- Chương
IV (tt)
IV.- TINH THẦN CỦA GIÁO HỘI
Theo đúng bản chất Giáo Pháp của đức Phật,
phương diện trực giác dựa trên trí tuệ của Tăng chúng
phải được phát triển. Một giáo lý nhìn nhận một trong
các nguyên nhân khổ đau nằm trong vô minh (avijjà) tất
nhiên phải khuyến cáo dùng minh trí và tuệ giác làm các phương
thuốc trị liệu hợp lý. Vì thế không có gì đáng ngạc
nhiên khi các Tỳ-kheo có trí tuệ cao đều chuyên tâm tu tập
để chứng đắc tri kiến và tuệ giác (paññà), và hơn
hết là tìm cách đạt cứu cánh tối thượng ấy bằng các
phương tiện dựa trên trí tuệ.
Về phương diện khác, đức Phật đã dạy
các đệ tử là khổ đau phát xuất từ tham ái, và khuyến
giáo chư vị đối trị nó bằng cách tự điều phục bản
thân, Giới Luật (sìla), và thiền định. Do vậy, nhiều
Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đã chuyên tâm tu tập điều thân và
thiền định. Các vị này không cảm thấy có nhu cầu suy tư
lý luận về Pháp cho mình nữa, bởi vì đức Phật đã hiển
lộ mọi sự cần thiết đưa đến giải thoát, cho nên điều
cốt yếu là theo đúng lời giáo huấn của ngài.
Sự cách biệt giữa hai thái độ này chưa bao
giờ lớn đủ để đe dọa sự đoàn kết của Giáo hội,
tuy nhiên nó cũng làm bận lòng Tỳ-kheo Mahà Cunda, hiền đệ
của tôn giả Sàriputta, khiến cho vị ấy phải quan tâm suy
nghĩ. Trong thời kỳ ở tại Sahajàti, vị ấy bảo rằng điều
đáng tiếc là có một số Tỳ-kheo chuyên tâm về Pháp (Dhamma),
nghĩa là nhằm đạt tri kiến tuệ giác (Dhammayogà bhikkhù)
đã chế nhạo các vị chuyên tâm thiền định (jhàyanti).
Ðúng ra, các vị "chuyên tu trí tuệ" phải
tán thán các vị "chuyên tâm thiền định", là
"những vị được an trú vì đã đạt đến Bất Tử
Giới với tự thân" (nghĩa là đã thực chứng Niết-bàn
trước, trong lúc nhập định). Cũng vậy, chư vị "chuyên
thiền định" phải tán thán chư vị "chuyên
tuệ quán" là những người "đủ trí tuệ thể
nhập và thấy rõ con đường thâm diệu đưa đến cứu cánh".
(AN 6. 46) Như vậy Tôn giả Cunda xác nhận,
các vị tuệ quán và các vị hành thiền hỗ trợ lẫn nhau,
không ai có lý do gì để tự cao hơn vị kia cả.
Giáo hội càng phát triển đông đúc, số người
gia nhập vì lý tưởng tu tập nội tâm càng ít hơn số người
xem đó là một cách sinh nhai và bảo trợ mình. Những sự
tai hại do các Tỳ-kheo hiểu sai lạc Giáo Pháp như Tỳ-kheo
Arittha (MN 22. 1) và Sàti (MN 38. 2) còn tương đối nhẹ. Chỉ
cần bậc Ðạo Sư cho chư vị vài lời khiển trách, hoặc
trong các trường hợp như Tỳ-kheo Arittha bướng bỉnh khó dạy,
thì Tăng chúng xử phạt họ.
Vấn đề khó giải quyết hơn đối với các
nhân vật cá biệt như Tỳ-kheo Ujjhànasañ ñ in, người liên
tục chỉ trích các vị đồng Phạm hạnh, hoặc Tỳ-kheo Udàyin
phạm Giới Luật vì đã tự khoe mình đạt tri kiến mà
chính vị ấy chưa chứng đắc, hoặc Tỳ-kheo-ni Candakàlì
hay gây sự. Tỳ-kheo-ni Thullanandà cũng đáng được nêu ra
đây. Tỳ-kheo-ni này là vị thuyết Pháp có biện tài, nhưng
tính phóng dật và hay bày mưu tính kế, tự cao tự đại và
cũng ưa chuộng cả nam giới nữa. Các đức tánh tích cực
của vị này khiến Ðại vương Pasenadi cũng như một số Tỳ-kheo-ni
trẻ hơn cảm phục, lại càng làm cho vị ấy nổi bật lên
như một tấm gương xấu về Giới Luật.
Mối đe dọa thực sự đối với sự đoàn kết
Giáo hội phát xuất từ các Tăng chúng địa phương, như
Tăng chúng ở Kosambì, bị các tranh chấp chia rẽ, hay do các
Tỳ-kheo tụ tập với nhau để thành lập các tiểu giảng
đường với ý định huấn luyện các Tỳ-kheo trẻ theo quan
điểm riêng của mình. Tại Kìtàgiri (giữa Sàvatthi và
Àlavi), chính các Tỳ-kheo Assaji và Punabbasu, tại Sàvatthi,
chính các vị Panduka và Lohitaka, và tại Ràjagaha, chính các
vị Mettiya và Bhumaja đã cố ngầm làm hại Giới Luật (Vinaya)
theo cách này. Vì lo sợ sẽ bị trừng trị theo Giới Luật,
cuối cùng hai phần tử ly khai tích cực nhất là Assaji và
Punabbasu rời bỏ Giáo hội mới làm dịu được tình hình căng
thẳng ấy.
Việc thuyết Pháp cho các Tỳ-kheo trẻ với
các quan niệm sai lạc cũng là phương pháp của Tỳ-kheo
Devadatta, người muốn chia rẽ Giáo hội và đặt mình vào vị
trí lãnh đạo một phần Tăng chúng.
Có trường hợp một nhóm Tỳ-kheo tự gây tai
họa cho mình do phản ứng quá đà và tâm thần tán loạn.
Ðức Phật đã dạy chư Tỳ-kheo tại Vesàli về sự bất tịnh
của thân cùng khuyến giáo chư vị quán thân vô thường và
bất tịnh. Sau đó ngài nhập thất để độc cư thiền định.
Khi ngài trở lại, ngài kinh ngạc khi thấy số Tăng chúng địa
phương ấy giảm sút. Tỳ-kheo Ànanda giải thích: nhiều Tỳ-kheo
quá chán ngán bản thân sau khi đức Phật giảng Pháp, nên
đã tự kết liễu đời mình!
Ðức Phật lập tức triệu tập một buổi họp
chư Tăng và đề nghị chư vị thay đổi phương pháp bằng
cách thực hành niệm hơi thở (SN 54. 9). Một câu chuyện tương
tự (Sv 3. 1) thậm chí còn nói đến một "giả Sa-môn"
tên là Migalandika có biệt tài chặt đứt đầu những kẻ
muốn tự sát!
Tự sát đi ngược lại giáo lý đức Phật
trong hai phương diện. Ngài tin chắc rằng ước vọng tự hủy
diệt tiềm ẩn dưới hành vi tự sát tất yếu cản trở người
ấy đạt đến giải thoát, vì giải thoát tức là ly dục.
Hơn nữa, tự sát là bỏ mất một cơ hội may mắn vì tái
sanh làm người thật hiếm có (MN 129. 19); và chỉ loài người
mới có đầy đủ sức mạnh tinh thần và đạo đức để
nhanh chóng thành tựu giải thoát khổ đau. Một kiểu tự sát
duy nhất có thể biện minh được là trường hợp một vị
A-la-hán, người đã nhiếp phục tham, sân, si và sẽ không
còn tái sanh, và vị ấy đang phải chịu đựng một căn bệnh
nan y. Kinh Ðiển Pàli nhắc đến ba trường hợp như vậy của
các Tỳ-kheo Godhika, Vakkali và Channa.
Phương cách đức Phật khéo léo hàng phục
các mưu toan nổi loạn và đi lạc vào tà đạo chứng tỏ tài
năng tuyệt diệu của ngài trong việc hướng dẫn nhân loại.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải công nhận ý thức chân
chánh của Giáo hội, trong ấy đa số đều thành tâm tầm cầu
giải thoát khổ đau và không cho phép mình đi lệch khỏi
Trung Ðạo vì một vài phần tử bất thiện lạc lõng.
Ta có thể tìm được vài ấn tượng sâu sắc
về bầu không khí trong lành buổi sơ khai Giáo hội qua Trưởng
Lão Tăng Kệ (Theragàthà) và Trưởng Lão Ni Kệ (Therigàthà).
Nhiệt tình tu tập mà đức Phật đã khơi dậy trong lòng
các đệ tử, niềm lạc quan về Giáo hội nguyên thủy trên
con đường cứu khổ, niềm hân hoan về thực chứng tâm
linh và niềm duyệt hỷ về giải thoát - tất cả mọi tâm
trạng ấy đều được ghi lại rất linh động ở đây.
Có 264 bài thi kệ với 1279 vần thơ, do Tăng chúng
sáng tác và 73 bài kệ với 522 vần thơ của các Tỳ-kheo-ni,
mỗi bài đều được xem là do một vị có nêu danh tánh
trong Giáo hội tự làm. Không ai có thể xác nhận tất cả
thi kệ ấy đều thực sự thuộc về tác giả mà các bài kệ
mang tên, hoặc tất cả đều phát xuất từ thời đức Phật.
Tuy nhiên, chúng chứng tỏ rằng các Tăng Ni ấy tràn đầy hỷ
lạc đến độ chư vị cảm thấy cần phải diễn tả tâm
trạng chứng đắc thắng trí (aññà) qua các giai điệu
trữ tình đầy thi vị kia. Các bản dịch Anh ngữ này không
cố gắng phổ thành thơ theo hình thức thi kệ Pàli, mà chỉ
diễn tả nội dung theo từng dòng chữ.
Người bị dằn vặt giữa cuộc sống gia đình
và đời sống du hành khất sĩ là Tỳ-kheo Jenta, một vương
tử. Chính nhận thức được tính vô thường của vạn vật
cuối cùng đã giúp vị ấy quyết định chọn đời Tỳ-kheo:
Khó thay đời xuất gia,
Khó thay sống không nhà,
Uyên thâm là Phật Pháp,
Tài sản khó tìm ra.
Chọn một trong hai lối,
Thật nan giải cho ta,
Vậy phải luôn ghi nhớ:
Tính vô thường đâu xa!
(Thag 111)
Là những người chuyên tâm tầm cầu giải
thoát, một số Tỳ kheo khinh thường những đệ tử tại
gia mà chư vị cho là bị dục tham ràng buộc vào đời thế
tục. Ðiều này biểu lộ qua hai vần thơ của Tỳ-kheo
Isidinna:
Ta biết rõ một số người thế tục
Vẫn tán dương Phật Pháp, nói lên rằng:
"Các niềm vui thế tục thật vô thường".
Song lòng đắm mê ngọc vàng châu báu,
Trí ràng buộc vì thê nhi đông đảo.
Họ biết đâu thâm diệu Pháp vô lường,
Khi bảo rằng mọi hỷ lạc vô thường,
Họ vẫn thiếu trong tâm nguồn nghị lực
Ðể chặt đứt hoàn toàn bao tham dục,
Nên vợ con, vàng bạc buộc ràng thân.
(Thag 187-8)
Các khúc đạo ca của chư vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni
dành thật nhiều vần thơ diễn tả chủ đề "sự đổi
thay từ đời sống thế tục đến đời sống trong Giáo hội".
Ðó là sự từ giã cả hai phương diện ngoại giới lẫn nội
tâm: thoát ly đời sống nghề nghiệp và gia đình, đồng thời
phủ nhận luôn thế giới trong luân hồi sanh tử (Samsàra).
Tỳ-kheo Sumangala gốc ở Sàvatthi thấy được ích lợi lớn
nhất của đời Tỳ-kheo là giải thoát khỏi công việc đồng
áng nhọc nhằn đau lưng mỏi cổ. Vị ấy không tự xưng mình
đến gần cứu cánh giải thoát khổ đau, mà chỉ thúc giục
mình nỗ lực tinh cần nhiều hơn nữa:
Tự do, ta được thoát ra,
Tự do, giải thoát khỏi ba vật này:
Cong cong, lưỡi hái, cán cày,
Bao phen xới đất cả ngày còng lưng!
Lao công nô dịch nhọc nhằn,
Dẫu đang còn đó, ta luôn nhủ lời:
"Thôi thôi, thế đã đủ rồi!
Từ nay thiền định cả đời Su-mân!
Chuyên tâm, tỉnh giác, tinh cần,
Chuyên tâm, tỉnh giác, tinh cần, Su-mân!
(Thag 43)
Cũng được giải thoát khỏi ba "vật cong
cong" khác nhờ gia nhập Giáo đoàn là Tỳ-kheo-ni Muttà,
một thiếu nữ bị đem gả cho một Bà-la-môn gù lưng. Ngoài
sự giải thoát khỏi cuộc hôn nhân và việc nội trợ tề
gia, đặc biệt là việc giã ớt thành bột, nàng còn được
giải thoát sanh tử:
Tự do, ta được thoát ra,
Tự do, giải thoát khỏi ba vật này:
Cong cong, cái cối, cái chày,
Cùng phu quân của ta đây lưng gù!
Thoát ly sanh tử, tự do,
Xả buông bao mối buộc ta vào đời.
(Thìg 11)
Vần kệ của Tỳ-kheo-ni Sanghà là một khúc
hoan ca chiến thắng vì được giải thoát khỏi tham ái và
vô minh. Bài thi kệ nhỏ này là một bằng cớ nữa cho thấy
các Tăng Ni được phép diễn tả niềm giải thoát qua thi kệ:
Ta giã từ nhà, sống xuất gia,
Bỏ con, thân thuộc, đám trâu bò,
Ta đà giải thoát tham, sân hận,
Cùng với vô minh cũng quẳng xa.|
Khi nhổ dục tham cho tận gốc,
Niết-bàn an tịnh đến tâm ta.
(Thìg 18)
Tỳ-kheo Suràdha cũng diễn tả niềm vui giải
thoát của mình:
Ðoạn tận từ nay gốc tái sanh,
Lời khuyên Thắng Giả đã viên thành.
Ta đà ném bỏ xa "màng lưới",
Trừ diệt sanh y đối với mình.
Cứu cánh làm ta phải bước ra,
Xuất gia, theo nếp sống không nhà,
Cuối cùng mục đích ta thành đạt,
Triền phược ta tiêu hủy bấy giờ.
(Thag 135-6)
Chúng ta bắt gặp âm điệu chiến thắng
tương tự trong hàng chục bài kệ và cảm hứng ngữ khác của
Kinh Tạng Pàli. Ðiều này thật dễ hiểu, vì cái gì còn
có thể đè nặng lên một người đã cắt bỏ mọi mối
ràng buộc trong xã hội và tâm trí, người không thiếu thốn
gì cả vì không mong cầu gì cả, người tin tưởng rằng dù
việc gì xảy ra chăng nữa cũng không ảnh hưởng đến
"mình"? Bất cứ kẻ nào giữ quan điểm như vậy
cũng không thể bị việc gì làm xúc động và có lý do
chính đáng để xem cảnh sống ấy của mình là hạnh phúc.
Sự tương phản giữa cuộc sống trong Giáo hội
và "một thời vang bóng" xa xưa thường thường
làm số Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nhớ lại quãng đời trước
kia giữa thế tục. Vì vậy nhóm kệ "trước và sau"
khi xuất gia trong hai tuyển tập thi kệ này của Tăng chúng
và Ni chúng thật đặc biệt phong phú. Trong ví dụ điển hình
sau đây, cô gái lầu xanh Vimala nhớ lại đời quá khứ của
mình. Theo cách nàng diễn tả, có lẽ nàng không phải là một
trong những kỹ nữ giàu sang, có học thức ở kinh đô, mà
chỉ là một gái giang hồ tầm thường giữa đường phố:
Ngày xưa, kiêu mạn bởi da ngà,
Dung sắc diễm kiều, danh tiếng ta,
Tưởng tuổi xuân không hề giảm sút,
Thật ta mê muội, quá ngây thơ.
Châu báu trang hoàng cả tấm thân,
Ðiểm tô, mê hoặc đám nam nhân,
Ðợi chờ bên cửa lầu xanh ấy,
Ðặt bẫy tìm mồi, giống thợ săn.
Ta khoe mình giắt ngọc, cài vàng,
Trơ trẽn phô bày thân hở hang,
Làm đủ mọi mưu toan quyến rũ,
Ta thường cười nhạo lắm ngu nhân!
Nay trọc đầu, y phủ tấm thân,
Sống nhờ khất thực, bước lên đường,
Khi ngồi dưới một gốc cây nọ,
Ta đạt định tâm, thọ tưởng ngừng.
Mọi dây ràng buộc cả thiên, nhân,
Ta chặt đứt xong, giải thoát thân,
Lậu hoặc nhiễm ô đều diệt tận,
Tâm ta an tịnh, đạt thanh lương.
(Thìg 72-6)
Tỳ-kheo-ni Vimalà nhớ lại quãng đời đứng
đường cũ với nỗi thích thú như vậy khiến người nghe các
vần kệ của vị này có thể hoài nghi về sự đoạn tận
lậu hoặc (àsava) ấy. Có lẽ ý tưởng được bảo
đảm cho tuổi già ít ra cũng chiếm một phần nào trong ước
nguyện xuất gia của vị này.
Song gây xúc động hơn và có vẻ đáng tin hơn
là lời tự thuật của chính chàng trai quét đường Sunìta
ở thành Ràjagaha trước kia, người được đức Phật giải
thoát ra khỏi cuộc đời khốn cùng bằng cách thu nhận vào
Tăng đoàn. Cũng như nhiều người đồng thời, Sunìta cảm
phục sâu sắc trước nhân cách và lòng từ bi của đức Phật,
nên đã xem ngài như một vị cứu tinh nhân loại:
Vốn sinh gia tộc thật
bần hàn,
Khốn khó, ta thường chẳng đủ ăn,
Số phận dành cho nghề hạ tiện,
Nên ta phải quét đám hoa tàn.
Ta thường bị kẻ khác khinh khi,
Ðối xử tệ tàn, với chán chê,
Ta mất hết luôn lòng tự tín,
Cúi đầu tuân lệnh mọi người kia.
Rồi một ngày, ta gặp Phật-đà,
Vây quanh hộ tống bởi Tăng-già,
Ðại Hùng lúc ấy đang đi đến
Vương Xá, thủ đô Ma-kiệt-đà.
Ðòn gánh vội quăng, tiến lại gần,
Cúi đầu đảnh lễ thật nghiêm trang.
Bỗng nhiên đứng lại vì từ mẫn,
Ðối với ta, ngài Tối Thượng Nhân.
Quỳ dưới đôi chân bậc Ðạo Sư,
Bên ngài, ta đứng, khẩn cầu thưa:
"Xin Người Tối Thượng trên trần thế
Chấp nhận con rày được xuất gia".
Ðạo Sư từ mẫn đủ bao trùm
Thương xót ta, cùng khắp thế gian,
"Hãy đến, Tỳ-kheo!" ngài dạy bảo,
Thế là thọ giới, nhập Tăng đoàn.
Từ đó độc cư, ở giữa rừng,
Không hề giải đãi, thật tinh cần,
Chuyên tâm tu tập lời Sư phụ,
Bậc Thắng Giả khuyên nhủ phải làm.
Rồi vào canh nhất một đêm qua,
Ta nhớ nhiều đời sống thuở xưa,
Canh giữa dần trôi, Thiên nhãn trí
Ta thanh tịnh hóa tự
bao giờ,
Và vào canh cuối đêm hôm ấy
Ta xé màn si ám thoát ra.
(Thag 620-27)
Trong bốn đoạn kệ nữa (có lẽ không đích
thực của Sunìta), vị ấy tả cảnh khi mặt trời ló dạng,
Thiên Chủ Indra và Phạm Thiên đến đảnh lễ vị ấy, nay
là bậc A-la-hán, và đức Phật tuyên bố chính nhờ giữ giới
hạnh nghiêm minh và điều phục thân tâm mà con người trở
thành một Bà-la-môn chân chánh, chứ không phải do nguồn gốc
sinh trưởng:
Lúc đêm vừa hết, mặt trời lên,
Thiên chủ Indra với Phạm Thiên,
Cùng đến bên ta, và đảnh lễ
Tôn vinh ta, vội chắp tay tiên:
"Chúc mừng ngài, hỡi bậc Cao Tăng,
Kính lễ ngài, đây bậc tuyệt trần,
Lậu hoặc của ngài đều đoạn tận,
Cúng dường xứng đáng với tôn nhân".
Khi nhìn Thiên chúng đến bên ta,
Ðảnh lễ tôn vinh, bậc Ðạo Sư
Liền mỉm miệng cười và dạy bảo:
"Ðiều thân, Phạm hạnh, với đầu đà
Nhờ đây, người trở thành thanh tịnh,
Tối thượng La-môn quả thật là !"
(Thag 628-31)
Tỳ-kheo Nàgasamàla diễn tả sự Giác Ngộ qua
một bài thi kệ. Một cơ hội gặp gỡ tình cờ đã làm động
lực khiến vị ấy trở thành một bậc A-la-hán:
Rực rỡ xiêm y, ngọc điểm trang,
Vòng hoa sực nức phấn chiên-đàn,
Ðứng kia, đường cái trong làng nọ,
Vũ nữ múa theo khúc nhạc vang.
Khất thực ta đi tận xóm làng,
Bước qua, chợt thấy bóng cô nàng,
Xiêm y lộng lẫy đang giăng bẫy,
Như của Ma vương, chính tử thần.
Thấy vầy, sanh khởi ở trong ta
Quán sát thâm trầm bản chất kia,
Hiểm họa dục tham vừa hiển lộ,
Ta liền chán ngán cõi Ta-bà.
Do vậy, ly tham, giải thoát tâm,
Hãy nhìn chân lý Pháp cao thâm!
Tam Minh lúc ấy ta vừa đạt,
Thành tựu vuông tròn Pháp thượng nhân.
(Thag 267-70)
Vì Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ
là những bài đạo ca có mục đích gợi cảm xúc cho người
nghe để tìm Chánh Ðạo đưa đến đoạn tận khổ đau, cho
nên chủ đề ở đây là chính con người và ít nhắc đến
thiên nhiên. Tuy thế, ta cũng thường nghe nói về các cơn
mưa lớn hằng năm buộc các Tỳ-kheo phải dựng lều cho
mình hoặc ẩn dật trong một tinh xá cố định để an cư mùa
mưa. Nỗi lòng mong đợi mùa mưa bắt đầu được Tỳ-kheo
Subhùti nêu lên thành thi kệ, vị này là em trai đại phú thương
Ànathapindika. Túp lều nhỏ vị ấy dựng xong đã sẵn sàng
và chính nội tâm vị ấy thật kiên cố. Vị ấy bèn bạo
dạn thách thức thần mưa Parjanya (trong Vệ-đà) mở
các cổng nhà trời trút nước xuống:
Lều ta be bé, vui thay,
Mái lều khéo lợp, mưa ngay, xin ngài,
Tâm ta định tĩnh, thảnh thơi,
Tinh cần giữ vững, nhờ trời mưa cho !
(Thag 1)
Tất cả các bài kệ được trích dẫn trên đều
ở ngôi "ta", chứ không có bài nào ở ngôi
"chúng ta" cả, đây chính là đặc điểm trong
thái độ căn bản của Giáo hội đức Phật. Vì mỗi người
phải nỗ lực giải thoát tự thân, nên đạo Phật cốt yếu
dành cho cá nhân mỗi người. Tăng chúng không phải là một
cộng đồng sùng bái thần linh hay một giáo đoàn chuyên
môn tế lễ, mà là một tập hợp các cá nhân trong đó mỗi
người tự đi tìm cho phần mình cứu cánh giải thoát chung
của mọi người bằng những phương pháp giống nhau. Khi đức
Phật nhấn mạnh nhiều như trên về tình thân hữu giữa
các Tỳ-kheo (SN 3. 08) , chắc chắn lý do là để
ngăn cản chư vị khỏi cô lập mình vì quá hướng nội.
Như vậy, tinh thần tập thể chiếm địa vị
thứ yếu trong Giáo hội, sau chủ trương tự lực cá nhân.
Tuy nhiên, tinh thần ấy từ trước đến nay vẫn hiện hữu.
Nó được biểu lộ qua bài kệ sau đây của Tỳ-kheo
Kimbila. Vốn sinh trưởng trong bộ tộc Sakiya tại quê nhà của
đức Phật ở Kapilavatthu, Tỳ-kheo Kimbila dùng từ ngữ
"các Thích tử" để chỉ tất cả các đệ tử
được thọ giới của đức Phật, theo hai nghĩa:
Ðông Trúc Lâm, đây chúng ta an trú,
Các Sa-môn Thích tử sống tương thân,
Xưa giã từ bao của cải kim ngân,
Nay tri túc phần ăn bình khất thực.
Với kiên tâm, tinh cần, đầy nghị lực,
Ðồng tiến lên mục đích quyết không lùi,
Ðồng kính yêu Giáo Pháp, chính niềm vui,
Bao lạc thú trần gian nguyền dứt bỏ.
(Thag 155-56)
Mặc dù mỗi Tỳ-kheo phải tự chứng đạt cho
phần mình sự điều phục tham, sân, si, mọi Tỳ-kheo đều
là huynh đệ, là "Sa-môn Thích tử". Các nỗ lực
kề vai sát cánh của chư vị kết hợp thành mối dây thân
hữu và tin cậy lẫn nhau trong Giáo hội.
GIÁO HỘI
VÀ GIỚI ÐỆ TỬ TẠI GIA XÉT VỀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI HỌC
Ðối với một Tỳ-kheo, sự gia nhập Tăng đoàn
hủy bỏ mọi phân biệt giai cấp cũng như mọi con sông mất
hết danh tánh khi đổ vào biển cả (AN 8. 19)*
. Vì vậy, ta có thể nghĩ rằng đặc biệt các giai cấp tiện
dân và vô loại khốn cùng sẽ lợi dụng việc thọ giới
xuất gia để thoát khỏi hoàn cảnh hạn hẹp của mình và
Giáo hội sẽ trở thành ngôi nhà cứu tế cho những người
có vị trí hèn kém trong xã hội. Song chuyện ấy lại không
xảy ra ở trường hợp này: Giáo hội đức Phật thu hút
những giai cấp cao trong xã hội hơn là các giai cấp thấp.
Kinh Ðiển Pàli nêu danh tánh 457 nhân vật lịch
sử, những người đồng thời đức Phật, tự xưng mình
là tín đồ Phật Pháp: 291 Tỳ-kheo, 61 Tỳ-kheo-ni, 74 nam cư
sĩ và 31 nữ cư sĩ. Chúng ta không thể xác định được
giai cấp của tất cả các trường hợp ấy. Trường hợp
92 Tỳ-kheo và 22 Tỳ-kheo-ni có nguồn gốc xã hội không rõ
ràng, do vậy họ không thể được đưa ra để phân tích về
phương diện xã hội học. Số tu sĩ còn lại được phân
theo các giai cấp khác nhau như được nêu trong Bản số 2.
Vì tùy thuộc vào nhiều hoàn cảnh tình cờ
khác nhau mà danh tánh một vị nào đó có được lưu trữ
trong Kinh Tạng Pàli hay không, nên ta không thể quá xem trọng
con số tuyệt đối chính xác về các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni
thời ấy. Nhưng tỷ lệ các giai cấp của cả Tăng chúng
và Ni chúng lại rất có ý nghĩa, cho thấy giai cấp Bà-la-môn
chiếm đa số. Giai cấp của những người đã từng được
dạy dỗ theo một mối quan tâm đặc biệt về các vấn đề
tôn giáo cũng chiếm phần lớn nhất trong sự công nhận Phật
Pháp, dù giáo lý này đi ngược quyền lợi của các
Bà-la-môn chuyên nghiệp tế lễ để sinh sống. Giới
Bà-la-môn là những người được chuẩn bị đầy đủ kiến
thức nhất để tán thán tính cách tân kỳ của Phật Pháp
và sẵn sàng nhất để từ giã gia đình xuất gia theo Phật
Pháp. Một danh sách trong Kinh Ðiển liệt kê "Các
Ðệ Tử Xuất Chúng" (AN 1. 14) nói đến 41 vị Tỳ-kheo
lỗi lạc; 17 vị trong đó (tức 41,5%) có gốc Bà-la-môn. Một
kết quả tương tự cũng tìm được từ 259 Tỳ-kheo có thi
kệ ghi lại trong Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ), 113 vị
trong ấy (tức 44%) có gốc Bà-la-môn. Tuy nhiên, tỷ lệ số
Tỳ-kheo-ni gốc Bà-la-môn lại khá thấp.
|
TỲ-KHEO |
TỲ-KHEO-NI |
|
số |
% |
số |
% |
Bà-la-môn
Sát-đế-lỵ
Vệ-xá
Chiên-đà-la
Thủ-đà |
96
57
27
13
6 |
48,2
28,6
13,5
6,6
3,1 |
15
13
10
12
- |
38,4
33,2
25,8
2,6
0 |
Tổng cọng: |
199 |
100 |
39 |
100 |
Trong khi các Khattiyas (Sát-đế-lỵ: võ tướng,
quý tộc) và Vessas (Vệ-xá: thương nhân, đại phú)
chiếm địa vị thứ hai và thứ ba trong Giáo hội như vẫn
được mong đợi, ta lại ngạc nhiên vì thấy số người Candàlas
(Chiên-đà-la: vô loại, khốn cùng) vượt
hơn số Suddas (Thủ-đà: thợ thuyền, nô lệ). Rõ
ràng một số người Chiên-đà-la thực sự muốn tìm cách
thoát cảnh bần hàn bất lợi về phương diện xã hội qua
việc xuất gia. Thành phần này gia nhập Giáo đoàn không nhiều
hơn có lẽ vì hai lý do: đặc biệt hạng người ấy thường
hay bị những căn bệnh ngăn cản họ xuất gia và lại có nỗi
lo ngại phải nỗ lực tu tập tâm trí gắn liền với đời
Tỳ-kheo là việc xa lạ đối với họ. Những người Chiên-đà-la
gia nhập Tăng chúng thường gặp khó khăn khi tìm hiểu Phật
Pháp vì họ thiếu học vấn sơ đẳng. Ðáng chú ý là
chính các Tỳ-kheo thuộc nguồn gốc khốn cùng luôn luôn bị
đức Phật khiển trách vì đã hiểu sai lạc giáo lý. Dĩ
nhiên điều này không có nghĩa là các nguồn gốc khiêm tốn
thiết yếu gây trở ngại cho giải thoát, vì việc tu tập bản
thân không đòi hỏi các khả năng học vấn theo hình thức
bề ngoài.
Nhóm người ít nhất trong số các vị xuất
gia là giới Suddas (Thủ-đà). Ðiều này có các lý do
đặc biệt. Các vị Thủ-đà có tài nghệ tay chân khéo
léo, nên thường được kêu gọi đi lao động cưỡng bách
cho nhà vua (ràjakariya) và cho xã hội nhiều hơn các hạng
kia trong các công tác chuyên nghiệp như đào giếng, xây đập
và dựng các công thự. Ðể duy trì công việc lao động
chuyên nghiệp này, quan chức nhà vua thường cản trở các vị
Thủ-đà gia nhập Giáo hội và đôi khi có lẽ đã ngăn ngừa
việc họ "xuất gia" bằng những lời "đe dọa
trả thù" gia đình họ.
Về phần đám người Thủ-đà làm nô lệ để
sinh sống thì họ đã có những phận sự theo hợp đồng cố
định rất khó thoát ra. Hơn nữa, họ còn mắc nợ chủ
nhân vì những số tiền lương trả trước, và người mắc
nợ thuộc về hạng người bị cấm gia nhập Giáo hội.
Các thống kê về mặt xã hội của giới tại
gia đặt trên một căn bản rất hạn hẹp. Tất nhiên danh
tánh các đệ tử tại gia ít được ghi vào Kinh Tạng hơn các
vị xuất gia, vì vậy ta có các con số quá nhỏ không thể
đánh giá chính xác được. Trong số bảy mươi bốn (74) nam
và ba mươi mốt (31) nữ cư sĩ, những người đồng thời
đức Phật được nhắc đến trong Kinh Ðiển, ta không biết
rõ giai cấp của hai mươi hai (22) nam và mười lăm (15) nữ.
Tỷ lệ các giai cấp của phần còn lại [năm mươi hai (52)
nam và mười sáu (16) nữ] cũng khác nhau, vì vậy ta cần có
hai bản riêng biệt (Bản 3 và 4).
|
NAM CƯ
SĨ |
|
NỮ CƯ
SĨ |
|
số |
% |
|
số |
% |
Bà-la-môn
Vệ-xá
Sát-đế-lỵ
Thủ-đà
Chiên-đà-la |
18
15
11
5
3 |
34,5
29
21
9,6
5,9 |
Sát-đế-lỵ
Vệ-xá
Bà-la-môn
Chiên-đà-la
Thủ-đà |
8
3
2
2
1 |
50
18,8
12,5
12,5
6,2 |
Tổng cọng: |
52 |
100 |
|
16 |
100 |
Ðiều duy nhất lộ rõ từ các bản thống kê
có căn cứ nhỏ hẹp này là giới Vessa (thương nhân) được
nhiều đại diện vững mạnh giữa các cư sĩ hơn trong Giáo
hội, vừa chiếm vị trí ở đó, không phải thứ ba mà là
thứ hai.
Từ ngàn xưa, giới thương gia đã quen tìm
cách bảo đảm công việc buôn bán thành công phát đạt qua
hình thức yêu cầu cử hành các tế lễ theo Vệ-đà rất tốn
kém, và các Bà-la-môn chuyên nghiệp, các tế sư thông thạo,
thường ra tay bóc lột khai thác nguồn lợi tức này. Nay
Giáo lý đức Phật làm cho họ có thể cầu mong phát đạt
theo cách rẻ tiền hơn. Các thương gia suy xét, nếu phẩm vật
cúng dường các Tỳ-kheo của đức Phật đem lại công đức
phước nghiệp, thì chúng cũng có thể đem lại sự "mua
may bán đắt".
Tầng lớp Vessa vốn là các trái chủ, do vậy
họ có những số tiền cho vay khổng lồ, nên cũng thấy giáo
lý mới này hấp dẫn vì nó không cho phép đám người mắc
nợ được thọ giới xuất gia (Mv 1. 46). Không giống các
đoàn thể Sa-môn khác, Tăng đoàn của đức Phật không cung
cấp nơi trú ẩn cho đám người tìm cách trốn chủ nợ!
Giới thương gia cũng hài lòng vì đức Phật có
thiện cảm đối với các hoạt động kinh tế, ngoại trừ
các nghề buôn bán vũ khí, nô lệ, súc vật, thịt sống, rượu
nồng và thuốc độc (AN 5. 177). Ngài không truyền bá việc
từ chối tiêu dùng hàng hóa vì mục đích khổ hạnh có hại
cho kinh doanh, nhưng chỉ dạy giữ tiết độ và tự điều
thân. Ngài đã đưa ra những đề nghị hợp lý đối với
người thương gia thực tiễn và đạo đức thương mại.
Trong một số bài thuyết giảng, ngài giải thích cho các Tỳ-kheo
bằng hình thức ảnh dụ rằng chỉ có người thương gia
chuyên cần làm việc sáng, chiều, tối mới có thể trở
nên phát đạt (AN 3. 19). Một thương gia cần có con mắt
tinh tế, nghĩa là kiến thức về hàng hóa và thị trường,
trí thông minh lúc mua bán và năng lực gây niềm tin vững chắc,
vì vậy các nhà tài chánh sẽ sẵn sàng cho vay tiền lấy
lãi để có vốn đầu tư thêm nữa (AN 3. 20). Cách sử dụng
tài sản hợp lý nhất là chia làm bốn, dùng một phần tư
để sinh sống, một nửa để đầu tư kinh doanh và một phần
tư để dành (DN 31. 26).
Vai trò giới thương nhân trong sự công nhận
và truyền bá đạo Phật từ trước đến nay chưa được xét
đến. Hơn ai hết, các thương gia là giới đệ tử giàu tiền,
có khả năng cúng dường các tinh xá, đồng thời họ là số
người du hành nhiều, nên chính họ truyền bá kiến thức
Phật Pháp vào các miền xa xôi. Chính nhờ phương tiện vận
chuyển bằng xe bò thô sơ của các đoàn thương mãi lữ
hành xa xưa mà giáo lý đức Phật đã tìm đường đi khắp
bốn phương trời.
Các thương gia là nhóm có thế lực nhất trong
các đệ tử cư sĩ ủng hộ đạo Phật, nhưng không phải
là đông nhất. Giới tại gia phát xuất từ mọi tầng lớp
xã hội, vì tất cả đều rất cảm phục bậc Ðạo Sư có
biệt tài hùng biện vừa là bậc Hiền triết sâu sắc.
Cách thuyết giảng của ngài còn lôi cuốn họ vì nó không
đem lại cảm tưởng giới tại gia là các Phật tử thứ yếu.
Do các mối liên hệ xã hội, người đệ tử tại gia (upàsaka)
thấy khó đạt sự buông xả nội tâm và Giải thoát khổ
đau hơn người xuất gia, nhưng vị ấy vẫn có thể thực
hiện được điều này. Kinh Ðiển Pàli (AN 6. 19-39) liệt
kê danh sách hai mươi mốt (21) vị gia chủ trở thành
A-la-hán mà chưa hề làm Tỳ-kheo bao giờ cả. Danh sách ấy
không đầy đủ các vị nam A-la-hán cũng không bao gồm các
nữ cư sĩ thành tựu cứu cánh này. Trong giáo lý đức Phật,
phụ nữ được xem có cùng khả năng giải thoát như nam giới.
Vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi Giáo hội nhận
được sự ủng hộ nhiệt tình như vậy từ các nữ đệ tử.
Thật cũng đáng cho ta điều tra số phần trăm
dân chúng ở vùng "Trung Nguyên" được cảm hóa theo
đạo Phật trong thời ngài tại thế. Ðáng tiếc là Kinh Ðiển
Pàli không cung cấp đủ chứng cớ để giải đáp vấn đề
này. Chỉ do đọc Kinh Ðiển, ta có cảm tưởng là giới Phật
tử gồm khoảng từ 15 đến 20% dân chúng trong nước và
vào khoảng 2 đến 3% của số ấy là Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni,
chứ không rõ sự thực đích xác.
ÐỨC
PHẬT VÀ HỆ THỐNG GIAI CẤP
Một số sách trước đây đã ca ngợi đức Phật
như một nhà cải cách xã hội chống lại hệ thống giai cấp
cùng với các bất công của nó. Song cách diễn tả ngài như
vậy có được chứng minh không?
Ðức Phật chắc chắn không chấp nhận lời
xác định của các Bà-la-môn rằng họ được sinh ra từ miệng
của Phạm Thiên (Rv 10. 91. 12). Ngài nêu cho Sa-di Vasettha biết,
khắp nơi ai cũng thấy phụ nữ Bà-la-môn có thai hoặc cho
con bú, do vậy rõ ràng những người thuộc giai cấp này
được sinh ra đời theo cách bình thường (DN 27. 3-4) .
Trong lúc nói điều ấy, dĩ nhiên ngài lờ đi sự thật là
huyền thoại kia nhằm giải thích nguồn gốc của giai cấp
Bà-la-môn, chứ không phải chỉ từng đứa trẻ Bà-la-môn
riêng biệt.
Song cho dù ngài bác bỏ nguồn gốc thiêng
liêng của người Bà-la-môn, và như thế tức là bác bỏ
luôn toàn bộ hệ thống giai cấp, ngài vẫn tin rằng hệ thống
giai cấp ấy phát xuất từ cơ chế hoạt động của toàn
thế giới này. Các giai cấp được tạo điều kiện thành
hình do quy luật tự nhiên về tái sanh và hạnh nghiệp, theo
quy luật ấy các hành động cố ý quyết định tính chất
của đời sống trong kiếp sau:
"Các loài hữu tình vừa là chủ nhân của
nghiệp (kamma), vừa thừa kế nghiệp, nghiệp là thai tạng từ
đó họ sinh ra, họ là quyến thuộc của nghiệp, vừa cư trú
trong nghiệp của mình. Nghiệp phân chia các loài hữu tình
thành các hạng hạ liệt và ưu thắng" (tức là các
hình thái tái sinh và các giai cấp cao thấp). (MN 135. 3)
Sự bất bình đẳng giai cấp là kết quả nghiệp
quá khứ; mỗi người đều tạo được vị trí xã hội
riêng do nghiệp. Theo quan điểm của đức Phật về thế
giới, nổi dậy chống lại hệ thống giai cấp là điều vô
nghĩa cũng như vô ích.
Ngoài ra, dân chúng ở vùng "Trung
Nguyên" không cảm thấy hệ thống giai cấp quá đè nặng
lên cuộc sống. Các giai cấp chính (vanna) và các tiểu
giai cấp (jàti) họp thành một tôn ti trật tử về địa
vị và nghề nghiệp phát xuất từ sự phân chia sức lao động
trong đó giới trí thức - vì lý do lịch sử phần lớn đều
là lớp hậu sinh của những đám ngoại xâm gốc Indo-Aryan
da trắng - chiếm các địa vị cao. Hệ thống giai cấp tập
họp quần chúng lại theo cách sinh nhai và giáo dục, ví dụ
một bé trai được mong chờ sẽ nối nghiệp cha và về sau
sẽ kết hôn với người trong giai cấp mình. Song không ai bị
bắt buộc phải nối nghiệp cha hoặc chấp nhận mối hôn
nhân cùng bộ tộc cả.
Những thành phần trong hai giai cấp thấp kém
(Vệ-xá và Thủ-đà) cũng không phải là không thể vươn
cao trong xã hội. Bất kỳ ai tạo được tài sản hay thế lực
chính trị đều có thể vượt lên khỏi nguồn gốc của
mình và được công nhận, nếu không phải cho mình thì ít
ra cũng cho con cháu mình, làm thành phần của giai cấp hoặc
tiểu giai cấp cao hơn. Thời đức Phật còn quá xa sự khắt
khe mà hệ thống giai cấp mang nặng vào thời Trung Cổ của
Ấn Ðộ giáo, và cũng còn xa cách đối xử độc ác tàn nhẫn
với những người làm công việc dơ bẩn bị đuổi ra khỏi
xã hội như những kẻ "không thể tiếp xúc được".
Giữa bốn giai cấp, các Sát-đế-lỵ (võ tướng,
quý tộc) thuộc giai cấp cao nhất, còn cao hơn các
Bà-la-môn, sự kiện ấy được đức Phật và hầu hết
dân chúng vùng "Trung Nguyên" xem là vấn đề dĩ nhiên.
Thậm chí nhiều Bà-la-môn cũng không ngần ngại thừa nhận
các Sát-đế-lỵ là tầng lớp cao nhất, mặc dù cuộc tranh
chấp dành ưu thế tối cao giữa các tầng lớp này đã bắt
đầu và đã tiến về miền Tây với thắng lợi của các
Bà-la-môn. Một đặc điểm trong thời kỳ chuyển tiếp là
thanh niên Bà-la-môn Ambattha, khi nói với đức Phật, đã đề
cập tôn ti trật tự các giai cấp từ trên xuống dưới là:
Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà, nhưng rồi
ngay sau đó, lại xác nhận rằng cả ba giai cấp kia ra đời
cốt để phục vụ các Bà-la-môn (DN 3. 1. 15)..
Cách người Bà-la-môn nhìn mình ra sao xuất hiện
rõ ràng trong lời nói của Sa-di Vàsettha gốc Bà-la-môn, vị
này kể lại với đức Phật về những lời lăng mạ mà vị
ấy phải chịu đựng khi gia nhập Tăng-già: "Các
Bà-la-môn bảo: ‘Giai cấp Bà-la-môn là cao nhất ... chỉ
riêng Bà-la-môn là da trắng, mọi người khác đều da đen.
Chỉ một Bà-la-môn có thể thành thanh tịnh, các người khác
không thể. Chỉ các Bà-la-môn là con của Phạm Thiên...’".(DN
27. 3)
Một trong các lý luận mà các Bà-la-môn cố
dùng để tạo thành kiến cho các người đồng đẳng cấp
chống đối Sa-môn Gotama là ngài công nhận sự thanh tịnh
của cả bốn giai cấp. (MN 93. 2)
Ðức Phật phản bác không phải chính hệ thống
giai cấp trong bản chất của nó, mà là thái độ giả tạo
trong tâm con người trước những thành phần thuộc giai cấp
khác. Ngài chống đối sự kiêu mạn của các Bà-la-môn và
quan niệm cho rằng sự tùy thuộc vào giai cấp có liên hệ
với giá trị nhân cách của mỗi người. Hàng chục lần
ngài nhấn mạnh là những sự phân biệt giữa mọi người
trong xã hội không phát xuất từ sự khác nhau nào trên căn
bản nhân cách. Tất cả bốn giai cấp đều có khả năng giải
thoát khổ đau, cũng như từ bốn ngọn lửa có các loại
nhiên liệu củi gỗ khác nhau vẫn bùng lên bốn ngọn lửa
giống nhau (MN 90. 24). Bất kể ở giai cấp nào, tất cả mọi
người đều phải đọa địa ngục vì ác nghiệp của
mình. Cũng vậy, tất cả đều có khả năng phát triển phước
nghiệp và từ tâm (MN 93. 10).
Một biện pháp khôn ngoan của đức Phật là
chống đối sự kiêu mạn về nguồn gốc sinh trưởng của
giai cấp Bà-la-môn, đồng thời lại tỏ ra kính trọng tinh
thần cao quý của giai cấp Bà-la-môn bằng cách chuyển ý
nghĩa từ "Bà-la-môn" thành một quan niệm đạo đức.
Ngài tuyên bố rằng một con người là Bà-la-môn không phải
do nguồn gốc sinh trưởng, mà do cách xử thế đáng kính
và phẩm hạnh đạo đức. Dù con người thuộc giai cấp nào
đi nữa, bất cứ ai đã tu tập sự điều thân cần thiết
đều xứng danh Bà-la-môn.
Có lần ngài thấy một số Tỳ-kheo trưởng
thượng xuất thân từ giai cấp Sát-đế-lỵ đến gần, ngài
gọi: "Hãy đến đây, các Bà-la-môn!" và khi
nghe một Tỳ-kheo đứng đó có gốc Bà-la-môn hỏi ý nghĩa,
ngài đáp:
Diệt trừ mọi ác pháp,
Thánh đạo bước tinh cần,
Tỉnh giác, ly triền phược,
Ðấy chính Bà-la-môn.
(Ud 1. 5)