Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

    Tiếng Anh  

qd.jpg (8936 bytes)

Vu Lan Báo Hiếu


...... ... .


VU LAN NGHĨ VỀ ĐẤNG SANH THÀNH

TT Thích Tín Nghĩa

---o0o---

Trong nếp sống tình cảm đầy đạo đức của con người Đông Phương, đặc biệt là người Việt Nam và Trung Hoa; nếu nhắc nhở đến một thứ Ân sâu, Nghĩa nặng, cao cả bao la thì đó là Ân Nghĩa Sanh Thành.  Ca dao tục ngữ đã thường nhắc nhở:

Đã làm người đứng trong trời đất
Ai là không Cha Mẹ sanh thành?
Có Cha Mẹ mới có mình, 
Ở sao trọn Hiếu, trọn tình làm con.

Trong một xã hội trãi qua quá nhiều tan tóc, đau thương như Việt Nam chúng ta, khi bao nhiêu đứa con yêu của tổ quốc ra đi vì hoàn cảnh, xa lìa Đấng Sanh Thành, thì thấy sự mất mát và trống vắng trong tâm khảm của chúng ta vô cùng to lớn như trời đất, biển cả.

Đó là một thứ Ân Đức đầy tha thiết và đậm đà làm sao.

Bởi vì:

Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới đạo làm con.

Và cứ thế, tình yêu thương của Cha Mẹ cứ lớn dần lên mãi khi Người (Cha Mẹ) đã chịu trăm đắng nghìn cay để  tạo ra chúng ta và lo cho chúng ta nên người.   Ân Đức ấy cứ tỏa ra và tỏa ra mãi cho đến khi Người buông xả, nhắm mắt vĩnh viễn để xa hẳn chúng ta.

Tình xâu nghĩa nặng dường ấy, thử hỏi chúng ta đã báo đáp những gì.  Hay chỉ là những lời khóc mướn thương vay, chúng ta nuôi Cha Mẹ tính ngày tính tháng.

Hay chỉ là thuộc vào những phường vô ơn bạc nghĩa, những kẻ chỉ biết đam mê theo mồi phú quý, bả vinh hoa, để đánh mất hết nhân tính của chính chúng ta?

Và, cho dù lòng người có đảo điên đến mức độ nào chăng nữa, Ân Đức Sanh Thành vẫn khoan dung độ lượng như hải hà.  Ân Đức của Đấng sanh thành mà ngàn đời ấy, chỉ biết đem hết sức lực và máu huyết của mình ra để nuôi dưỡng đàn con mà không một lời than thở và không bao giờ nghĩ đến chuyện báo đền.

Vậy thì, thân phận của chúng ta hôm nay, gửi thân nơi xứ lạ quê hương, ân sâu nghĩa nặng đã trở thành hai phương trời cách biệt; đó là niềm đau xót tận tâm can của chúng ta trong nỗi đảo điên của vận nước, trong nổi điêu ngoa của thế thái nhân tình, thì hình ảnh sanh thành dưỡng dục lại hiện về như đôi bàn tay hòa ái,  như nụ cười đôn hậu, khoan dung.

Ôi! Cao cả làm sao! Cả một bầu trời thánh thiện đang che chở cho chúng ta.  Thì dù cho non nước đổi dời, dù biển cạn núi mòn, nhưng Ân Nghĩa Sanh Thành vẫn muôn   đời bất diệt.

Dù xuất gia hay tại gia cũng đều là Phật tử cả.  Bởi vì Phật tử tức là:

Tùng Phật khẩu sanh, tùng Pháp hóa sanh, đắc Phật Pháp phần, cố danh Phật tử đúng mức thì phải là con người chí hiếu rồi; có nghĩa là không thể và không bao giờ quên hay làm ngơ đi cái ân thiêng liêng mà Cha Mẹ, Ông Bà tổ tiên đã tạo dựng cho chúng ta thành thân, nên người.

Trong Kinh Vu Lan Đức Phật răn dạy cho hàng đệ tử của Ngài là phải: "…đền đáp ân đức sanh thành dưỡng dục…", Phật Pháp cảnh giác rằng thân người khó được mà dễ mất.  Khó được mà được là nhờ có ân sanh thành, dễ mất mà còn là nhờ ân dưỡng dục.

Cho nên, là Phật tử là con của Phật thì phải biết và nghe theo đoạn kinh được rút ra Tăng Nhất A Hàm đại tập, tập 2 trang 601 có đoạn  nói về ơn Cha nghĩa Mẹ như sau:

"Có hai việc làm cho phàm phu được đại công đức thành đại quả báo, được vị cam lộ, đến chỗ vô vi, đó là phụng sự Cha Mẹ được đại công đức, thành đại quả báo khi cúng dường vị Bồ Tát chỉ một đời nữa là thành Phật.  Vì vậy các Tỳ Kheo, hãy luôn luôn nhớ và hiếu thuận với Cha Mẹ."

"Các Thầy Tỳ Kheo, có hai người mà các Thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vậy chưa trả được ơn, đó là Cha Mẹ.  Nếu có kẻ vai trái để cõng Cha, vai phải cõng Mẹ đến ngàn vạn năm, cung phụng đủ cả đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và thuốc thang, để Cha Mẹ tiểu tiện, đại tiện ngay trên vai mình đi nữa, cũng chưa trả hết ơn Cha Mẹ.  Các Thầy phải hiểu rằng ơn Cha Mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, không lỡ cơ hội, làm cho ta thấy được nhật nguyệt, vì thế biết ơn ấy rất khó trả.  Do đó, các Thầy phải phụng dưỡng Cha Mẹ luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không lỡ mất cơ hội."

Đoạn kinh này nhân mùa An Cư Kiết Hạ, Đức Phật trực tiếp răn dạy cho hàng xuất gia.  Bởi vì Đức Phật nhận thấy ân Cha, nghĩa Mẹ sâu dầy như thế, người xuất gia không thể vì nại cớ chỉ lo làm lành lánh dữ hướng dẫn tu niệm vẫn chưa đủ.  Một khi Cha Mẹ cần đến mình, nếu mình không thể đáp ứng thì đừng xuất gia còn hơn.  Đây là một đoạn nhỏ rút ra từ Kinh A Hàm, tại tập 1, trang 500.

Chính Ngài Trí Húc cũng vẫn theo lời dạy của Đức Phật được rút ra từ trong Tục Tạng, tập 35 trang 154b với ý như: "…Có hai vị Phật sống ở trong nhà các ngươi, đó là Cha và Mẹ."

Bởi vì theo Tục Tạng, tập 59, trang 201a, phần Kinh Bảo Tạng có dạy:

"Hiếu sự Cha Mẹ là vua Trời Đế Thích ở trong nhà các người, thực hành hiếu là chúa Trời Đại Phạm ở trong nhà các người, hiếu tận lực thì Đức Thích Ca ở trong nhà các người."

Và cũng trong Tục Tạng tập 59, trang 21a, đứng về Giới Luật, Đức Phật cũng dạy:  "Bởi vì ngay giới luật Thanh Văn đi nữa, nếu thấy Cha Mẹ bị bắt, không cố chuộc ra, là phạm đệ thất tụ."

Cho nên, là đệ tử Phật, dù xuất gia hay tại gia đều phải phụng dưỡng Cha Mẹ.

Hàng tại gia thì lo làm lụng, phụng dưỡng Cha Mẹ vật chất theo khả năng có được của mình.  Song song với sự phục dưỡng vật chất, còn phải hướng dẫn Cha Mẹ theo con đường thiện, tức là hướng về Phật Pháp.

Hàng xuất gia không chỉ những phụng dưỡng Cha Mẹ bằng cách hướng dẫn Song Thân tu niệm Chánh Pháp, mà còn phục dưỡng Cha Mẹ theo như Kinh Vu Lan Bồn, trong Tạp A Hàm, ở Đại Tập, tập 2, trang 22 có đoạn hướng dẫn là:  "Như Pháp khất thực mà phụng dưỡng Cha Mẹ, thì phước đức rất lớn."

Ngày Đức Phật còn tại thế, chính Ngài đã trực tiếp dạy cho vua Ba Tư Nặc về hiếu hạnh của Ngài.   Ngài nhấn mạnh cho nhà vua biết qua Kinh Tăng Nhất A Hàm, trong Đại Tập, tập 2, trang 637 rằng:  Chính Ngài cũng là thành phần của loài người, Cha là Chân Tịnh, Mẹ là Ma Gia.  Ân đức Cha Mẹ vô cùng trọng yếu, nên khi Ngài trở về hoàng cung vấn an Phụ Vương cũng như dẫn dắt Phụ Vương và hoàng thân quốc Thích Ca Tỳ La Vệ theo Chánh Pháp.  Khi Ngài về đến gần Kinh đô, Ngài nghĩ:   Ơn Cha Mẹ rất nặng, tình dưỡng dục cao dầy, Ngài không để cho Phụ Hoàng nghênh tiếp; gần giáp mặt, mà Ngài phải phi thân lên bảy thước.  Theo ý của Ngài Tôn Mật, là Đức Phật không để Phụ Vương lạy trực tiếp.

Đức Phật nhận ra công ơn sanh thành dưỡng dục của Cha Mẹ cao thâm, nên trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại Tập, tập 2, trang 749 có nói:  "Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài vẫn đề cao Phụ Mẫu Lực, mà không sử dụng Thần Túc Lực và Trí Tuệ Lực."

Gương hiếu hạnh của Ngài đã thể hiện qua hình ảnh ở trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại Tập, tập 2, trang 822 và 823 có đoạn nói:

"Khi Ngài nghiên vai gánh quan tài của Kế Mẫu là bà Đại A? Nhạo Tỳ Kheo, lúc bà nhập diệt.   Chính Đức Phật đã từ chối sự làm thay của chư thiên.   Ngài dạy: Cha Mẹ sanh thành, làm con lợi ích rất nhiều, ân nuôi dưỡng không thể báo đáp.  Ngài nghiên vai gánh một góc, ba góc kia Ngài bảo các em của Ngài là Tôn Giả Nan Đà, Tôn Giả A Nan và Tôn Giả La Vân cùng khiêng đến tận chỗ hỏa táng.   Chính Ngài đích thân hỏa táng Kế Mẫu."

Cùng với việc mà trong Tăng Nhất A hàm và Tạp A Hàm ở trong Đại Tập, tập 2, trang 703 và trang 134, cùng với trong Kinh Địa Tạng đều ghi Đức Phật lên cung Trời Đao Lợi thuyết pháp cho Thân Mẫu nghe.

Đức Phật dạy: "Dù xuất gia hay tại gia, ai có hiếu tức là đã giữ giới".  Ngài thường dạy: "Hiếu là giới.  Vì Lục Đạo chúng sanh là Cha Mẹ".   Chính đều này đã chỉ dẫn cho chúng ta thấy:  Hiếu hạnh là Luật vậy.  Hàng xuất gia Đức Phật dạy kỷ từng ly từng tý như vậy.

Hàng tại gia Đức Phật dạy phải biết phụng dưỡng Cha Mẹ ngoài vấn đề vật chất, khi đấng sanh thành còn tại thế.  Khi Cha Mẹ và ông bà tổ tiên đã khuất bóng cùng với lục thân quí quyết thuộc thì sao, một khi mùa Báo Hiếu trở về?

Trước tiên là sắm lễ vật theo khả năng và hạnh nguyện để dâng cúng Thập Phương Chúng Tăng nhân mùa Tự Tứ.  Trước là nhờ ơn đức của đại chúng sau ba tháng an cư chú nguyện.  Nhờ oai lực của Tăng Chúng mà sự cúng dường của chúng ta có được phước báo vô cùng.  Trong Kinh Vu Lan Bồn:

"Ai được hiến cúng liệt vị Thánh Tăng tự tứ như vậy, thì cả Cha Mẹ cùng cả bà con, được tiêu trừ các thống khổ ở trong ba đường dữ tức thời giải thoát, cơm áo tự nhiên, tự tại hóa, sanh vào trong thiên giới, phước lạc vô cùng."

Chúng ta cúng Phật, chư Tăng chú nguyện, Cha Mẹ hiện tại cũng như quá khứ đều lợi lạc.

Tóm lại, là Phật tử là người con chí hiếu.  Như trên đã nói: "Cái đức từ hiếu nghĩa là Từ là Hiếu.  Phật Giáo quan niệm tất cả chúng sanh trong lục đạo, thay phiên nhau làm Cha, làm Mẹ, làm thân bằng quyến thuộc của nhau." Điều này trong Kinh Duyên Mệnh Địa Tạng Bồ Tát có đoạn nói: "Chuyển hồi lục thú, sanh sanh phụ mẫu, thế thế huynh đệ…", nghĩa là: "Quanh quẩn lục thú, kiếp kiếp làm Cha Mẹ lẫn nhau, đời đời làm anh em quyến thuộc…"  Như vậy, chắc chắn rằng theo nghiệp dẫn thì có người lên kẻ xuống; do đó, chúng ta phải cầu nguyện.  Không phải chỉ cầu nguyện trong mùa Vu Lan, mà phải thường cầu nguyện cho đều.

Mặc dầu trong Kinh dạy là thoát nạn đau khổ trong ngạ quỷ là hình ảnh của Mẹ của Ngài Mục Kiền Liên đã làm ngạ quỷ. Thật ra, Cha Mẹ, thân bằng, lục thân quyến thuộc của chúng ta sẽ bị đọa tất cả trong ba đường dữ.

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Đại Tập, tập 2, trang 600, Đức Phật đã dạy:

"Ai biết trả ơn thì người ấy đáng kính.  Người ấy ơn nhỏ còn không quên huống chi ơn lớn.   Người ấy dầu ở cách ta ngàn dặm hay trăm ngàn dặm mà vẫn không xa ta.  Vì lẽ, các Thầy Tỳ Kheo, ta luôn luôn ca tụng người biết trả ơn thì ơn lớn cũng quên, huống chi ơn nhỏ.   Kẻ ấy sẽ không gần ta, ta không gần kẻ ấy.  Kẻ ấy dù mặc Pháp Y và ở ngay bên trái hay bên phải của ta đi nữa, cũng vẫn xa ta…"

Những lời dạy thống thiết của Đức Phật đối với hàng đệ tử của Ngài.  Cho dù Cha Mẹ không nghèo khổ, chúng ta cũng phải có bổn phận lo nghĩ đến ân đức sanh thành, huống nữa Cha Mẹ đang còn nghèo đói.  Hàng Phật tử phải đúng Pháp mà cúng dường và phụng dưỡng.   Có như vậy mới lợi lạc cho mình và cho người thọ thực cũng được an lạc.

Để kết thúc bài này, xin nhắc lại một lần nữa là: Ngày Vu Lan là ngày Báo Hiếu, là ngày đề cao ý niệm: Hiếu là Giới.  Ngài Trí Húc đã dẫn giải rõ ràng theo Kinh Ma Ý, cho thấy Đức Phật dạy rút ra từ Tục Tạng, tập 35, trang 152b như sau:

"Giữ giới chính là hiếu thuận báo ơn Cha Mẹ."

Ngay trong Bồ Tát Giới Kinh cũng đã dạy rõ ràng:

"Quả báo của tội phá giới nặng nhất, đến nỗi hai hay trong ba kiếp không còn nghe được danh từ Cha Mẹ hay Tam Bảo."

Con người Bất Hiếu thì luôn luôn ở trong ba đường dữ:  Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Chúng ta có Cha Mẹ, chúng ta phải làm gì khi song thân còn tại thế hay đã qua đời.  Đặc biệt là hàng để tử của Phật.

 

--- o0o ---

| Mục lục Tác giả |
                                 
                             
--- o0o ---

Vi tính: Thục Đức

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật ngày: 01-08-2002

 

Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Vu Lan Báo Hiếu

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com