VU LAN MÙA HIẾU
HẠNH
Thích
Huệ Minh
---
o0o
---
Bao nhiêu thế kỷ đã trôi qua, theo
từng bước thăng trầm trên những trang sử của nhân thế, chúng ta
thấy thế nhân đã bao lần gánh chịu cảnh tang thương.
Nổi thống
khổ điêu linh do hậu quả của những cuộc chiến tranh.
Mà phải
chăng chiến tranh được phát xuất từ lòng tham muốn và thù hận
của con người? Thay vì vận dụng khả năng và lý trí của mình
vào việc kiện toàn đời sống, hữu ích nhân sinh, con người đã
sử dụng một phần lớn khả năng kiến thức của mình vào việc
sát phạt lẫn nhau. Nói cách khác, nhân loại vẫn mãi khổ đau,
khi có người không nhận chân được giá trị cao quý của đời
sống tâm linh, nền tảng luân lý Đạo Đức.
Hôm nay nhân mùa Vu Lan Rằm tháng Bảy, hay còn gọi là
Mùa Hiếu Hạnh của những người con hiếu đạo, chúng ta hãy ôn cố
tri tân nói về chữ hiếu. Vì khi nói đến Đạo Đức tức
chúng ta đã nói về hiếu đạo vậy.
Nghìn kinh muôn sách của
thánh hiền lấy hiếu nghĩa làm đầu "Thiên kinh vạn quyển, hiếu
nghĩa vi tiên". Một xã hội tốt, một quốc gia hùng cường,
một thế giới an lạc và thanh bình phải được bắt đầu từ những
con người tốt: biết tôn trọng giá trị đạo đức, thực hành hiếu
đạo. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều này, những kẻ
tận trung ái quốc, mến nước thương dân, những đấng minh quân cho
đến những bậc hiền triết thánh nhơn điều được bắt đầu từ
những người con hiếu hạnh. Vua Tự Đức một bậc minh quân
ngày xưa, lúc thiếu thời mỗi khi lầm lỗi, tự mình dâng roi để
Mẹ đánh phạt, Ngài Lục Tổ Huệ Năng trước khi thực hành đại
nguyện tầm sư học đạo, đã chuẩn bị cho Mẹ già có được cuộc
sống chu toàn. Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên tôn giả, một vị
thánh tăng đại đệ tử của Đức Phật, với lòng đại hiếu cảm
động thấu tận 9 tầng Trời cao.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Được Đức Phật chỉ dạy tác Pháp Vu Lan nương nhờ
thần lực sức chú nguyện của chư Tăng đã cứu độ Mẫu Thân
khỏi chốn ngạ quỷ, chính Đức Phật khi còn tại thế, sau khi giác
ngộ thành Đạo Bồ Đề, Ngài đã dùng thần thông lên cung trời
Đao Lợi thuyết pháp độ Mẫu Thân, khi Phụ Hoàng Tịnh Phạn băng
hà, Đức Phật đã tự tay khiên quan tài của vua cha đến hỏa táng.
Ôi! Gương hiếu hạnh của người xưa kể sao cho hết.
Đạo
Đức Kinh của Nho Giáo lấy hiếu làm đầu trong muôn hạnh: "Hiếu
hạnh vi vạn hạnh vi tiên". Khổng Giáo cũng lấy hiếu làm
nền tảng. Không có tội lỗi nào to lớn hơn bị tội bất hiếu,
kẻ đã bất hiếu thì không một việc nào mà không dám làm, trong
Kinh Đức Phật có dạy: "Việc thiện trên hết không gì hơn là
hiếu, điều ác cùng cực không gì hơn là bất hiếu".
Từ
nghìn xưa cho đến ngày nay hiếu hạnh được xem như khuông vàng
thước ngọc để thẩm định giá trị đạo đức của con người.
Ngay từ thuở ấu thơ, khi cắp sách đến trường, chúng ta đã
dược thầy cô dạy bảo phải biết thương cha kính mẹ, ê a qua những
câu ca dao:
Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Thật vậy, công Cha như Trời cao khó sánh, nghĩa Mẹ
tợ biển rộng khó dò; với tam niên nhủ bộ, chín tháng cưu mang, Cha
Mẹ xiết bao vui mừng khi con cất tiếng chào đời, Cha không ngại gian
lao, Mẹ không quản tảo tần nuôi con khôn lớn, bao nỗi truân chuyên
dường như tan biến theo hai tiếng gọi: ma ma (má má)
thốt ra từ
vành môi bập bẹ của con. Mắt Mẹ long lanh vui theo từng bước
chập chững con đi, mỗi khi trở gió ấm đầu, Cha Mẹ hết lòng lo
lắng, quên ăn mất ngủ, bôn ba chạy chữa thuốc thang, khi con bình
mạnh mới thôi:
Con đau ốm tức thì lo chạy.
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bịnh đặng lành
Thì Cha Mẹ mới an phần định tâm
Quãng đời thơ ấu được sống trong tình thương bao la
diệu vợi của Mẹ hiền, tắm mình trong suối mát chứa chan tình Mẫu
Tử thiêng liêng, an lành trong vòng tay ấp ủ và ấm cúng trong tình
yêu thương ngọt ngào được tỏa ra từ trái tim của Mẹ thật không
còn hạnh phúc nào hơn, một nhà thơ đã thốt lên:
Cho tôi sống lại tuổi nằm nôi,
Tuổi chập chững đi, chập chững ngồi
Tuổi được sống trong vòng tay Mẹ
Để bầu sữa mãi ấm vành môi.
Thật không hạnh phúc nào hơn khi Cha Mẹ còn tại thế,
lúc con thơ nhỏ Cha Mẹ là tàng cây bóng mát ấp ủ chở che sớm
trưởng thành, đến khi con khôn lớn thời Cha Mẹ đã già nua, nhưng
hình bóng khả kính thân thương vẫn luôn sưởi ấm cõi lòng con,
giúp con cảm nhận rằng mình còn gìn giữ được cái gì thiêng
liêng cao quý nhất trong đời.
Khi con lên 5 lên 6 Cha Mẹ dắt con cắp sách đến
trường, mong con đổ đạt thành tài, nên danh nên phận.
Năm
dài tháng rộng, không quản gian lao vất vả, một nắng hai sương, làm
lụng nuôi con ăn học, đến khi khôn lớn thì lo bề gia thất, dựng
vợ gã chồng, mong con được hạnh phúc. Ánh mắt hiền hòa,
nghĩa cử hy sinh của Cha Mẹ đã dạy cho con bài học vị tha, yêu
thương đồng loại, kính trọng tha nhân.
Lời dạy bảo của đấng
từ nghiêm đã un đúc con nên người hữu dụng.
Chúng ta làm
sao có thể nói hết tình Mẹ thương con, công Cha huấn dưỡng.
Công ơn Cha Mẹ cao sâu dường ấy.
Nên lòng hiếu hạnh,
bổn phận của kẻ làm con, luôn được nhắc nhở qua những dòng
văn thơ hoa mỹ cho đến những câu ca dao tục ngữ bình dị, và thắp
thoáng khắp nơi trên những trang sử của sách thánh hiền.
Người bình dân Việt Nam diễn đạt hương vị ngọt
ngào mát diệu của tình Mẹ qua những câu ca dao mộc mạc thâm tình:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau
Hay để nói lên công ơn sanh thành, trưởng dưỡng:
Thương thay chín chữ cù lao
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình
Lòng Mẹ được ví như đại dương bao la, tình Mẹ
được sánh như trăng tròn hiền dịu:
Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình
Tình Mẹ tha thiết như vầng trăng tròn
Mắt Mẹ là cả bầu trời ân ái, tim Mẹ là mặt
kỳ quan tuyệt hảo." Tiếng gọi Mẹ chan chứa tình Mẫu Tử
thiêng liêng, như một bức thông điệp tình thương ban phát cho nhân
loại làm tan đi những thống khổ thù hận của loài người.
Đối với Phật Giáo, vai trò sứ mạng của bậc Cha Mẹ được
đưa đến sự tuyệt đỉnh của sự tôn quý:
Phụ Mẫu tại đường như Phật tại thế
Trong kinh văn Đức Phật đã dạy: "Sanh ra đời
gặp lúc không có Phật khéo phụng dưỡng Mẹ Cha, chính là phụng
thờ và gặp Phật vậy." Bổn phận làm con, mấy ai trong chúng ta
đã làm tròn hiếu đạo. Kinh Thi đã có chép:
Phụ hề sanh ngạ, mẩu hề cúc ngã
Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao
Dục báo thân ân, hiệu thiên võng cực.
Đối với người con hiếu hạnh, khởi tâm thành báo
đáp ân Cha nghĩa Mẹ, sớm hôm hầu cận, quạt nồng ấm lạnh, cơm
nước thuốc thang
chỉ là đền đáp công ơn trong muôn một, các
vị Cổ Đức ngày xưa, vì muốn cho Cha Mẹ được vui lòng, không quản
ngại bất cứ việc gì. Nhớ xưa ông lão Lai tuổi ngoài 60, làm
quan lớn trong triều đình, nhưng khi về nhà ông thường mặc những
màu áo sặc sở, rồi nhảy múa giống như trẻ con, làm cho Cha Mẹ
được vui cười. Ngày nay chúng ta có làm cho Cha Mẹ được
toại ý vui lòng, mỗi khi người mong muốn một điều gì hay không?
Hay một khi Cha Mẹ già yếu, chúng ta mau thu xếp đưa Cha Mẹ vào
dưỡng lão, trốn tránh trách nhiệm làm con, để Cha Mẹ chết dần
mòn trong buồn tuổi cô đơn. Hoặc nuôi Cha Mẹ để lo việc cơm
nước, quét dọn trong nhà, chẳng khác nào kẻ ăn người ở.
Xem Cha Mẹ như một gánh nặng trong gia đình.
Thật đúng với
câu:
Cha Mẹ nuôi con biển hồ lai láng.
Con nuôi Chạ Mẹ, tính tháng tính ngày.
Chúng ta đừng để một khi Cha Mẹ mất đi, rồi hối
tiếc gì để không làm tròn hiếu đạo, thì đã muộn màng, tích xưa
thầy Tử Lộ lúc thiếu thời, tuy trong cảnh bần hàn nhưng là
người con chí hiếu, hằng ngày đội gạo về nuôi Cha Mẹ, đến khi
làm quan, vinh hoa phú quý, muốn được phụng dưỡng Cha Mẹ, nhưng ôi
thôi Cha Mẹ đã còn đâu, đã cất tiếng than rằng:
Mộc dục tịnh nhi phong bất đình
Tử dục dưỡng nhi thân bất tại
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng
Con muốn báo đáp thâm ân, thì Cha Mẹ còn
đâu
Huống chi chúng ta, nên lúc Cha Mẹ còn sinh tiền mà
bất hiếu, bất dưỡng, đến khi người khuất thế thì lương tâm lầm
lỗi đến mức nào cùng.
Đối với người con Phật đã ân cần dạy bảo phận
làm con phải tròn hiếu đạo, không những chỉ phụng dưỡng chăm
sóc Cha Mẹ về mặt vật chất, mà còn phải khéo khuyên Cha Mẹ
hướng thiện, làm lành lánh dữ và tu niệm theo lời Phật
dạy, ngõ hầu Cha Mẹ có được một cuộc sống tinh thần an lạc
trong hiện tại, và giải thoát sinh tử trong vị lai.
Khi Cha Mẹ qua
đời phải hết lòng thành kính y kinh Phật dạy, tác Pháp Vu Lan bồn,
kiến tạo phước điền bố thí cúng dường v.v
nương nhờ Phật
lực gia hộ và sức chú nguyện của thanh tịnh Tăng để Cha Mẹ có
thể trưởng thừa công đức mà vãng sanh về Tịnh Độ hay cảnh
giới lành.
Ngày nay làm thân người viễn xứ, phận kẻ lưu lạc
tha hương, sống nơi đất khách quê người, quê hương yêu dấu đã
xa cách bởi nghìn trùng đại dương, thật diễm phúc thay cho những ai
còn được kề cận bên đấng sanh thànĐại Đức Thích Huệ Minhh,
sớm hơn phụng dưỡng, hãy tận hưởng trọn vẹn những hương vị
ngọt ngào của tình Cha nghĩa Mẹ. Riêng đối với những ai tuy
đấng song thân còn tại thế nhưng cách biệt bởi nghìn trùng xa, thì
làm sao hiếu đạo? Theo tình thần "Nhứt nhơn tác phước
thiên nhơn hưởng" và y cứ vào Đại Báo Phụ Mẫu Ân Kinh
mà Đức Phật đã dạy, nếu chúng ta cố gắng làm lành lánh
dữ trong thường nhật, tạo các phước điền bố thí cúng dường
đem lòng từ bi đối sử với tha nhân, giữ gìn thân miệng ý cho
trong sạch và tinh tấn tu niệm chính và những việc làm để tỏ lòng
hiếu kính vậy. Theo kinh báo hiếu Đức Phật dạy: "Chúng sanh
trong cảnh giới này đã từng lăn trôi sanh tử luân hồi trong
nhiều đời nhiều kiếp, từng làm Cha Mẹ của chúng ta trong nhiều
đời trước." Trong Kinh Phạm Võng Đức Phật cũng có dạy:
"Phải xem nam nhân trong đời là Cha ta, nữ nhơn trong đời là Mẹ
ta." Vậy khi chúng ta làm bất cứ việc gì lợi ích cho tha
nhân tức chúng ta tự tạo cho chính mình một nguồn chân hạnh phúc,
một niềm an lạc nơi tâm hồn, và là chúng ta đã thực hành hiếu
đạo vậy.
Thành tâm dâng nén tâm hương ngũ phần, hồi hướng
công đức cúng dường mười phương chư Phật cho thới giới
được thanh bình chúng sanh an lạc, đất nước Việt Nam sớm thoát
khỏi cảnh lầm than. Nguyện cầu Phật từ phổ độ Cửu Huyền
Thất Tổ cùng nhất thiết chư tiên linh quá vãng sớm siêu thoát
khổ luân, tảo đăng An Lạc Quốc.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại
Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Tác Đại chứng minh.
---
o0o
---
|
Mục lục Tác giả
|
---
o0o
---
Vi
tính: Thục Đức Nguyên Châu
Trình
bày:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày: 01-08-2002