MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ HỆ
THỐNG TỒ CHỨC GIÁO HỘI CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Thích Phước An
1. Hoàn cảnh đau buồn của
Phật Giáo Việt Nam hiện nay:
Khi cuộc vận động đòi kinh bình
đẳng tôn giáo được chính thức phát động tại Huế vào Phật Đản 1963, thì lúc
đó tôi mớichỉ là chú điệu học lớp đệ lục. Đã hơn ba thập niên qua rồi, vậy
mà tôi vẫn còn nhớ như in cái không khí lo âu của những người cùng lứa
tuổi như tôi vào một buổi chiều tại chùa Linh Sơn ở Đà Lạt, sau khi nghe
đài BBC loan tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu tại ngã tư đường
Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn. Thực ra, lo âu thì ít nhưng sung
sướng và hãnh diện thì nhiều.
Rồi tiếp theo là Ngô Đình Diệm
bị lật đổ vào ngày 1-11-1963, rồi đầu năm 1964 một đại hội Phật giáo được
tổ chức tại chùa Xá Lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, hai hệ
thống tư tưởng lớn nhất của Phật giáo, hai hệ thống tư tưởng lớn nhất của
Phật giáo là Đại thừa và Tiểu thừa được chính thức thống nhất ra đời. Chưa
bao giờ tinh thần Phật Giáo của thời đại Lý - Trần lại sống dậy trong tâm
hồn của những người tăng sĩ trẻ tuổi một cách mãnh liệt như vậy.
Nhưng niềm vui cũng như hy vọng
đó chẳng bao lâu đã nhường chỗ cho nỗi lo âu và mất mác. Năm 1966 cũng tại
Huế, Phật giáo đã phát động phong trào đòi tự do dân chủ. Chính cuộc vận
động này là nguyên nhân đầu tiên đã dẫn đến chia rẽ trong hàng ngũ lãnh
đạo Phật giáo.
Giao điểm đã chủ trương rất
đúng khi viết : "Đã đến lúc phải nhìn lại chính mình trước tấm gương lạnh
lùng và trung thực của sự thật. Đã đến lúc phải biết phân biệt để củng cố
lại cái gì là bất biến và phát huy cái gì là tùy duyên. Bằng trí tuí tuệ
Bát Nhã và bằng tâm nguyện Bồ Tát". Nếu chúng ta không can đảm nhìn vào sự
thật như vậy thì đúng như lời nhận định của giáo sư Lý Nguyên Quán : "Như
một căn bệnh không thể chữa lành khi người ta chỉ tìm cách che đậy, trốn
tránh hay loanh quanh với những lý luận mơ hồ, không ăn nhập gì với hiện
trạng".
Vậy bây giờ đã hơn ba thập niên
qua rồi, ta thử tìm hiểu lý do nào mà chỉ trong khoảng chưa đầy ba năm,
tính từ 1963 mà Phật giáo lại phải phát động thêm lại hai cuộc đấu tranh
nữa chống lại hai chính phủ. Năm 1965 với chính phủ Trần Văn Hương và năm
1966 với chính phủ quân sự Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ :
- Lý do mà ta có thể dễ thấy
nhất là, sau gần một thế kỷ bị kỳ thị và phá phách của thực dân Pháp và
tiếp đến là chín năm dưới chính phủ Thiên Chúa giáo của Ngô Đình Diệm; nên
các nhà lãnh đạo Phật giáo hầu như nghi ngờ hết tất cả các giới cầm quyền.
- Quá thất vọng khi thấy khí
thế của cuộc cách mạng 1-11-1963 cứ tàn lại dần bởi những chính phủ kế
tiếp.
- Còn một lý do nữa mà tôi cho
là cũng rất quan trọng khiến Phật giáo cứ dấn thân mãi vào những cuộc đấu
tranh là, sau thành công 1963, một số ít những nhà lãnh đạo Phật giáo hơi
tự mãn. Từ sự tự mãn dẫn đến chủ quan. Vì vậy, đã đánh giá sai tình thực
tế lúc đó là :
- Phật tử đã quá mệt mỏi sau
các cuộc đấu tranh 1963 và 1965.
- Chiến tranh đã tràn vào các
thành phố, nên đã rất có lợi cho các tướng lãnh cầm quyền. Họ sẽ viện lý
do này để dập tắt cuộc đấu tranh, và trong thực tế họ đã làm như vậy.
- Các thể lực chính trị lúc nào
cũng trong tư thế chuẩn bị lợi dụng cuộc đấu tranh của Phật giáo mà khai
thác và lợi dụng, mà Phật giáo thì hầu như bất lực trong việc kiểm soát
nội bột của chính mình.
Theo tôi, đó là những lý do
khiến cho cuộc vận động đòi tự do dân chủ của Phật giáo đã thất bại.
Nhưng dù sao thì đó cũng là
thất bại trong ngắn hạn, nghĩa là Phật giáo không đem lại một chính phủ
dân chủ tức thời cho đất nước như mục tiêu mà Phật giáo đã đề ra. Nhưng
nếu nhân dân miền Nam, đặc biệt là giới trí thức trẻ ở các thành thị đã
trưởng thanh nhiều về mặt chính trị thì tất nhiên chính là nhờ những cuộc
vận động liên tục của Phật giáo, dù Phật giáo đã phải trả một cái giá rất
đắt. Tuy nhiên, tôi cho rằng những thế lực chính trị bên ngoài không phải
là nguyên nhân chính đã gây ra phân hóa và chia rẽ Phật giáo Việt Nam từ
năm 1963 đến nay, mà nguyên nhân chính là hệ thống tổ chức Giáo Hội.
Như chúng ta đều biết, hiến
chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), thiết lập cơ
sở từ trung ương đến địa phương rập khuôn cách tổ chức của một nhà nước.
Năm 1981, thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPHVN) được thành lập. Mặc dù
nội dung bản Hiến Chương khác xa nhau, nhưng cách sắp xếp các chức vụ để
điều hành Phật sự thì lại hoàn toàn giống nhau, chỉ có khác cách gọi mà
thôi, vídụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thì đổi là Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự
Trung Ương, còn Tổng Vụ Trưởng thư đổi là Trưởng Ban, các chức vụ ở Tỉnh
và huyện cũng thế, Chánh Đại diện tỉnh thì nay gọi là Trưởng Ban Trị Sự
Tỉnh v.v...
Thực ra, các nhà sáng lập ra
GHPGVNTN đã cưu mang hoài bão rất lớn cho Phật giáo và dân tộc Việt Nam
(được thể hiện qua lời mở đầu hiến chương, rất ngắn gọn nhưng lại súc tích
vô cùng). Tuy nhiên hoài bão lớn nhưng lại quên đi vấn đề nhân sự để phục
vụ trong cơ chế ấy. Tăng sĩ của Phật giáo Việt Nam tương đối khá đông,
nhưng có được bao nhiêu tăng sĩ thỏng tay vào chợ đời mà không bị quyến
rũ. Thực tế là từ năm 1963 đến nay, một số tăng sĩ đã xem hệ thống tổ chức
của Giáo Hội như là nơi tiến thân rất tốt cho bản thân họ (Dù những tăng
sĩ này chỉ là thiểu số, nhưng con sâu thì luôn luôn làm rầu nồi canh). Một
số ít họ vào đạo để làm việc đó, vì việc tiến thân trong đạo có vẻ dễ hơn,
vì họ đã có sẵn cái hình thức của kẻ đã vứt bỏ hết mọi ham muốn thế tục,
mặc dù tâm niệm cũng như hành động của một thiểu số đó là thế tục hơn cả
thế tục nữa.
Trước 1975, các tăng sĩ chỉ giữ
các chức vụ trong giáo hội, thế nhưng không khí trong chốn thiền môn đã
bắt đầu ô nhiễm bởi lợi danh giống như người thế gian rồi. Vậy mà từ 1981
đến nay, ngoài các chức vụ trong giáo hội, các tăng sĩ có điều kiện lại
còn dòm ngó đến các chức vụ ngoài thế gian nữa, như thành viên mặt trận,
hội đồng nhân dân tỉnh, thành, v.v... nên không khí trong chốn thiền môn
đã bị ô nhiễm hơn. Đó là chưa nói đến việc các văn phòng của giáo hội hiện
nay, không thiếu gì những ông xã trưởng, lý trưởng ở thời phong kiến, hay
chủ tịch phường, chủ tịch xã trong những năm dưới thời bao cấp. Những tăng
sĩ này ngồi đó, không phải để hướng dẫn Phật tử tu học và từ bỏ bởi những
ràng buộc của thế gian, mà họ ngồi đó để tự khẳng định quyền hành của mình
qua những nguyên tắc hành chính của thế gian vậy. Đúng như lời nhận định
của giáo sư Lý Nguyên Quân : "Thiếu nội lực và yếu kém phẩm chất mà lại
mang thân vào đời để đảm nhận các mặt thế trị phức tạp của một tổ chức
giáo hội như yêu cầu mong muốn thì thật khó tránh được cái "họa sát thân".
Cái họa đã rõ, ít ra là từ 1963 đến nay. Ngoại trừ một số vị giữ mình
nghiêm mật, còn một số lớn đã không tránh được cái bả lợi danh của thế
tục".
Đây quả là thực trạng đáng buồn
và nhất là đáng xấu hổ của Phật Giáo Việt Nam hiện nay.
2. Nguyên nhân căn bệnh
và phương pháp chữa trị
Bài "Phật Giáo Việt Nam trước
ngưỡng cửa thế kỷ 21" của Giáo sư Lý Nguyên Quân đăng ở "Phật Giáo trong
thế kỷ mới" tập I do Giao Điểm xuất bản tại Hoa Kỳ 1996. Theo tôi, không
những Giáo Sư đã nói lên được tấm lòng của chính mình mà dường như còn nói
thay cho những người đã từng đem hết tấm lòng mình hiến dân cho Phật Giáo
Việt Nam, hay những kẻ đã từng "khóc cười" với Phật Giáo Việt Nam, nói
theo cách nói của giáo sư.
Cũng chính trong bài ấy, tác
giả không những đã tìm thấy được nguyên nhân căn bệnh, mà gần như còn đưa
ra được phương pháp để chữa trị căn bệnh trầm kha của Phật Giáo Việt Nam.
Nghĩa là đã phát họa đại cương cho hướng đi của Phật Giáo Việt Nam trong
thế kỷ mới. Theo giáo sư Lý Nguyên Quân thì, Phật Giáo Việt Nam ít nhất là
từ 1963 đến nay "cứ bị lôi cuốn hút vào con lốc của thời thế để không có
được những quan tâm đúng mức nhu cầu sanh tử này của Phật giáo".
Nhu cầu sanh tử này là gì ?
Giáo sư viết "Như xương sống của cơ thể, những trung tâm tu học và truyền
thống tu tập là yếu tố quyết định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật
giáo xưa nay. Thử tượng tượng, Phật giáo Trung Hoa mà không có các bậc cổ
đức đời đời nối tiếp thiếp lập các đạo tràng dịch kinh, giảng kinh, nói
pháp, thành lập các pháp môn tu tập Thiền, Tịnh và các tòng lâm hướng dẫn
đồ chúng tu tập thì di sản Phật Giáo Trung Hoa có còn gì ? Như Phật Giáo
Nhật Bản, không phải là Tổng Hội Phật Giáo Nhật Bản, thường được xem là cơ
cấu đại diện cho Phật Giáo Nhật Bản. Nắm mạng mạch của Phật giáo ở đây, mà
chính là hệ thống của tông phái với những sắc thái sinh hoạt và truyền
thống tu tập khác nhau được giữ gìn đã tạo nên cái sức sống cho Phật giáo
xứ này. Phật Giáo Tây Tạng đang phải chịu đựng một trong những thảm kịch
đau thương nhất của lịch sử dân tộc mà tương lai chưa biết thế nào thì
Phật Giáo Tây Tạng theo cùng tình cảnh lưu vong của một phần dân tộc họ,
lại đang ảnh hưởng lớn trong đời sống tâm linh và trí tuệ của con người
Tây phương".
Như vậy, qua kinh nghiệm của
lịch sử Phật Giáo Nhật Bản, Trung Hoa và đặc biệt là vị trí của Phật Giáo
Tây Tạng hiện nay thì, sở trường của Phật Giáo chính là những giá trị tâm
linh siêu việt. Nhưng thế giới tâm kinh siêu việt lại chỉ thành tựu trong
các tu viện, thiền viện, hay nơi những cá nhân sống âm thầm xa trần tục,
chứ không phải tại các trụ sở Giáo Hội quá nặng nề thế trị như hiện nay.
Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta muốn Phật giáo phải trở lại trong bốn
bức tường thành của Thiền môn, vì một lối tu tập như vậy chẳng còn thích
hợp với thời đại nữa. Nhưng chắc chắn, Phật Giáo Việt Nam muốn tồn tại và
phát triển trong thế kỷ 21 thì phải bắt đầu ngay từ bây giờ củng cố cái
xương sống của chính mình bằng cách trở lại các trung tâm nghiên cứu,
thiền viện, tu viện, như đại tòng lâm để các tăng sĩ đủ phương tiện mà
tăng trưởng trí tuệ và trau dồi đạo hạnh. Chúng ta tin chắc rằng, khi đời
sống tâm linh và trí thức phát triển mạnh mẽ thì cái bả lợi danh của thế
tục sẽ không còn dám bén mảng đến cổng tu viện nữa.
3.Vấn đề nguy hiểm mà
tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam phải đối mặt trong thế kỷ 21
Không còn hồ nghi gì nữa, chắc
chắn trong thế kỷ tới, đời sống đô thị sẽ phát triển rầm rộ ở Việt Nam.
Văn minh đô thị đi đến đâu thì đời sống nặng nề về hưởng thụ sẽ đi đến đó.
Đọc lịch sử Phật Giáo Nhật Bản chúng ta còn nhớ, có một thiền sư sống cách
xa chúng ta hơn một ngàn năm rồi, vậy mà Ngài đã nhìn thấy được sự nguy
hiểm của đời sống đô thị với đạo nghiệp của các tăng sĩ, vì những thế hệ
đi trước Ngài đã hưởng thụ quá nhiều, người đó chính là Truyền Giác Đại Sư
(DENYO DAISHI, 767-823). Chính Đại Sư đã chọn ngọn núi Tỉ Duệ (Hisi) cao
nhất ngất ở Kyoto đề làn trung tâm hoạt động của Thiên Thai Tông, và cũng
để cho các tăng sĩ thuộc phái Thiên Thai Tông tránh xa đời sống đô thị ở
kinh đô Kyoto.
Điều mà Truyền Giác Đại Sư đã
nhìn thấy hơn một ngàn năm trước bây giờ chẳng những đang lập lại, mà còn
lập lại một cách nguy hiểm hơn nữa cho các tăng sĩ đang sống ở đô thị.
Báo chí Phật giáo trong nước
trong thơi gian gần đây, đã can đảm phản ảnh rất nhiều về hiện tượng sa
đọa của một số tăng sĩ đang sống tại các thành phố, nhất là những thành
phố, nhất là những thành phố lớn như Sài Gòn chẳng hạn.
Và chúng ta, những tăng sĩ của
Phật Giáo Việt Nam cũng phải can đảm mà thừa nhận rằng, hầu hết chúng ta
đều không còn thích sống ở những nơi mà gần như thiếu vắng tiện nghi của
đời sống đô thị, mặc dù hầu hết tăng sĩ Việt Nam đều được sanh ra và lớn
lên ở các miền thôn dã. Nói như vậy, không có nghĩa là tăng sĩ phải trở về
sống lại các chùa ở thôn dã, càng không phải sống thơ mộng như một bài thơ
xưa, một túp lều tranh khiêm tốn trên núi cao, mà một nửa dành cho những
đám mây trắng, còn nửa kia thì dành cho những nhà ẩn sĩ. Điều quan trọng
là tăng sĩ chúng ta phải tự đấu tranh với chính mình để vượt qua những thú
vui vật dục tầm thường mà đời sống đô thị đã quyến rũ chúng ta, phải vượt
qua được thử thách đầy hiểm nguy này, thì chúng ta mới khẳng định được
rằng, chính những giá trị tâm linh siêu việt của Phật giáo mới đem lại sự
an lạc và hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, còn các thú vui vật chất thì
chỉ đem lại bất an và tạm bợ mà thôi.
4. Nhưng không phải chỉ
có Phật Giáo Việt Nam mới sai lầm
"Phật giáo dù đã vấp phải những
lỗi lầm và ngu ngốc trong lịch sử của nó ở Nhật Bản, không có gì nghi ngờ
rằng nó là một thế lực tâm linh rất mạnh đã từng bảo dưỡng dân Nhật, với
tư cách một quốc gia cũng như trên phương tiện cá nhân, trong những công
trình chung của văn minh. Không có Phật giáo, Nhật Bản tất nhiên không thể
đạt tới trình độ văn hóa và khai phát hiện tại". (D. T. Suzuki, Thiền
Luận, quyển hạ, Tuệ Sỹ dịch, NXB An Tiêm 1973).
Đoạn trên D. T. Suzuki muốn nói
đến Phật Giáo Nhật Bản sau thời đại Kiến Thương (Kamakura, 1168-1334).
Nghĩa là sau thời đại Kiến Thương chùa chiền dưới sự bảo trợ của các ông
Hoàng và các lãnh chúa vẫn tiếp tục được xây cất nhiều hơn lên, giai cấp
tăng lữ cũng thịnh hành hơn nhưng cũng phức tạp hơn, họ được hưởng quá
nhiều đặc quyền đặc biệt. Nhưng Phật giáo thì lại đã mất hết sinh động,
chỉ còn tồn tại như một tín ngưỡng, nặng nề về hình thức sùng bái, còn về
mặt học thuật thì từ chương, suy lý và quá rườm rà.
Tuy nhiên, Phật giáo Nhật Bản,
vẫn theo D. T. Suzuki cuối cùng đã tỉnh giấc ngủ say. khi chế độ phong
kiến bị sụp đổ, Thiên Chúa giáo được truyền vào với những phương pháp tân
kỳ và nắm vững các quan niệm tiên tiến, mặc dù Thiên Chúa giáo đã từng
sống chung với Phật giáo một thời gian dài trước đó. Phật Giáo Nhật Bản
không còn cách lựa chọn nào hơn, hoặc là bị diệt vong, hoặc là phải vùng
dậy, bằng cách đào bới lại nguồn sinh động vẫn còn tiềm ẩn để phát triển
và đã trở thành một Phật Giáo Nhật Bản huy hoàng như hiện nay.
Có lẽ, trường hợp Phật Giáo
Nhật Bản có cái gì tương tự như trường hợp của Phật Giáo Việt Nam. Dường
như lẽ thịnh suy thì ở nơi nào cũng thế, nếu có khác nhau thì chỉ khác ở
chỗ là có sớm nhận ra sự sai lầm của mình để mà điều chỉnh hướng đi cho
đúng cách không thôi.
Phật Giáo Việt Nam sau gần năm
thế kỷ cực thịnh, thì bắt đầu suy yếu dần ở cuối đời nhà Trần. Đến đời Lê
thì chùa chiền, tăng lữ vẫn còn đó, nhưng cũng đã mất hết sinh khi, và
cũng chỉ tồn tại như một hình thức tín ngưỡng nặng nề cúng bái mà thôi.
Phải đợi cho đến đầu thế kỷ 20, khi khoa học Tây phương vào và Thiên Chúa
giáo, tôn giáo của kẻ xâm lược bắt đầu xâm lấn, thì Phật Giáo Việt Nam mới
chịu thức tỉnh, mới khởi sự chấn hưng. Năm 1963 dường như Phật Giáo Việt
Nam đã lấy lại được vị trí lịch sử của mình, nhưng chẳng bao lâu thì những
oan nghiệp và ngang trái một lần nữa lại đến với Phật Giáo Việt Nam.
Nhưng chúng ta có đủ chứng cơ
để tin rằng, đây là pháp nạn cuối cùng của Phật Giáo Việt Nam. Vì thế giới
đã đổi thay, đất nước cũng đang thay đổi, lẽ nào Phật Giáo Việt Nam lại
không như thế. Niềm hy vọng mà chúng ta có thể thấy được là, hiện nay Phật
tử Việt Nam trong cũng như ngoài nước đều ý thức rằng, hơn ba thập niên
qua Phật giáo đã lãng phí quá nhiều thời gian trong những cuộc tranh chấp
với thế gian mà lại quên đi cái sở trường của chính mình. Một lần nữa, xin
được nhắc lại lời của giáo sư Lý Nguyên Quân : "Như cái xương sống của cơ
thể, những trung tâm tu học và truyền thống tu tập, đã là yếu tố quyết
định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật giáo xưa nay". (1)
Phật Giáo Nhật Bản cũng là từng
phạm phải những sai lầm, nhưng cuối cùng đã vượt qua được để có một Phật
Giáo Nhật Bản như ngày nay.
Cầu mong Phật Giáo Việt Nam
cũng sẽ như vậy, để tăng ni, Phật tử trong và ngoài nước có điều kiện dựng
xây lại Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ sắp đến, vẫn tiếp tục con đường mà
Khuông Việt Thiền Sư, Vạn Hạnh Thiền Sư, Mãn Giác Thiền Sư, Tuệ Trung
Thượng Sĩ, Trần Thái Tông Thiền Sư, Trần Nhân Tông Thiền Sư và tất cả
những Thiền Sư khác của Lý Trần đã làm và nuôi dưỡng đời sống tâm linh cho
toàn thểdân tộc vậy.
Chú thích :
1. Tất cả những đoạn trên đầu trích trong bài "Phật
Giáo Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21" được in trong "Phật Giáo trong
thế kỷ mới" do Giao Điểm xuất bản tại Mỹ 1996.