục, sinh diệt chẳng ngừng, khiến con người chẳng hề an lạc
được mãi.
Những gì có
hình có ảnh, những thứ ấy được cấu tạo do nhiều nguyên tố nhân duyên,
những ảnh thể nào sinh ra do nhân duyên đều hư hoại, vì có sinh tất có
diệt. Như thế hiểu được cái khổ là hiểu được sự hạnh phúc hiện thời của
ta đang luôn luôn sinh diệt vô thường, chẳng bao giờ hưởng được hạnh
phúc dài lâu, đó là cái khổ hoại diệt vậy. Không đợi đến trực diện khổ
mới khổ, nó đã thành khổ khi nghĩ đến sự khổ; không đợi nghĩ đến sự khổ
mới khổ, mà cái khổ tất nhiên khi ta đang sống trong thế giới của hoại
diệt xảy ra liên tục này (thành, trụ, hoại, không).
Mấy ngày
nay, ngày đau thương nhất của cuối năm 2004, ngày 26 tháng 12 một thiên
tai kinh hoàng đã xảy ra trong vùng Đông Nam A, xảy ra nhằm cuối năm
chuẩn bị đón mừng năm mới. Tin tức trên mạng Đài BBC cho biết, số người
chết được phỏng đoán lên đến một trăm ngàn (100.000); trong số đó không
ít hàng trăm, có thể hàng ngàn người, đang khi chuẩn bị ăn mừng năm mới,
hoặc đang tận hưởng ngày nghỉ làm việc, từ những nơi miền duyên hải A
Châu. Họ là người Tây phương, cũng không ít người trong vùng Châu A;
cuộc vui đang an hưởng bất chợt hóa thành đau thương tử biệt. Theo bản
tin trên mạng, ước chừng số người tây phương mất tích và chết có đến
hàng trăm; và con số người mỹ được xác nhận đến nay có hàng trăm người
mất tích.
Sự đau khổ
khiến thân nhân kẻ quá cố, trong hoàn cảnh nào cũng là đau khổ. Nước mắt
khóc cho cha, cho mẹ, cho chồng, cho vợ, cho anh, cho em, cho cháu, cho
bạn hữu, cho tình đồng loại đến nay hãy còn. Nước mắt ấy chẳng còn phân
biệt Tây phương, Đông A, nước mắt đó là nước mắt mà Phật dạy nước mắt
chúng sanh cùng mặn, cũng như bao giọt máu đổ ra hòa vào nước biển, chảy
trôi theo vô số nghễnh ngang đồ vật, dòng máu ấy Phật dạy cũng cùng màu
đỏ mà thôi.
Tình huynh
đệ tứ hải, tình nhân loại năm châu, giờ đây có lẽ cấp nguy mau mau thể
hiện. Tích Lan, Nam Dương, An Độ, Thái Lan, Mã Lai, Miến Điện và các Đảo
quốc tính có hàng chục quốc gia. Các quốc gia này có thể khác nhau thể
chế chính trị, khác nhau tín ngưỡng tôn giáo, truyền thống văn hóa,
nhưng không thể khác hơn niềm đau thương, cảm động, khóc cho dân lành
gặp nạn thiên tai. Tiếng khóc từ bên kia quốc gia này chẳng khác tiếng
khóc từ bổn địa quốc gia kia; nước mắt có còn đâu để phân biệt, khóc cho
cha, cho mẹ, cho chị, cho em…
Hiện nay
không ai bảo ai, các hội từ thiện đã tích cực lao vào công tác cứu trợ,
hy vọng giúp được phần nào hay phần nấy, để chia xẻ niềm thương đau nhân
loại thâm tình nhân thế với nhau. Một miếng khi đói bằng một gói khi
no; bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống nhưng chung một dàng.
Người Phật
tử trong lúc này ai lại không chua xót, ai lại không động lòng, ai lại
có thể làm ngơ, và ai lại chẳng xem đây là thời điểm khẩn tu cụ thể
nhất, phát lòng từ bi thương người bố thí. Huống chi Phật dạy cơ bản của
người tu Phật trước tiên phải là từ bi, bố thí. Bố thí là hạnh cao quý,
chẳng những thế tục còn ca ngợi, xưng dương, mà đường hành đạo giải
thoát dẹp tan được tham lam tự ngã.
Nhưng bố thí
không thôi chưa đủ, người Phật tử hãy lấy lời Phật dạy, hãy quan sát sự
kiện đau lòng của người để quay lại chính mình suy nghiệm. Ngày nào còn
giữ được ưu tư nỗi thống khổ xót xa vì nhân sinh trong cái sống vô
thường, ngày đó chất liệu giải thoát sẽ chín dần theo hành trang học đạo
chính ta. Sống thương yêu, sống tha thứ, sống hòa ái trong tỉnh thức đó
là cách thể hiện cuộc sống thiết thực này. Phật dạy do tham ái, tự kỷ,
chấp ngã, chấp pháp, nên đời sống hóa ra đau thương, và sự xuất hiện
mang thân này dù ở thế giới nào chẳng tránh được khổ đau trong mọi hoàn
cảnh.
Thiên tai,
nhân tai suy ngẫm chẳng ngoài con người mà ra, nguyên vì những ý thức
dệt lên từ vô lượng kiếp tạo thành cộng nghiệp duyên sinh, hóa ra thế
giới Ta Bà này; ngược lại chuyển mê thức thành trí thức giác ngộ giải
thoát, thì thế giới sẽ thay đổi theo tâm thức, và cứ một biệt nghiệp
hướng thiện, vươn lên cho tha nhân đạt đến vô ngã, thế giới theo đó là
thế giới thanh tịnh, thế giới phi thế giới, được dệt bằng những thương
yêu của tâm thức, đó là thế giới Phật vậy.
Ngày nay
chúng ta cùng sống trên cõi Ta Bà đầy phiền trược thương đau, cái khổ
mang thân vật chất đã đủ khổ, lại còn bị hạnh hạ cái khổ ngoại duyên tác
động, đó chính là một cộng nghiệp bất thiện từ vô thỉ đến nay, cho nên
cộng sanh cộng khổ. Dù ta không phải là nạn nhân, là thân nhân của nạn
nhân, nhưng ta là nhân chứng, nhân chứng hoặc chứng kiến, hoặc nghe tin,
hoặc xem hình, đó là nhân chứng đau thương chua xót tình đồng loại, và
đó là cộng nghiệp khổ cùng xuất hiện ở thế gian này.
Bài học
trước tiên phải chia xẻ, là phải cứu giúp trong khả năng mình; phải
nguyện cầu thế giới được yên vui, người người an lạc; hãy xem nhau tất
cả là anh em một nhà, là chúng sanh có tình thương yêu cao nhất trong
tất cả chúng sanh hữu tình giác tỉnh. Lấy sự thể đau thương xảy ra này
nhắc nhở rằng cái khổ thế gian chỉ có thể vượt lên bằng tình thương yêu,
mới có thể xoa dịu nỗi đau của người lâm nạn. Và lấy ngay sự kiện vô
thường nhân thế, để đánh thức tâm từ, bỏ đi vị ngã cá nhân, bỏ đi tánh
sân tham trong lớp vỏ bé nhỏ ngã mạn của chính mình. Như vậy thật sự đã
thể hiện sự cảm thông, sự thương tưởng tình yêu đại đồng nhân loại. Cuối
cùng hãy cầu nguyện cho tất cả người thân của nạn nhân, cùng người
thương tật còn sống xót, chóng hồi phục thân tâm, xây dựng lại đời sống
yêu thương hạnh phúc. Cầu nguyện bao hương hồn không may quá vãng sẽ
được yên lành thoát khỏi sự sợ hãi đã trải qua, để sanh về nơi an lành
tịnh cảnh. Cầu nguyện cho tất cả những người chứng kiến, hiểu biết biến
cố này, sẽ động tâm ý thức rằng thế giới cần phải lấy thương yêu để sống,
và luôn an lành để sẳn sàng đùm bọc học hỏi với nhau trong tình yêu nhân
loại.
Nam Mô A Di Đà Phật
Thích Phổ Huân
Sydney, 30 -12-2004
[1] Tam khổ: khổ khổ,
hoại khổ, hành khổ
***
Chuyến thăm không định trước.
Tôi
đến Anh Quốc lần này (2004) có hơn năm lần; mỗi lần hoàn cảnh khác nhau,
nhưng chỉ có hai sự thay đổi kỷ niệm lớn khó quên, đó là lần đầu tiên
khi còn là cư sĩ của hơn mười ba năm trước và năm sau đó mang hình tướng
người tu đến nay. Lần đến Anh này chỉ để tịnh tâm vài tháng. Trong lúc
tá túc tại tư gia người cháu con người anh thứ hai được hơn tháng rưởi
sắp trở về Uc, tình cờ nhận được liên lạc với Thầy Đồng Văn. Thầy mở lời
chào hỏi kèm theo vài lời trách, rằng sao tôi đang ở gần Đức Quốc mà
không qua thăm chùa Tâm Giác. Tôi đã khéo trả lời, không thể qua thăm
được vì cận ngày về Uc, hơn nữa lại có hẹn tiếp xúc vài người quen nên
đành không thuận ý với Thầy. Nhưng rồi lá thư e-mail thứ hai khiến tôi
không còn cách từ chối. Thầy phán rằng: Tôi đã đến Uc, đã ở Chùa Pháp
Bảo, ở Tu Viện Đa Bảo đến gần ba tháng vậy mà Thầy lại không thể viếng
thăm chùa Tâm Giác dù chỉ một tiếng đồng hồ hay sao! Đọc thư mail
xong, tôi liền đặt vé máy bay ngay; đặt ở luôn đến một tuần lễ, tỏ lòng
đáp lại nhã tình mà Thầy vừa chân thành mời, vừa chân thành‘trách’!
Bây
giờ trở lại Luân Đôn, thật thầm cảm ơn Thầy Đồng Vân lần nữa, dù đã cảm
ơn Thầy và Tăng chúng trước khi mãn cuộc thăm viếng. Tri ân Thầy, vì
chuyến đi này tôi chẳng những biết được nơi sinh hoạt Phật sự chùa Tâm
Giác, biết được phần nào thành phố trù phú vùng Munich Đức quốc, tôi còn
được thăm nơi tàn tích đau thương biến cố lịch sử, những nạn nhân trong
thời chiến tranh thứ hai, đó là trại tập trung Dachau (Dachau
Concentration Camp), nơi giam người, và thiêu đốt hàng trăm, hàng
ngàn dân Do Thái dưới bàn tay sát khí của nhà độc tài Hitler. Nhờ thăm
nơi đau thương này tôi càng thấy được nhân duyên tu đạo khi được mang
thân người là thù thắng. Nay trở lại Luân Đôn xin ghi lại ít cảm tưởng
về chuyến thăm không định trước, nhất là hình ảnh Trại giam thời chiến
tranh thứ hai đã gây ấn tượng trong tôi mãi đến bây giờ.
Đọc sách
báo lịch sử, hay nghe kể miêu tả lò sát sanh giết người trong thời chiến
tranh thứ hai, rõ hơn một tí là xem phim ảnh thời sự còn giữ lại; nhưng
hôm nay đứng trước cảnh tượng dấu tích của ngày xưa mà chừng như vẫn còn
ghê rợn. Đã gần 60 năm qua từ khi phe đồng minh tiến vào giải phóng địa
ngục đen tối nhất lịch sử này, vậy mà giờ đây nhìn lại tường vách không
gian hiện thời, không ai lại không trầm ngâm bùi ngùi liên tưởng đến
cảnh khiếp hải kinh hoàng đó. Được biết trại tập trung nơi đây chỉ là
một trong nhiều trại rải rác trên khắp nước Đức và ngoài nước.
Viết miêu
tả về trại giết người này đã có nhiều văn sĩ viết ra thành sách, hay
trung thực hơn, chính tác giả là nạn nhân, nhân chứng còn sống sót kể
lại; do vậy tôi chỉ có cảm tưởng riêng tư nơi mình trong cái nhìn của
người con Phật, xúc động ghi lại vài nét.
Đi thăm
Trại hôm đó chỉ có ba người, Chú Nguyên Biên, Anh Thành và tôi. Riêng
Anh Thành đã đến tham quan một lần cách đây khá lâu. Anh kể, lần đó chỉ
đứng bên ngoài không dám vào trong xem. Hiện thời thì Anh nói: Lần đó
sao thấy ớn quá không dám vô, lần này có Thầy nên dựa hơi không sợ!
Chú Nguyên Biên dù ở Đức khá lâu mà cũng chưa đi xem lần nào, nên dịp
lên chùa Tâm Giác thăm Thượng Tọa Trí Minh, rồi nghe tôi muốn đi xem,
cũng xin tháp tùng đi. Xin thưa Thượng Trí Trí Minh là phương trượng
chùa Khuôn Việt ở Na Uy, đi Phật sự tại chùa Tâm Giác.
Điều đầu
tiên bước vào trại làm người tham quan hơi khó chịu, cũng không ít ngạc
nhiên, là vô số con bồ móng bay tỏa khắp nơi, chúng lại còn bu quanh phủ
đầu người. Nghe Anh Thành nói, hiện giờ là cuối thu sắp vào đông, loại
sinh vật nhỏ này đâu thể có nhiều như vậy, lạ nữa chúng chỉ xuất hiện
trong trại mà thôi. Để xem lời anh nói có đúng hay không, khi chúng tôi
trở ra khỏi trại; và quả thật bên ngoài rào, từ con đường dẫn đến chỗ
đậu xe khoảng hai trăm thước, không có đến một con làm phiền chúng tôi.
Chú Nguyên Biên suy nghĩ, nhận định sự việc này có phần tâm linh huyền
bí. Chú nói:… biết đâu chừng, đó là những oan hồn tái sanh trở lại,
do vì căm hờn uất ức, chết mà không hiểu được nguyên nhân, hay trước khi
chết chứng kiến bao người thân mình, bà con mình, dân tộc mình chết. Vì
lý do vậy nên thần thức đau đớn căm hờn, khiến tái sanh làm con bù móng
quanh quẩn mãi nơi tử địa này mà chẳng theo nghiệp đầu thai làm thân
khác. Anh Thành nhận định thêm: cũng có thể họ tủi hờn đau khổ
không muốn người đến tham quan, nên cứ nhắm vào đầu mặt người mà bu!
Sau khi ra về, trên xe chú Nguyên Biên kể cho tôi và anh Thành nghe, khi
bị bu đầu như vậy chú chợt nghĩ, đây chắc phải là oan hồn rồi, nên thầm
lặng mà niệm Phật cầu nguyện cho chúng được siêu thoát; chú niệm Phật
được một lúc thì tự nhiên chú quên đi, và không hay biết mình không còn
bị chúng quấy nhiễu nữa. Chú nghĩ rằng đây là một điều lạ khó thể giải
thích.
Riêng tôi
thì có cảm giác như vầy; dù tôi vẫn bị bu quanh đầu không khác gì chú
Nguyên Biên, Anh Thành, nhưng có điều tôi cho đó không quan trọng, cũng
không đến nổi khó chịu bực mình; vì thật tình lúc bắt đầu bước vào trại
tâm tư tôi miên man, nghĩ về sự kiện con người cùng chung một nòi giống,
một ý thức vươn lên để tồn tại; trong đó sự thương yêu thù ghét hẳn
nhiên phải mâu thuẩn phức tạp. Nhưng con người không vì vậy mà quên đi ý
thức cùng là một sinh vật sống có ý thức cao hơn các loài khác, nhưng
sao con người lại có thể hủy diệt đồng loại với nhau chỉ vì một ý thức
cá biệt ích kỹ tham lam như thế! Nhưng ý thức cá biệt kia không thể tồn
tại khi phải nương gá vào cộng đồng ý thức. Tôi không thể tưởng được sự
khó nghĩ này, nên cảm động chua xót nhìn ngắm từng cảnh tượng không gian
vật cảnh, như không thể tin được trước mắt một chứng tích rõ ràng, cách
đây hơn 60 năm nơi đây xảy ra thảm sát đau thương như vậy. Do miên man
nghĩ ngợi, lại bận tìm một vài cảnh chụp, nên không để ý cũng chẳng quan
tâm mấy đến bày bồ móng quanh quẩn trên đầu. Hay có lẽ nào chúng nghe
được, hiểu được tâm tư tôi bấy giờ, nên cũng sót xa cho thân nghiệp mình
mà ít làm phiền tôi chăng? Và thật tôi chẳng thấy làm phiền lắm so với
Anh Thành và chú Nguyên Biên.
Tàn tích còn lại của trại hầu như chỉ là khoảng trống
không gian lặng lẽ, hiện lên dư âm ngậm ngùi xúc động trong lòng khách
vãng lai viếng thăm. Hàng chục dãy nhà giam, giờ chỉ còn lưu lại khuôn
nền sỏi đá, như những dãy mồ khổng lồ được lấp phẳng. Tổng số dãy nhà
phá đi có đến ba mươi bốn căn, chỉ chừa lại 2 căn nhà làm chứng tích
hình ảnh trại tập (concentration camp) trung của lịch sử đen tối này.
Tận cùng của hai hàng dãy nhà, hiện ra trước mặt là
đền kỷ niệm tưởng nhớ đến những người nằm xuống. Đến đây hướng về phía
trái là nơi hành hình và thiêu đốt xác người.
Một nhà thiêu nhỏ diện tích không lớn hơn ngôi nhà ba
phòng mà đã thiêu đốt hết 11.000 người; vậy không biết bao nhiêu người
đã thành tro trong một dãy nhà thiêu lớn hơn gấp hai ba lần được dựng
lên gần đó.
Ngay cửa chính trước khi bước vào bên trong nhà thiêu
lớn, trước mắt cảnh tượng chừng như nguyên vẹn, hai lò thiêu người hiện
ngay ra trước mặt, khoảng cách chỉ cách lối vào năm bảy thước. Nếu không
bị ngăn bằng sợi xích rào thì người xem có thể đụng chạm được gạch tường
lò thiêu, cũng như chiếc băng ca chuyển xác chết đẩy vào lò. Hai phía lò
thiêu là những dãy phòng được ngăn chia làm những phòng nhỏ, có ghi rõ
nơi chứa thây chết, chờ chuyển vào lò, và một phòng hơi ngạt xử lý tù
nhân sống biến thành thây chết rồi đốt thành tro ít giờ sau đó.
Đi vào
phòng bên cạnh lò thiêu, đọc lời giới thiệu chỉ dẫn làm tôi phải giựt
mình, nếu không có bản giải thích dán lên tường thì chẳng khác gì bao
phòng ốc ở trường học, cư xá dân cư. Vừa đọc xong, Anh Thành liền nói:
thôi đi ra Thầy ơi, đứng đây sao thấy ghê quá! Anh đọc tiếng Đức,
tôi đọc tiếng Anh, cùng lúc tôi cũng hiểu như anh, nhưng anh giải thích
thêm làm cả hai phải xúc động và xót thương cho người quá cố. ‘ This
room was used to store the corpses that were brought from the prisoner
camp to be cremated’. Căn phòng này dùng để chứa xác người, được
mang từ trại tù đến đây để hỏa thiêu.
Theo tài liệu hướng dẫn tham quan, thì trại Dachau
này được thành lập từ 1933; đã dung chứa trên 200.000 (hai trăm ngàn) tù
nhân bị bắt giam từ khắp nơi ở Au Châu; và số người chết nơi này có hơn
43 000 (bốn mươi ba ngàn) người.
Tôi không có nhiều thời gian quan sát kỷ hơn, nhưng cảm nhận
điều đau lòng đã vừa đủ!.
Thật ra
cảnh tù đày nào lại chẳng có chết chóc đau thương, nhưng lịch sử nơi đây
cảnh tượng giết người hàng loạt có sắp đặt lập trình quy mô, đã trở
thành quá khủng khiếp. Chúng tôi đi vào viện bảo tàng xem lại lịch sử
chiến tranh, lịch sử những ý thức hệ sai lạc đã dẫn đưa bao sinh linh vô
tội đi vào cõi chết. Động tâm đau thương hơn, viện còn lưu giữ lại vài
vật dụng cá nhân của người tù.
Thôi thì có
nói thế nào sự kiện đã trở thành quá khứ, tuy nhiên việc lưu trử tàn
tích lịch sử là điều quan trọng, giúp con người hôm nay và ngày mai lấy
đó làm kinh nghiệm, đừng bao giờ quên hình ảnh đau thương nơi đây.
Ngay trước
họa hình đài tưởng niệm nạn nhân, có dựng hàng chữ nổi bằng vài ngôn
ngữ, ngôn ngữ của các quốc gia liên hệ trong tàn tích lịch sử này; và
chỉ có võn vẹn vài chữ rằng: never again. Có lẽ nên tạm dịch là, xin
đừng bao giờ tái diễn lại cảnh tượng đau thương này. Nhưng tại sao không
ghi rõ như vậy, mà quá vắn tắc? Hỏi cũng tự trả lời! Tôi cũng đồng ý,
không cần phải ghi dài dòng văn tự, vì cụ thể lịch sử tàn tích hình ảnh
còn đó, cần gì phải nói cho nhiều. Không chừng nói nhiều, phân bua cho
rõ làm sai lạc đi niềm đau thương, hay tệ hơn đùa giởn lên sự đau thương
khủng khiếp đó. Nếu như được cũng không cần ghi gì cả, bởi bên cạnh là
một hoạt hình nổi diễn tả hàng lớp người tù lỏa lồ còn da bọc xương dính
mắc nhau, chồng chất nhau đang ngoằn ngoại, đang tắt hơi đi vào cõi
chết. Nhưng, nghĩ cũng nên viết, và viết như vậy đã quá đầy đủ.
Quan sát
hôm chúng tôi tham quan, có đến khoảng năm chiếc xe buýt lớn loại chở
khách xuyên tiểu bang; đặc biệt khách trên những xe đó toàn là học sinh,
sinh viên. Như vậy rõ ràng đường hướng chính sách chính phu,û có lập
định đàng hoàng việc tham quan dành cho những người trí thức trẻ, mong
rằng sự kiện biến cố lịch sử nơi đây sẽ ghi đậm vào ý thức người trẻ bài
học đau thương của nhân loại, và như vậy mọi quốc gia trên thế giới,
hiện nay và mai sau phải được lãnh đạo bằng công bình dân chủ, bằng tình
thương nhân loại với nhau, và nhất là tránh ‘never again’ cảnh tưởng
giết người khủng khiếp như thế xảy ra trên hành tinh này.
*
Nói
về việc thăm chùa Tâm Giác tôi cũng được nhân duyên một ít vui, dù chỉ ở
ít ngày tôi đã được Thầy Đồng Văn và Chú Tài hướng dẫn thăm niệm Phật
đường Tam Bảo vùng Reultinger do Ni sư Như Viên trụ trì, và cũng được
Thầy mời chứng minh buổi lễ Hằng Thuận (thành hôn). Buổi lễ diễn ra tại
chánh điện Phật Đường vừa đủ kính số người tham dự. Không gian tuy không
rộng lớn nhưng ấm cúng tình người tình đạo. Quý Thầy Cô hôm đó gồm có:
Thầy Đồng Văn, Ni sư trụ trì, Đại Đức Giác Đức, Chú Hạnh Tâm và tôi.
Buổi lễ diễn ra và hoàn mãn trong nghi thức giản dị, nhưng đặc sắc mang
tính hướng thiện xây dựng theo niềm tin chánh pháp Phật Đà.
Sau
chuyến thăm Niệm Phật đường Tam Bảo cách chùa Tâm Giác khoảng 300 cây
số, về lại Tâm Giác, tôi lại được duyên tiếp tục cuộc thăm viếng chùa
Viên Giác, thăm Thầy Phương Trượng, Thầy trụ trì và quý huynh đệ nơi
đây, chuyến đi này phải đi xe lửa vì xa gấp đôi Phật Đường Tam Bảo.
Mỗi
lần thăm chùa Viên Giác, mỗi lần biết thêm vài Tăng chúng mới ở chùa.
Thật sự đến nay tôi cũng không rõ biết Thầy Phương trượng chùa Viên Giác
(PTCVG) đã có được bao nhiêu Tăng Ni đệ tử. Có lẽ ở hải ngoại này, Tăng
sĩ người Việt ngoài Thiền sư Nhất Hạnh ra, Thầy PTCVG là vị Thầy thứ hai
độ chúng xuất gia đông nhất. Điều này cũng thật mừng cho Phật Giáo Việt
Nam ở hải ngoại, mong rằng duyên độ chúng của Thầy vẫn còn tiếp tục,
cũng như chư huynh đệ, đệ tử của Thầy hiện nay và tương lai sẽ ít nhiều
tạo nên hình ảnh đẹp cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Thăm
chùa Tâm Giác gần một tuần, trong đó được hai ngày cuối tuần. Ngày chủ
nhật Thầy Đồng Văn đã mời tôi nói chuyện với quý Phật tử. Mặc dù không
được thông báo trước số Phật tử hiện diện đến nghe vẫn chiếm hơn phân
nữa chánh điện. Xét thấy rằng, nơi đâu Phật tử cũng chuộng nghe pháp,
mến Tăng Ni, nên dù trình độ học Phật của quý vị vẫn có thể tự học,
nhưng vẫn luôn về chùa nghe pháp.
Như
vậy chuyến thăm Đức Quốc lần này không phải là dự tính, nhưng đã để lại
trong tôi nhiều hoài cảm vui buồn với cảnh người cảnh vật.
Lần
nữa xin cảm niệm công đức Thầy Đồng Vân, xin chân thành tri ân công đức
quý Bác, quý Chú, quý Anh Chị Phật tử đã ân cần đón đưa và cúng dường
tịnh tài trong chuyến thăm chùa Tâm Giác vừa qua.
Xin
được chúc nguyện đến tất cả người con Phật, hai giới xuất gia tại gia
hằng nuôi dưỡng mãi Bồ Đề Tâm để ngôi nhà Phật pháp trường tồn dài lâu
trên cõi Ta Bà này.
Nam
Mô A Di Đà Phật
Luân
Đôn ngày 23/10/2004
Thích
Phổ Huân
---o0o---
Cập nhật: 01-12-2004