- Chương
V (tt)
-oOo-
* ÐỐI VỚI NGHỆ THUẬT
Thoạt nhìn, thái độ
phủ nhận của đức Phật đối với nghệ thuật là điều
đáng ngạc nhiên. Có lẽ, trước kia là một vương tử, ngài
đã chán ngán âm nhạc và ca múa. Tuy nhiên có lẽ đúng hơn,
ngài phản đối tính cách hấp dẫn của mọi hình thái nghệ
thuật. Nhiệm vụ của nghệ thuật là gây cảm xúc và đưa
cảm xúc đi xa, gợi lên một sự đáp ứng hòa điệu, làm
xao lãng tâm trí khỏi sự quán sát hướng nội. Nó có
khuynh hướng khơi dậy các mối dục vọng đam mê trong khi
Giáo Pháp làm cho lắng dịu dục vọng. Nghệ sĩ tạo nên một
thế giới tưởng tượng đầy quyến rũ, còn Giáo Pháp tìm
cách thâm nhập thế giới thực tại. Là người cầm đầu
một Giáo đoàn, nên đức Phật có khuynh hướng đối lập
nghệ thuật: "Này các Tỳ-kheo, ca ngâm được xem là
khóc than trong giới luật các bậc Thánh, nhảy múa được
xem là điên loạn, cười lớn để lộ cả răng là trẻ con
trong giới luật của bậc Thánh..." (AN 3. 103)
Tuy ngài bác bỏ âm nhạc
theo lý trí, việc ngài có cảm tình đối với tính chất
nghệ thuật này lộ ra trong một bài kinh của Trường Bộ,
dầu đó chỉ là một huyền thoại. Sau khi nghe một khúc
tình ca do nhạc thần Càn-thác-bà (gandhabba) tên Pañ
casikha (Ngũ-Kế) biểu diễn, ngài khen ngợi chàng nhạc sĩ
ấy về sự hòa điệu giữa giọng ca và âm thanh trình tấu
qua dây đàn bằng gỗ vàng Beluva và cũng vì bài ca của
chàng có nhắc đến Phật, Pháp, Tăng cùng các A-la-hán nữa.
(DN 21.1) .
Ngoài ra, đức Phật còn
bài bác những màn diễn kịch. Ở cổ Ấn Ðộ, kịch là sự
phối hợp giữa vũ điệu không lời và ngâm khúc hài hước
hay trang nghiêm. Gần thành Ràjagaha có một ông bầu ca vũ kịch
tên là Talaputa điều khiển một đoàn hát rong với một số
nghệ sĩ và phụ tá đông đảo. Khi đến yết kiến đức
Phật, Talaputa hỏi bậc Ðạo Sư có thật là các diễn viên
làm trò cho khán giả vui cười thích thú với âm thanh ánh
đèn sân khấu v.v... sẽ được tái sanh vào cõi Hý Tiếu
Thiên (Chư Thiên vui cười). Ðức Phật tế nhị giữ im lặng,
để tránh cho Talaputa khỏi lo ngại vì nghe câu trả lời bất
lợi. Nhưng khi Talaputa nài nỉ, ngài giải thích rằng những
kẻ nào tạo ra vọng tưởng điên đảo cho người khác bằng
các trò ảo thuật sẽ bị tái sanh vào địa ngục*
hay loài bàng sanh. (SN 42.2)
Ðức Phật giảng cho
chàng thanh niên Sigàla rằng ta nên tránh ca vũ nhạc kịch vì
đi xem chúng không chỉ hao tốn tiền bạc mà chúng còn ràng
buộc tâm trí ta vào ước vọng triền miên, đòi hỏi xem
thêm nhiều vở kịch, nghe thêm nhiều bài ca, điệu nhạc,
khúc ngâm, tiếng trống, tiếng kèn v.v... (DN 31. 10)*.
Tham đắm các hình thức
nghệ thuật là một chướng ngại cho giác ngộ giải thoát.
CÁCH ÐỨC
PHẬT CƯ XỬ VỚI ÐỆ TỬ TẠI GIA
* ÐỐI VỚI NAM GIỚI
Trong vòng vài năm khởi
đầu sự nghiệp hoằng hóa, đức Phật nổi danh là một đạo
sư thuyết giảng ở vùng "Trung Nguyên" và bất kỳ
ai có điều kiện cũng tìm cơ hội nghe ngài. Ngài nói rất
dễ nghe, trầm tĩnh, với giọng điệu thanh tao, lịch sự và
ngôn từ phong phú. Thông thường ngài thêm một vài tiếng
đồng nghĩa vào một động từ hay tính từ tự nó có lẽ
quá đơn sơ tẻ nhạt, điều này không làm cho ý tưởng câu
nói rõ ràng hơn mấy tí, nhưng khiến người nghe có đủ thì
giờ tiếp thu ý nghĩa. Ngài lại còn minh họa các đề tài
của ngài bằng hình ảnh lấy từ cuộc sống.
Hơn tám trăm (800) ví dụ
đếm được trong Kinh Ðiển Pàli, rút ra từ mọi phương diện
trong đời sống Ấn Ðộ và từ thiên nhiên. Ta có thể thấy
người thợ vàng làm việc, thợ chạm ngà voi, thợ làm
tên, làm đồ gốm, người đồ tể xẻ thịt bò cái, bò
cái chưa được xem là linh thiêng ở thời đức Phật, người
buôn bán cầm cái cân thật nhẹ tay để có lợi cho mình,
không có một nghề nào ngài không sử dụng để làm ví dụ.
Ngài cũng lấy các hình ảnh ngoài thiên nhiên: sư tử (thường
ở vùng Tây Ấn) và voi, tính tham ăn nôn nóng của con khỉ,
vẻ nhút nhát dễ thương của con linh dương, vẻ quỷ quyệt
của con cá sấu - tất cả mọi con vật này thường được
đề cập cũng như thế giới thực vật: hoa sen, cây chuối,
cây xoài, cây tala (họ dừa). Các ảnh dụ của đức Phật
phản chiếu cả một thế giới ở vùng gần nhiệt đới.
Một số nhà Phật học
đã thấy vài bằng cớ về tính hài hước trong cách thuyết
giảng của đức Phật, song khó nói điều này đúng hay sai.
Các cách ngài diễn tả căn cứ trên thần thoại Ấn Ðộ
(DN 11.81; SN 11. 3. 2), ví dụ câu chuyện ngụ ngôn về
bà chủ nhà Vedehikà chịu đựng lâu ngày vì bị thử
thách, cuối cùng đã nổi giận và đập lên đầu cô nữ tỳ
với cái then cửa khiến cô chảy máu (MN 21), có thể là
chuyện này cũng như vài chuyện khác tương tự, không có ý
nghĩa hài hước theo đức Phật và cũng không được xem là
hài hước trong bối cảnh văn hóa Ấn Ðộ. Ðức Phật
không xem tiếng cười là ích lợi cho giải thoát. Có lẽ
ngài nhìn nhận tiếng cười hòa giải con người với cuộc
sống, trong khi đó, theo quan điểm của ngài, tất
cả vấn đề then chốt là phải giải thoát ra khỏi thế giới
này.
Ðức Phật Gotama không
phải là vị đạo sư thuyết giảng với vẻ hùng biện nồng
nhiệt sôi nổi. Ðúng hơn, ngài khởi đầu bằng cách bình
thản trình bày một số lý luận và nhận thức. Ngài hành
động theo nguyên tắc không chiêu dụ thính giả, mà tạo niềm
tin cho họ. Ngài không bao giờ thúc giục bất cứ ai chấp
nhận Giáo Pháp vì ngài hiểu rõ là "tuệ giác không
đột ngột xuất hiện mà phải thành thục dần dần - cũng
giống như biển cả tuần tự xuôi dần, chứ không dốc đứng
thình lình như vực thẳm" (AN 8. 19).
Quả thật nếu ai tuyên
bố được cảm hóa vào đạo một cách vội vàng, ngài cũng
cảnh báo vị ấy không nên chuyển hướng quá nhanh chóng,
như trong trường hợp người đệ tử tại gia của phái
Ni-kiền-tử, đại tướng Sìha thuộc bộ tộc Licchavi ở
Vesàli. Và khi tướng Sìha, mặc dù được đức Phật bảo
phải suy nghĩ thật kỹ về việc quy y vào đạo mới của mình,
vẫn cương quyết xin theo Phật Pháp, bậc Ðạo Sư bảo vị
ấy phải tiếp tục cúng dường lễ vật cho các vị đạo
sĩ Ni-kiền-tử (Mv 6. 31).
Một trong những biệt
tài của đức Phật là khơi dậy niềm tin vững chắc trong
lòng quần chúng. Ðại vương Bimbisàra giữ lòng tín thành với
ngài suốt ba mươi bảy năm cho đến lúc băng hà, và thái tử
của vua là Ajàtasattu, chẳng hề là người kính mộ đức
Phật chút nào, cũng đã chịu khó ngự xa giá đi một khoảng
đường thật xa để đến thú nhận với ngài cách mình đã
giết hại phụ vương như thế nào (DN 2.99) .
Thân thiết nhất giữa đám cư sĩ là mối quan hệ của vua
Pasenadi với đức Phật, vua này đề cao ngài như một thân
hữu cùng bàn luận triết lý, vừa tìm được ở ngài nguồn
an ủi sau các đòn đau của số phận.
Tuy nhiên, ngài không
tô vẽ cho mọi việc tốt đẹp hơn thực tế. Ngài nói lời
an ủi bằng cách nêu lên sự thực, cho dù sự thực ấy có
vẻ tàn nhẫn đi nữa. Khi vị gia chủ già nua Nakulapità thỉnh
cầu: "Mong Thế Tôn làm cho đệ tử hoan hỉ và phấn
khởi", bậc Ðạo Sư đáp:
"Này gia chủ, quả
thật là thân ông già yếu và bị hao tổn tàn tạ. Bất kỳ
ai mang tấm thân này mà tự cho là khỏe mạnh dù chỉ trong
giây lát, cũng thật là ngu si! Vậy này gia chủ, ông cần phải
học tập như sau: "Dầu thân ta bị bệnh, tâm ta cũng sẽ
không bị bệnh!" (SN
22. 1).
Với Tỳ-kheo Vakkali
đang bệnh nặng, đức Phật cũng không cố gợi lên những
hy vọng hão huyền và không phủ nhận vị ấy sắp lâm
chung. Ngài chuẩn bị tinh thần Vakkali vào giờ phút hấp hối.
Ngài thuyết giảng cho vị ấy nghe tính vô thường của sắc
thân và khi tình trạng của vị ấy càng trầm trọng hơn nữa,
ngài gửi lời nhắn nhủ vị ấy là "Vị ấy sẽ có
một cái chết an lành". (SN 22. 87)*.
Tuy nhiên, ngài lại không tiên đoán việc vị ấy tự sát
sau đó.
* ÐỐI VỚI NỮ GIỚI
Mối quan hệ của đức
Phật đối với nữ giới vừa hòa hợp vừa xung khắc. Phụ
nữ nhiều lần cố làm hại uy tín thanh danh của ngài và
Giáo hội, ví dụ nàng Sundarì bị một số Sa-môn ngoại đạo
ganh tỵ thúc giục, đã đóng vai người tín nữ ngưỡng mộ
Sa-môn Gotama (Ud 4. 8), hoặc Cincà giả vờ mang thai để tố
cao ngài trước mặt hội chúng đông đảo vì đã không chuẩn
bị gì cho nàng sinh con đúng bổn phận của người cha
tương lai cả (Thag Commentary: Luận Trưởng Lão Kệ).
Trước kia cũng đã có
nhiều vấn đề khó giải quyết với một số phụ nữ
trong gia tộc Gotama, như bà vương phi, vợ cũ của ngài và
bà dưỡng mẫu Mahàpajàpati, người đã cố thuyết phục
ngài lập Giáo hội Tỳ-kheo-ni. Tất cả các kinh nghiệm ấy
cũng đủ để đức Phật tránh xa phụ nữ.
Cũng còn có nhiều lý
do khác nữa, vì sự thân cận nữ nhân là mối đe dọa thường
xuyên đối với giới luật Tỳ-kheo. Tham, sân, si là các động
lực tạo nên tái sanh, do vậy, cần phải nhiếp phục chúng
để thành tựu giải thoát. Thậm chí việc gặp gỡ giây
lát với một nữ nhân cũng có thể gợi lên dục vọng
trong tâm một Tỳ-kheo chưa chứng đắc viên mãn, Niết-bàn,
và có thể làm vị ấy thối thất trên đường giải thoát.
Vì thế, điều bất khả kháng là đức Phật, vị lãnh đạo
một Giáo đoàn sống đời độc cư, cần phải cảnh báo đề
phòng trước những con người có khả năng quyến rũ và hay
quấy nhiễu ấy:
"Này các Tỳ-kheo,
ta không thấy một hình sắc nào làm say đắm tâm trí của
đàn ông như hình sắc của đàn bà. Ta không thấy một âm
thanh, một mùi hương, một vị, một xúc nào làm say đắm tâm
trí đàn ông như âm thanh, mùi hương, vị, xúc của đàn
bà".(AN 1. 1 , giản lược)
Phụ nữ có thể khơi
dậy dục vọng trong lòng một vị hiền trí (muni), một
bài kinh đã nói điều này (SNip 703). Nhất là trong các chuyến
đi khất thực, vị Tỳ-kheo thường gặp đàn bà con gái ăn
mặc hở hang, nên phải luôn phòng hộ mình. (SN 20. 10)
Khi tôn giả Ànanda hỏi
đức Phật lúc ấy đã tám mươi tuổi về cách một Tỳ-kheo
phải cư xử với nữ giới như thế nào, bậc Ðạo Sư đáp:
"Này Ànanda, không
nên nhìn họ.
-
Song
nếu chúng con thấy họ, thì phải làm thế nào?
-
Này
Ànanda, đừng nói chuyện với họ.
-
Song
nếu họ nói với chúng con thì phải làm thế nào?
-
Này
Ànanda, hãy tỉnh giác phòng hộ". (DN
16. 5)
Sự thực là có nhiều
người rời bỏ nhà cửa gia đình để làm Tỳ-kheo trái với
ý nguyện của vợ con họ, đôi khi khiến cho các "sương
phụ Tỳ-kheo" ấy tìm cách lôi cuốn chồng họ trở lại
đời thế tục bằng các trò tinh ma lừa dối, mưu mẹo hay
quyến rũ. Ðó là lý do khiến đức Phật đôi khi nói những
lời gay gắt về phụ nữ: "Này các Tỳ-kheo, có ba
pháp này hành động được che dấu chứ không hiển lộ: đó
là sở hành của nữ nhân, chú thuật của Bà-la-môn và tà
kiến". (AN 3. 129, giản lược).
Ðàn bà xảo trá, dối
lừa, che dấu, thích lập mưu mẹo, không trung thành ...,
trong Kinh Tạng Pàli, chúng ta đọc được lời phán xét điển
hình trong Bộ Chuyện Tiền Thân Ðức Phật (Jàtakas)
qua các chuyện kinh hoàng rợn tóc gáy (như Chuyện Tiền Thân
62 và 192) .
Tuy nhiên, chỉ vì những
điều trên mà tưởng rằng đức Phật là người ghét nữ
giới thì hoàn toàn sai lầm. Giả sử ngài đã suy xét nữ
giới tuyệt đối yếu kém về phương diện đạo đức, thì
ngài đã phủ nhận việc họ có thể chứng đắc giải thoát
ngay đời hiện tại này. Trái lại, ngài công khai xác nhận
họ có khả năng chứng Niết-bàn (Cv 10. 1. 3). Kinh Ðiển
chứa đầy các bài nói về các Tỳ-kheo-ni và nữ đệ tử
tại gia thành đạt cứu cánh. Quả vị A-la-hán sẵn sàng chờ
đón nữ nhân cũng như nam nhân, nhưng không phải là Vô Thượng
Giác Ngộ, vì Phật quả chỉ có thể được một nam nhân
chứng đắc (AN 1. 15) .
Ðể có thể thấy được
cách xét đoán phụ nữ của đức Phật trên một bình diện
chính xác, ta cần phải cân nhắc các lời tuyên bố phủ định
và xác định của ngài. Ngài đã nói đến đức hạnh của
nữ giới trong một cuộc đàm thoại với Ðại Vương
Pasenadi, khi vua này thất vọng vì Hoàng hậu Mallikà đã sinh
cho ông một công chúa thay vì một hoàng tử mà ông hằng
mong ước (SN 3. 16). Ðức Phật an ủi nhà vua bằng cách nói
rằng một nữ nhân, nếu thông minh và đức hạnh, tôn kính
mẹ chồng và trung thành tận tụy với chồng, thì còn đáng
quý hơn một nam nhi.
Ngài lại khen ngợi gia
chủ Nakulapità ở vùng Sumsumàragiri (Núi Cá Sấu) có được
người vợ hiền như bà mẹ Nakula, khi ông lâm chung vì trọng
bệnh, bà đã hứa với ông rằng bà sẽ nuôi nấng gia đình,
giáo dục các con và sống hợp đạo đức (AN 6. 16). Tăng
Chi Bộ Kinh nêu một bản liệt kê (1. 24) các đệ tử xuất
chúng của cả hai giới. Ngoài bốn mươi mốt (41) Tỳ-kheo và
mười một (11) nam cư sĩ, còn có tên hai mươi ba (23) phụ nữ
: mười ba (13) Tỳ-kheo-ni và mười (10) nữ cư sĩ. Ở một
nơi khác (8. 91) cũng bộ kinh ấy liệt kê danh tánh hai mươi
bảy (27) nữ cư sĩ (upàsikàs) xuất chúng.
Trong Kinh Tạng Pàli, tất
cả các câu chuyện kể những cuộc hội kiến giữa đức
Phật và phụ nữ đều chứng tỏ ngài xem họ bình đẳng với
nam giới. Sự kiện một số nữ nhân ác hạnh, hay tranh cãi
và một số nữ nhân có thể lôi cuốn các Tỳ-kheo ra khỏi
chánh đạo, vẫn không cản trở ngài công nhận rằng nữ
giới có khả năng đạt kiến thức cao và nhiều nữ nhân
còn vượt hẳn nam nhi về lòng nhân từ và tận tụy hy sinh.
Ngài cũng biết rằng thông thường chính phụ nữ quyết định
bầu không khí mộ đạo trong gia đình và dạy bảo con cháu
các nguyên tắc đạo đức. Thực tế cho thấy có nhiều phụ
nữ trong số người hộ trì Phật Pháp phần lớn là do đức
Phật - khác với các ngoại đạo sư đồng thời - đã công
nhận nữ giới có ý thức trách nhiệm và đầy đủ khả
năng đạt giải thoát. Vì lý do này, nữ giới rất xúc động
và hoan hỉ bày tỏ niềm tri ân sâu xa đối với ngài.
BẬC ÐẠO
SƯ
*
ÐỐI VỚI ÐỆ TỬ
Rõ ràng đức Phật không
thích bận rộn nhiều với các Tỳ-kheo trong bước đầu mới
tu tập, nhất là nếu họ không biết các cư xử. Một nhóm
Tỳ-kheo trẻ tuổi làm ồn ào như "đám dân chài kéo
lưới" khiến ngài truyền lệnh phải đi ra ngay (MN
67) và chỉ cho phép chư vị đến gần khi đã học cách cư
xử đúng luật Tỳ-kheo và thậm chí đắc quả A-la-hán nữa
(Ud 3. 3). Ngài thích đàm đạo với các đệ tử thuần thục
hơn mà ngài có thể truyền đạt một số kiến thức và tập
trung vào một số đặc điểm của giáo lý. Một đệ tử càng
hoàn hảo về kiến thức và tu tập bản thân bao nhiêu lại
càng thân cận với bậc Ðạo Sư bấy nhiêu.
Ðể tận tai nghe được
một bài thuyết Pháp do chính đức Phật dạy là điều khiến
các Tỳ-kheo phải tự sắp xếp những chuyến bộ hành thật
xa. Nếu cuộc hội kiến không diễn ra một cách tự nhiên,
thì bình thường chính Tỳ-kheo Ànanda, thị giả và phụ tá
của bậc Ðạo Sư, định liệu cuộc tiếp xúc ấy và đôi
khi vị này cố làm sao thật khéo léo để đức Phật không
nhận thấy bàn tay điều khiển của mình (ví dụ ở trong
kinh MN 26) . Một công thức mẫu mực (song thường lại được
diễn dịch quá sơ sài) trong Kinh Tạng Pàli diễn tả hiệu
năng toàn diện mà đức Phật đem lại cho thính chúng: "Ngài
thuyết giảng Pháp thoại cho các đệ tử, khích lệ cho chư
vị phấn khởi và hoan hỉ". (DN 4. 27). Câu này nêu
rõ ràng đức Phật không chỉ truyền đạt ý nghĩa nội
dung mà còn hấp dẫn tình cảm của người nghe. Tích cách
thần diệu của ngài khiến cho mọi lời ngài nói mang một
nét đặc biệt và bất kỳ cuộc hội kiến nào với ngài cũng
trở thành một kinh nghiệm gây ấn tượng sâu sắc.
Ngoài ra, ngài còn dạy
cho đệ tử pháp môn điều phục tâm nhờ đó chư vị có
thể tự tạo định tĩnh (samàdhi). Hai hình thức thiền
định cần được phân biệt (AN 3. 32) tùy thuận với Giáo
Pháp nhằm mục đích làm lắng dịu dục vọng và đem lại
giải thoát tri kiến. Các pháp Thiền định hướng đến
an tâm hay tịnh chỉ (samatha) là các trạng thái thiền làm
cho hành giả đưa dần tâm trí và các giác quan ra khỏi ngoại
giới và cảm thọ niềm an tịnh dự báo tịch diệt, Niết-bàn.
Chúng có khuynh hướng đoạn trừ dục vọng và làm tâm trí
dễ tiếp nhận các tuệ quán cao hơn.
Cách phát triển tâm
trí thứ hai, phương pháp tìm hiểu bản chất hay quán sát (vipassanà)
nhằm tiêu diệt vọng tưởng và vô minh. Cách này luôn hướng
đến một đối tượng: tự thân, các hoạt động tâm lý,
một tư tưởng, một vật thể hay một đặc điểm trong giáo
lý. Mục đích của thiền quán là nhìn sâu vào bản chất
của đối tượng mà phân tích, nghĩa là tiến đến nhận
thức sự vật ngoại giới bằng trực quan chứ không đánh
giá hay liên hệ với chủ thể, thấy chúng là vô thường,
khổ và vô ngã, do đó tuệ tri tương quan của chúng cùng sự
hiện hữu tùy duyên của vạn vật. Bằng cách này, tri
kiến (ñ àna) và tuệ giác (pañ ñ a) khởi lên.
Nếu đối tượng thiền quán là một phương diện đặc biệt
của Phật Pháp, thì mục đích
là để chuyển biến cái thực chất thuần túy tri thức ấy
thành một kinh nghiệm chứng đạo linh động, làm cho nó thực
sự hòa nhập với mình.
Song thiền định tự nó
không phải là cứu cánh. Thanh niên Mahàli hỏi đức Phật
trong chuyến viếng Vesàli rằng có phải vì mục đích an
trú trong thiền định mà vị Tỳ-kheo sống đời Phạm hạnh
chăng? Bậc Ðạo Sư đáp:
"Này Mahàli, không
phải vì muốn an trú thiền định, mà chư Tăng sống đời
Phạm hạnh vì muốn chứng đắc các pháp cao thượng hơn,
thù diệu hơn, đó là sự đoạn tận tham, sân, si
(DN 6. 12) .
Thiền định là phương
pháp hỗ trợ giải thoát, chứ không gì hơn. Thiền tạo điều
kiện thuận lợi để tâm đạt tri kiến, nhưng nó không thể
cưỡng bách tiến trình giải thoát phải xảy ra và nó cũng
không phải hoàn toàn thiết yếu. Kinh Tạng Pàli có nhiều
ví dụ về những người không bao giờ hành thiền, tuy
nhiên vẫn đắc giác ngộ giải thoát.
Thần Phạm Thiên của
Ấn Ðộ giáo, vị thần nhìn khắp bốn phương với bốn bộ
mặt, đã đặt tên mình cho bốn Trạng Thái Tâm An Trú là
"Bốn Phạm Trú" (Brahma-vihàra) . Nếu như các
phương pháp thiền được nêu trên hướng tâm vào bên trong
hoặc một đề tài đặc biệt nào đó, thì Bốn Phạm
Trú hướng ra ngoài, về thế giới và xã hội. Từ ngữ
"Thiền định" do vậy có vẻ chỉ thích hợp một
phần nào với chúng; đúng hơn, chúng phải được diễn tả
như là những "phương pháp phóng quang". Cách
thực hành chúng được đức Phật giải thích rõ cho thanh
niên Bà-la-môn Vàsettha.
Vị Tỳ-kheo ngồi theo
tư thế thiền định (kiết già) ở một nơi vắng lặng và
an tịnh tâm hành để tâm không còn bị các ảnh hưởng ngoại
giới tác động. Theo cách này, vị ấy có cảm thọ an lạc
và định tĩnh. Khi đã được chuẩn bị thích hợp như vậy,
vị ấy bèn "phóng quang" với từ tâm tràn ngập,
"từ" (mettà), trước tiên hướng về một
phương, kế phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ
tư, rồi phía trên, phía dưới. Vị ấy chiếu sáng cùng
khắp thế giới với từ tâm quảng bác, đại hành, vô
biên, không hận, không sân (DN 13. 76).
Cũng theo cách này vị
ấy chiếu sáng khắp thế giới với bi tâm (karunà), hỷ
tâm (mudità) và xả tâm (upekkhà). Các phương pháp
phóng quang ấy không chỉ được đánh giá là có lợi ích
cho vị hành giả mà còn tạo một hiệu quả rõ ràng trên
thế giới này. Có lần đức Phật bị voi đực tấn công,
chuyện kể rằng ngài phóng từ tâm về phía con vật khổng
lồ này và nhiếp phục nó theo cách ấy (Cv 7. 3. 12).
* VẤN ÐỀ THẦN THÔNG
Ấn Ðộ là một đất
nước tin tưởng vào các phép thần thông, nên ngay chính
lúc đức Phật trụ thế, nhiều chuyện được phóng đại
lan truyền về "Sa-môn Gotama". Do vậy không gì đáng
ngạc nhiên khi nhiều người xem ngài là "bậc Toàn
Tri Kiến, Nhất Thiết Trí". Vì ngài là bậc Giác Ngộ,
đã diệt tận si mê, quan niệm về nhất thiết trí của
ngài là một kết luận có thể hợp lý. Khi được hỏi về
điều này, bậc Ðạo Sư đáp:
"Bất cứ ai nói:
"Sa-môn Gotama biết và thấy mọi sự, tuyên bố chứng
đắc toàn tri toàn kiến, dù lúc đang đi, đứng, nằm, ngồi",
kẻ nào nói như vậy là xuyên tạc ta.
Song nếu bất cứ ai
nói: "Sa-môn Gotama chứng đắc Tam Minh (nghĩa là Tri Kiến
về đời quá khứ, về tác động của Nghiệp (Kamma) và về
sự đoạn tận lậu hoặc (asavà), hay là Túc Mạng Trí, Sanh
Tử Trí và Lậu Tận Trí), người ấy nói điều này một
cách chân chánh". (MN
71, giản lược)
Ngài không tự xưng mình
có tri kiến tự nhiên về mọi sự xảy ra trên thế giới,
mà ngài chỉ biết những gì quan trọng đối với giải thoát
khổ đau. Chỉ trong các vấn
đề liên hệ đến giải thoát ngài mới là bậc Nhất Thiết
Trí.
Ðức Phật không phủ
nhận việc ngài đắc thần thông (iddhi), mà theo tín
ngưỡng Ấn Ðộ, thần thông phát triển tự động như kết
quả của sự điều thân ở một vị chân tu. Tương Ưng Bộ
Kinh (Samyutta Nikaya 51. 7. 2) liệt kê các thần thông sau đây:
một thân biến hóa nhiều hình dạng, đi xuyên qua tường, núi,
độn thổ (như thể lặn xuống nước), đi trên nước, ngồi
kiết già phi hành qua hư không, sờ mặt trăng, mặt trời với
tay mình, nghe tiếng của chư thiên và loài người ở xa, nhớ
lại các đời quá khứ, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu
phàm thấy được sự sanh tử của mọi hữu tình tùy theo
Nghiệp. Có lần Tỳ-kheo Ànanda hỏi bậc Ðạo Sư ngài có
thể dùng thần thông để bay đến Phạm Thiên chăng. Bậc
Ðạo Sư đáp:
"Khi Như Lai định
thân trong tâm và định tâm trong thân, Như Lai an trú lạc thọ
và khinh an tưởng. Không cần nỗ lực, thân của Như Lai bay
bổng lên hư không. Rồi Như Lai thị hiện nhiều loại thần
thông". (SN 51. 73. 2)
Chúng ta ngạc nhiên khi
thấy tôn giả Ànanda hỏi câu ấy, vì theo nhiều đoạn kinh
khác, tôn giả đã hiện diện trong lúc bậc Ðạo Sư khai
triển các Thần thông (ví dụ UD 7. 9). Từ điều này ta có
thể kết luận rằng chuyện các Thần thông trong Kinh Ðiển
là do chư vị trong Hội đồng kiết tập thêm vào về sau.
Ðiều này lại càng
có vẻ đúng hơn vì đức Phật, trong khi một mặt, không phủ
nhận ngài có khả năng thực hiện thần thông đối với quần
chúng luôn tìm kiếm phép lạ, tuy thế, mặt khác ngài lại
đánh giá thấp kém các khả năng ấy và không dành một địa
vị nào cho chúng trong giáo lý của ngài cả. Ngài xem
chúng là những kết quả thứ yếu trong quá trình tầm cầu
Giác Ngộ, chúng không chứng minh được gì về tính chất
chân chánh của một giáo lý cả, và lại còn có thể hướng
dẫn con người đi lạc vào tà đạo vì nhiều người có thể
lầm tưởng chúng là cứu cánh của nỗ lực tu tập. Do vậy,
ngài công khai nêu rõ chúng là nguy hiểm, đáng chán chê, cần
phải được bác bỏ. (DN 11. 3)
Chư Tỳ-kheo bị cấm
biểu diễn thần thông trước các gia chủ (tức đám người
thế tục), thậm chí là để cảm hóa họ vào đạo, và
ngài còn đặt ra hình phạt dành cho tội vi phạm lệnh cấm
này. (Cv 5. 8. 2)
* CÁC ÐỆ TỬ ÐỐI VỚI
NGÀI:
Mối quan hệ giữa chư
Tỳ-kheo và đức Phật ra sao? Tình cảm của chư vị đối với
ngài thế nào? Ta khó có thể nói rằng chư vị "thương
yêu" ngài theo nghĩa thông thường. Một bậc Ðạo Sư
thuyết giảng không hề mỏi mệt rằng sầu khổ phát sinh từ
mọi nỗi niềm luyến ái, và ngài đã có cách nhìn thoát tục
thản nhiên đánh giá thấp mọi dây ràng buộc thiết thân,
thì khó có thể trở thành đối tượng thương yêu thắm
thiết và chắc hẳn ngài cũng ngăn cản điều này nữa.
Ðối với Tỳ-kheo
Vakkali lâm trọng bệnh sắp lâm chung có tâm nguyện được
yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài bảo: "Thôi vừa rồi,
này Vakkali, nhìn thấy cái thân đầy cấu uế này nào có
ích lợi gì? Này Vakkali, ai thấy Pháp, tức là thấy ta. Ai
thấy ta, tức là thấy Pháp". (SN 22. 87. 13)*
Ngài yêu cầu sự tôn
trọng thích hợp với một bậc Giác Ngộ, nhưng lại từ chối
những cách bày tỏ tình cảm quá nồng nhiệt. Tình cảm
quá nồng nhiệt như thế đi ngược với Giáo Pháp, đây là
điều duy nhất ngài xem là quan trọng, còn ngài chỉ là một
cá nhân đứng lùi lại đằng sau Giáo Pháp.
Ngoài ra, trí tuệ siêu
việt và nội tâm xả ly của ngài tạo nên niềm tôn kính
nhưng khó có thể gợi lên mối thân tình. Chỉ những người
có cá tánh mạnh dạn như vua Bimbisàra và vua Pasenadi, hoặc
đầy đủ tri kiến về Giáo Pháp như chư Tôn giả Sàriputta
và Moggallàna, hoặc có tính tình hồn nhiên như tôn giả
Ànanda và nữ cư sĩ Visàkhà mới có thể tiếp xúc thân mật
với ngài. Còn đại chúng Tỳ-kheo và giới cư sĩ đều trân
trọng giữ một khoảng cách xa xa. Họ cảm thấy lòng từ của
ngài tỏa rộng, nhưng lại ý thức rõ rằng lòng từ ấy hướng
về mọi chúng sanh chứ không ưu ái riêng cá nhân nào. Quả
thực ngài là bậc Ðạo Sư (Satthar), một danh từ diễn
tả tính cách vĩ đại của người được tôn xưng như vậy
và niềm kính trọng xứng đáng dành cho ngài, song đồng thời
nó chứng tỏ sự cách biệt giữa ngài và người đệ tử
bình thường như họ.