Giáo lý của đạo Phật cũng như đặc điểm nổi bật
nền kiến trúc Phật giáo, là tính giản dị, đại chúng và bình
đẳng, từ bi. Có nghiên cứu so sánh công trình kiến trúc nhiều
tôn giáo khác nhau, tôi cho rằng các yếu tố nêu trên giống như
sợi chỉ xuyên suốt nối kết các công trình như chùa tháp, Tăng
viện trên hai nghìn năm qua. Những ngôi chùa Phật luôn là trung tâm
tôn giáo lẫn trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, từng góp
phần tích cực làm phong phú thêm nền văn hóa địa phương nơi đạo
Phật đặt chân truyền bá đến.
Từ những Stupa, Chaitya, Vihara
Phát sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, ở
miền Bắc Ấn Độ, đạo Phật xuất hiện như phản ánh lòng bất bình
của quần chúng đối với chế độ đẳng cấp hà khắc và quyền uy
độc đoán của giới thống trị Tăng lữ Bà la môn.
Tiếc rằng ngày nay, những công trình kiến trúc Phật
giáo huy hoàng của triều đại Asoka (271-231 trước Tây lịch) nay không
còn, nhưng những gì còn lại của những thế kỷ sau cũng đủ để
mô tả sinh hoạt đạo Phật thời kỳ đầu đó.
Bên cạnh các đền đài Bà la môn đồ sộ, mang nặng
tính phô diễn nhưng khép kín, xuất hiện các công trình tôn giáo
khiêm tốn, dung dị nhưng mở rộng ra cho quần chúng nhân dân, không
phân biệt đẳng cấp, nguồn gốc.
Vết tích còn lại sớm nhất là các ngôi tháp tròn
Stupa ở vùng Sanchi vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, mang dạng
bán cầu đồ sộ chứa di cốt hoặc thánh tích. Chúng vừa là biểu
tượng vũ trụ, có 4 cổng day ra bốn hướng gió, trên chóp 3 tầng
dạng tán lọng. Còn lại nhiều nhất là các điện thờ Chaitya (nay
thường bị đạo Bà la môn chiếm dụng), những không gian giản đơn,
không thấy có trang trí gì khác ngoài hình tượng Đức Phật.
Nhưng thể hiện rõ ràng nhất các nét kiến trúc Phật
giáo ban sơ là các Phật học viện ở vùng Ajanta (thế kỷ thứ I sau
TL) và rất nhiều Tăng viện Vihara ở vùng Elephanta vào thế kỷ VII sau
TL. Đó là những đền hang, đục vào đá theo truyền thống kiến
trúc cổ Ấn Độ, gồm các không gian rộng rãi nhưng không trang trí
gì khác ngoài các phù điêu, tượng đắp nổi, chỉ duy nhất mang hình
tượng Đức Phật.
Tương truyền trong thời kỳ đầu của PG, ngay cả hình
tượng Đức Phật cũng không được sử dụng trang trí các chùa
hang, Tăng viện. Về sau, do yêu cầu đại chúng dân gian, hình tượng
Đức Phật mới xuất hiện, nhưng đơn giản và không kèm theo các
trang trí rườm rà nào khác, giống như các đền đài Bà la môn,
hoặc Hồi giáo về sau này.
Các khu chùa Phật ban đầu trở thành các không gian
mở, đón nhận hàng nghìn tín đồ hành hương đến nghe giảng kinh,
học tập kinh nghiệm tu đạo chứ không phải là nơi đến để lễ
bái, cầu phúc lộc. Từ thời đạo Phật thịnh hành dưới triều
đại Asoka, chùa Phật đã xuất hiện như các trung tâm sinh hoạt tôn
giáo - văn hóa cộng đồng rất sinh động, mang đậm nét đại chúng,
hướng về tu dưỡng, tu tập theo đạo pháp hơn là lễ bái.
Đến các chùa tháp, Wat và các chùa Phật hiện đại
Nếu vào thế kỷ VII và VIII, đạo Phật đã suy ở Ấn
Độ, thì đạo này lại phát triển nhanh ở Đông Á và Đông Nam Á,
phía Bắc đến tận vùng Mãn Châu, Nhật Bản, Sri Lanka, Indonesia.
Nếu đạo Phật truyền sang Tây Tạng mang sắc thái Lạt
ma với các công trình Tăng viện quy mô lớn vùng núi Hymalaya cao
vút, thì những chùa tháp Trung Quốc đã làm thay đổi cả bộ mặt
sinh hoạt tôn giáo, vốn mang tính đa thần dân gian bản địa vùng
Đông Á mênh mông. Các công trình PG ở Trung Quốc, Triều Tiên,
Nhật Bản, Việt Nam là những phức hợp kiến trúc tôn giáo quy mô
lớn, đặt ở những vị trí cảnh quan đẹp nhất. Ngôi bảo tháp
tròn Stupa nay vút lên cao với nhiều tầng bậc. Trung tâm chùa là
Phật điện. Truyền thống bố cục mở, đại chúng vẫn duy trì với
sân rộng, hành lang lớn đặt bên trái, bên phải (Đông lang, Tây
lang) đón khách thập phương.
Chùa Phật xuất hiện rất khác với đền miếu Khổng
giáo, Lão giáo với tháp cao, gác chuông và cả nơi ở, tu tập của
Tăng Ni, lẫn nhà khách. Stupa Ấn Độ nay biến thành bảo tháp (pagoda)
làm đài kỷ niệm hoặc tàng trữ xá lợi và các di vật lễ bái.
Thường thì tháp tích Phật đặt ở phía trước, có nhiều tầng,
chóp tán lọng hoặc búp sen, bầu rượu, xung quanh có đường chạy
đàn (vừa tụng niệm vừa kinh hành) vòng quanh tháp. Tháp mộ đặt
tự do ở phía sau, gìn giữ tro cốt tu sĩ, ít tầng hơn, chừa cửa
tò vò nhỏ đặt bàn thờ.
Điện thờ là trung tâm chùa, thường gồm 3 phần :
tiền đường là nơi vân tập thiện nam tín nữ, tòa thiêu hương
(bái đường) nơi tiến hành lễ và tòa thượng điện (chánh điện)
là nơi đặt tượng Phật. Thời Lý - Trần ở nước ta, chỉ đặt
tượng Phật A Di Đà, sau đặt ba vị Tam thế (quá khứ, hiện tại và
vị lai). Thời Lê, Nguyễn từ thế kỷ XV trở đi còn có cả Ngọc
Hoàng, Thổ công, Thổ địa.
Nhưng cơ bản chùa Phật vẫn là công trình gắn bó
hài hòa với cảnh quan sông nước, núi đồi bao quanh, bố cục cân
xứng và mở, chỉ có tháp là mang tính chế ngự, nhấn mạnh toàn
khu thờ tự theo phương vị đứng, có thể nhìn thấy từ xa.
Tôi đã đi qua những nước Đông Nam Á theo đạo
Phật, vẫn nhìn thấy các chùa Phật Wat Thái Lan, Lào, Campuchia với
tháp nhọn, điện thờ giản dị, mở ra cho đại chúng. Nhân dân gắn
liền suốt đời với đạo Phật, từ tuổi trẻ vào chùa tu tập,
học văn hóa, lớn lên là cư sĩ, chết đi để tro bình ở chùa.
Chùa Phật như vậy là vẫn tiếp nối truyền thống duy
trì được xuyên suốt từ buổi sơ khai ở vương quốc Capilavastu miền
biên giới Nepal, Bắc Ấn Độ, cho đến nay tại toàn bộ châu Á. Ở
phương Tây, chùa Phật nay đang trở thành các trung tâm sinh hoạt
cộng đồng di dân gốc châu Á, mang tính tôn giáo và xã hội - văn
hóa cộng đồng khá sống động.
Ở Nhật Bản, đang xuất hiện nhiều công trình kiến
trúc Phật giáo khá hiện đại của các tông phái, nhưng cơ bản nhà
chùa vẫn là nơi tu tập, tu dưỡng hướng nội, dung dị, rất khác
với công trình tôn giáo khác, vẫn mang nặng tính hướng ngoại, phô
diễn thanh thế.
Xu hướng sinh sống đô thị hóa ngày nay không còn dễ
dàng xây dựng các khu chùa Phật rộng lớn quá khứ, nhưng ngôi
chùa trong phố vẫn duy trì một truyền thống đại chúng, mở rộng
cửa đón mọi người, không phân biệt. Đó phải chăng là bản
sắc riêng của chùa Phật, xưa cũng như nay.
_____
Source:
Tuần Báo Giác Ngộ, số Xuân Tân Tî - 2001