Một vài
nhận xét về
HIỆN TÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM
(Từ năm 1975- 1999)
N.T.H
Nói
đến hiện tình tức là chỉ cho tình trạng sinh họat đã đang và sẽ diễn ra
trong một giai đoạn nào đó, của một cá nhân hay một tập thể, mà qua đó
chúng được thể hiện như là một đối tượng để chúng ta khảo sát và đánh giá
về chúng. Chúng luôn luôn thể hiện sự lệ thuộc vào chính tự thể của một cá
nhân, hay một tập thể tha nhân mà sự hiện hữu đó như là những sự kiện
chính xác, để chúng ta đánh giá đúng sai về chúng một cách công bằng và
không sợ rơi vào thiên kiến chủ quan.
Hiện tình sinh hoạt của Phật
giáo Việt nam, chúng cũng được nhìn nhận và đánh giá như là một đối tượng
nghiên cứu nghiêm túc cho một chung cuộc sau này của lịch sử về giai đoạn
đó. Phật giáo Việt nam trong giai đoạn hiện tại, nếu nhìn một cách trung
thực và khách quan, thì đây quả thực là một giai đoạn đáng để chúng ta ưu
tư và lo nghĩ về tiền đồ của Phật giáo Việt nam, vì tự thân nó Phật giáo
đã đánh mất đi cái giá trị nội tại, đáng lý ra nó phải được nuôi dưỡng
phát huy một cách tự chủ trong quá trình gìn giữ và kế thừa. Ở đây, chúng
ta không quy trách nhiệm cho bất cứ môﴠcá nhân nào cả, mà là trách nhiệm
chung của Phật giáo Việt nam, chỉ vì mỗi người trong chúng ta quá vụng về
trong cung cách ứng đối với hòan cảnh chung quanh vào lúc bấy giờ, nên
tình trạng phân hóa nảy sinh, và chúng kéo theo sau những sự thực đau lòng
qua những hiện tượng hủ hóa của chính các vị lãnh đạo trong Giáo-hội hiện
tại, được thể hiện qua sự đánh mất chính mình (tự ti) để làm công cụ tay
sai cho một thế lực vô minh bên ngoài, trong khi họ tự tôn một cách quá
đáng đối với các đồng đạo của mình, qua sự thể hiện cái ngã trịch thượng
được gói gém và nuôi dưỡng bỡi những đặc lợi đặc quyền cỏn con do thế lực
vô minh mang lại. Đây là hiện tượng phổ biến từ trên chóp bu Trung ương
cho đến các Quận, Huyện địa phương trong khắp cả nước, cũng từ đó Phật
giáo Việt nam, sức mạnh của tập thể yếu dần đi, và phân ra thành hai giai
cấp thống trị và bị trị rõ ràng.
Giai cấp thống trị được hưởng
những đặc ân đặc quyền do nhà nước ban phát, và do đó họ chỉ biết chú
trọng đến bề mặt hình thức bên ngoài được chỉ đạo sát sao bỡi một ban tôn
giáo chính phủ từ trung ương cho đến địa phương theo hướng đi của nhà nước
qui định. Do đó tuy rằng Giáo hội về mặt hình thức trông có vẻ có bề thế,
và có sức sinh hoạt năng động nhờ vào những phương tiện nhà nước ban phát,
nhất là phương diện truyền thông đại chúng. Nhưng trong nội dung thực chất
thì chúng hủ hóa mục nát, chúngống được là nhờ nhà nước hà hơi tiếp sức,
nếu không thì đã ngã gục từ lâu rồi. Rốt cuộc rồi quanh đi quẩn lại cũng
những gương mặt ấy, kể từ ngày thành lập cho đến bây giờ, và có lẽ là mãi
về sau này cũng có, vì nguyên tắc hành chính chỉ huy mà, có thua gì việc
cha truyền con nối trong chế độc phong kiến đâu!? Một người có thể kiêm cả
ba, bốn, năm, hay sáu chức vụ gì đó, từ trên Trung ương đến địa phương.
Hiện tượng này là một hiện tượng của thiếu người hợp tác, và cũng là do
tham quyền cố vị, hay bè phái địa phương đẻ ra. Thật ra, trong những khuôn
mặt này, không hẳn họ có cùng chung một chí hướng. Có người ngồi lại vì
một lý do nào đó, hoặc vì cái lợi ích chung, hoặc vì lợi ích riêng tây,
hoặc vì tự ti, hoặc vì cơ hội, hoặc vì vong thân đánh mất đi chính mình;
nhưng nói chung thì người vì lợi ích chung thì quá ít oi, hơn nữa những
người có đôi chút liêm sỉ tàm quý thì họ không bao giờ đứng ra họp tác cả,
ngoài ra thì hoàn toàn là những người cơ hội; nếu nói cho chính xác và
đúng với những hiện tượng đã và đang xảy ra trong Gi25;o hội thì họ là
những người đã đánh mất chính mình. Sự hiện hữu của họ vì thế, đã trở
thành không có ích gì cho Tăng tín đồn Phật tử cả, vì tự họ không có thẩm
quyền ngay trong việc sinh hoạt Giáo hội, chứ đừng nói chi đến những việc
khác như can thiệp, hay bênh vực Tăng tín đồ Phật tử bị nhà nước chèn ép,
áp bức hay giam giữ bất hợp pháp khi cầu cứu đến họ. Ở đây, không những họ
không can thiệp mà còn đồng lõa với các thế lực đó nữa là khác, họ dựa vào
thế lực nhà nước hù dọa, bắt nạt, làm tiền ăn hối lộ đối với giai cấp bị
trị, giống như là một cán bộ nhà nước không khác gì. Đó chính là cái thế
làm cho giai cấp dưới của Phật giáo Việt nam càng ngày càng lánh xa, để
rồi phân ra làm hai cấp rõ ràng, và cũng từ đó họ không liên hệ thân cận
và nắm được giai cấp dưới. Họ tự trở thành những kẻ bị cô lập, nếu họ có
liên hệ được chăng nữa, thì chính sự liên hệ đó là thứ liên hệ hành chánh
khi giai cấp dưới cần thế thôi. Ngoài ra, họ chỉ biết tranh dành địa vị
chỗ ngồi để rồi chèn ép nhau, loại nhau bằng những thủ đoạn nếu được, bằng
cách dựa dẫm vào thế lực nhà nước để chơi nhau ngay trong những người
chính họ, vì vậy cho nên ngay trong chính những người ra làm việc Giáo hội
không ai tin ai, luôn luôn dè chừng nhau, và nạn bè phái địa phương, môn
phái cũng từ đây nảy sanh. Một tập thể mà từ trên xuống dưới nghi ngờ
nhau, dè chưng nhau, chỉ vì họ sợ rằng ai cũng làm nhiệm vụ như chính họ
đang nhận nhiệm vụ theo dõi người khác, vậy thì làm sao mà cảm thông nhau,
làm sao hòa hợp được, vì thế cho nên sức mạnh tập thể không có. Giáo hội
thì có đó nhưng không có hồn, đến độ Tăng ni Phật tử thuộc thành phần bị
trị, phần nhiều không biết Thành hội là gì? Đặt ở đâu? Văn phòng II là gì
và hiện đang ở chỗ nào? Họ chỉ biết có chùa của họ, chỉ biết có bổn đạo
của họ, và ngược lại Phật tử chỉ biết cái chùa của họ, ông Thầy của họ mà
thôi. Một Giáo hội như vậy làm sao đứng vững nổi, nếu không nhờ vào bàn
tay phù phép của nhà nước thò vào nâng đỡ?
Từ những hiện tượng trên cho
chúng ta một cái nhìn đúng hơn về Giáo hội hiện tại. Ở đây chúng ta không
đặt vấn đề là Giáo hội hợp pháp hay không hợp pháp, tự nó sẽ trả lời cho
chính nó qua việc sinh hoạt hằng ngày của Giáo hội này, có chủ quyền hay
không có chủ quyền trong việc thực thi kế sách sinh hoạt cho Giáo hôi, hay
đó cũng chỉ là một con cờ tay sai cho chủ nghĩa đế quốc mới, thực hiện
tham vọng thống trị phi dân tộc, phi nhân bản tại đất nước này qua chủ
nghĩa Max-Lê của ý thức hệ ngoại lai Tây phương đã đang và sẽ áp đặt trên
đất nước này? mà chúng ta chỉ xét trên khía cạnh sức mạnh của đoàn kết và
hiệu quả phát triển là không có, nếu có chăng nữa thì những hiện hữu có
được đó được hình thành bỡi thế lực nhà nước, cọng vào sự lợi dụng của
giai cấp bị trị mà theo họ với hoàn cảnh xã hội như vậy thế chẳng đặng
đừng phải hợp tác vì tương lai của Phật Giáo Việt nam họ phải chấp nhận,
nên chúng ta ở bên ngoài thấy có những hiện tượng phát triển thật sự trên
mọi lãnh vực như: về giáo dục mở ra các trường Cơ bản ở mỗi tỉnh, cấp địa
phương; còn cấp Trung ương mở ra hai trường Cao đẳng, ba Học viện Phật
giáo tại ba miền Bắc, Trung, Nam, và một Viện nghiên cứu Phật học. Về
hoằng Pháp thì thỉnh thoảng mở ra các lớp bồi dưỡng Giảng sư tại Trung
Ương cũng như địa phương. Về Tăng sự thì tổ chức an cư Kiết hạ hằng năm,
tổ chức Giới đàn những nơi nào có Tăng ni nhiều cứ ba năm một lần trong
khắp cả nước v.v… nhưng thật chất đó chỉ là những hình thức bên ngoài được
nhà nước dàn dựng lên và bảo trợ chỉ đạo một cách sát sao ở bên trong.
Phật giáo của Giáo hội này làm bất cứ việc gì mà không có sự đồng tình
đồng ý của nhà nước, và những Đảng viên chỉ đạo trực tiếp nằm trong guồng
máy Giáo hội gật đầu thì đừng hòng thực hiện được. Như vậy những hiện
tượng Giáo hội phát triển về nhiều mặt ở trên như chúng tôi đã đề cập cũng
không ngoài sự bảo trợ và chỉ đạo trực tiếp này, cộng với cái thế chẳng
đặng đừng của giai cấp Tăng lữ và quần chúng Phật tử bị trị này. Ở đây,
nếu không có sự hiện hữu cộng tác có lý do riêng của giai cấp bị trị thì
thử hỏi giáo hội và nhà nước có làm gì được không? Vì vậy, Giáo hội không
có bất cứ một giá trị nào đối với quần chúng Tăng tín đồ Phật tử ngoài
việc bị giai cấp dưới lợi dụng mà họ không biết, họ cứ tưởng đó là sự
thành công của họ!
Qua những hiện tượng trên cho
chúng ta thấy, hiện tại nếu bảo là có sự phát triển, thì sự phát triển đó
là sự pháp triển của Phật Giáo Việt nam chứ không phải sự phát triển của
Giáo hội Phật giáo việt nam, hay nói một cách chính xác hơn thì đó chính
là sự phát triển của giai cấp bị trị Phật giáo Việt nam vào lúc bấy giờ.
Đây là một giai cấp đã và đang lớn mạnh trong một hoàn cảnh khó khăn bị
chèn ép bỡi trong lòng nội tại của chính nó, và hoàn cảnh bên ngoài buộc
nó phải tự hủy. Nhưng nó vẫn sống và vẫn mạnh hơn lúc nào hết nhờ vào
những lý do như chúng tôi vừa nêu ra. Cái nguyên nhân đưa đến sự bền vững
và lớn mạnh của giai cấp Tăng tín đồ bị trị, chúng được hình thành và hiện
hữu nhờ vào:
Thứ nhất, vì Giáo hội không có
hệ thống hành chánh ở cấp cơ sở (xã, phường, thôn, ấp, làng xóm) nên Giáo
hội không đi sát, sâu, và nắm vững hạ tầng cơ sở nên Giáo hội trở thành
không có quần chúng (đây là điều nhà nước muốn và Giáo hội cũng đã đáp ứng
yêu cầu của họ). Thử hỏi một tổ chức mà không có hạ tầng cơ sở thì họ làm
việc với ai, và họ dựa vào đâu để hiện hữu? Vì nhà nước biết thế cho nên
buộc họ phải làm chỗ dựa cho Giáo hội, và giáo hội vì thế trở thành công
cụ cho họ để mà hiện hữu. Trong khi đó nhà nước luôn coi trọng hạ tầng cơ
sở và luôn luôn nắm vững hạ tầng cơ sở để làm nền tảng cho chế độ của họ.
Chính vì chỗ hở này mà Giáo hội không nắm vững được quần chúng Phật tử và
Tăng ni, và cũng vì chỗ hở này mà giai cấp bị trị lợi dụng nó để tự hóa
thân biến mình trở nên đoàn kết và vững mạnh hơn. Ở đây, họ không cần gì
hết, chỉ cần quan hệ tốt với nhà nước địa phương là họ sẽ được tất cả(vì
nhờ có cán bộ hủ hóa từ trên cho đến dưới cho nên đây cũng là một cái
duyên thuận để giai cấp bị trị phát triển nội bộ), như vấn đề xuất gia,
học tập, thọ giới, tấn phong Hòa thượng, Thượng tọa .v.v… Nhà nước đâu có
muốn cho Phật giáo phát triển, và tất cả mọi sinh hoạt tín ngưỡng khác
cũng vậy, trước hết và trên hết của mọi vấn đề ở đây là phải có sự chấp
thuận của nhà nước trong việc nếu muốn đi tu, nếu muốn học tập, nếu muốn
tấn phong Hòa thượng, Thượng tọa hay muốn bất cứ việc gì đều phải được sự
chấp thuận của nhà nước, còn Giáo hội là cơ quan, để nhà nước nhờ vào đó
mà họ thoát khỏi tai tiếng là cấm đoán tự do tín ngưỡng tôn giáo, nên buộc
Giáo hội phải ra nội qui ai muốn đi tu thì phải được sự đồng ý của cha mẹ,
và được sự chấp thuận của chính quyền địa phương, nhưng trên thực tế thì
có ai muốn đi tu làm đơn xin nhà nước bao giờ, và nếu có xin đi nữa thì
cũng bị nhà nước bác bỏ, vì họ không muốn chịu trách nhiệm về chữ lý trên
mặt giấy tờ nếu có việc gì xảy ra; nhưng đối với nhà nước này thì cái gì
cũng có thể xảy ra; biết vậy cho nên họ không bao giờ làm việc này. Nhà
nước thì lúc nào cũng tuyên truyền là mọi người ở trong nước Xã hôi chủ
nghĩa đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; nhưng có một điều rất
nghịch lý là khi đã cạo đầu xuống tóc, mặc pháp phục rồi thì người này
không có chỗ ở, vì nhà nước đâu có cho nhập hộ khẩu thường trú ở trong
chùa, nếu chùa nào có liên hệ tốt với nhà nước địa phương thì mới được tạm
trú. Như vậy cũng bằng là cấm không cho tu rồi!? Những điều này thì Giáo
hội không bao giờ can thiệp, và đặt vấn đề với nhà nước đâu; từ đây nảy
sanh ra không biết bao nhiêu là tệ nạn, Tăng ni thuê nhà ở trọ, hay ở nhà
bổn đạo, vì những nơi này Tăng ni được quyền tạm trú còn chùa thì không
được!? Đó là một trong vô số cái bất hợp lý như vậy, đối với tôn giáo nói
chung và Giáo hội Phật giáo nói riêng, mà các cấp lãnh đạo không bao giờ
dám hở môi, vì vậy cho nên giáo hội phải lãnh đủ tai tiếng búa rìu thay
cho nhà nước. Khi mà giai cấp thống trị không cưu mang nổi những việc này
cho Tăng tín đồ Phật tử, thì giai cấp bị trị tự lo lịu về tương lai cho
Phật giáo, bằng cách liên hệ tốt với chính quyền địa phương, để họ cho
phép tạm trú tại địa phương họ, và dần dần đâu cũng vào đó và được hợp
thức hóa một cách đàng hoàn, bằng sự khéo léo giữa người với người thì mọi
chuyện đều im xuôi. Chính nhờ vào sự hiện hữu bằng cách này mà giai cấp
Giáo hội thống trị mới có người để họ mở trường dạy học, mở Giới đàn thọ
giới chứ nếu không có như vậy thì tu sĩ tìm đâu ra để họ mở trường dạy
học, mở Giới đàn để thọ giới? Thứ hai, vì Giáo hội không có cơ sở hạ
tầng, cho nên quần chúng Phật tử họ không nắm được. Từ sự ngăn cách giữa
quần chúng Phật tử và các cấp lãnh đạo từ cấp quận huyện trở lên của Giáo
hội được coi như là một sự ngăn cách lớn, nên Giáo hội hiện đang chơi vơi
giữa từng không, có thể rớt lúc nào cũng được nếu nhà nước muốn. Vì Giáo
hội không đặt trên bất cứ nền tảng nào vững chắc nào hết, nên sự hiện hữu
của họ như là một cái bóng đối với giới Phật tử tại gia, hay đó chỉ là một
tổ chức chánh trị do nhà nước lập ra để tuyên truyền cho chế độ mà thôi.
Ngược lại giai cấp bị trị, họ chỉ gần gũi và thân thích những vị cũng đồng
với cảnh ngộ của họ, cùng với tầng lớp của họ, sát cánh với họ trong sinh
hoạt tâm linh như tu học, lễ bái, ma chay, giỗ chạp, cầu an, cầu siêu nói
chung là mọi hoạt động về tinh thần, họ gắn bó với nhau qua tình nghĩa
Thầy trò, tình nghĩa đồng đạo, tình nghĩa chòm xóm. Họ đoàn kết nhau để
vương lên trong sự áp bức chèn ép của giai cấp thống trị; họ biết cách lợi
dụng để tự sinh tồn mà không đánh mất chính họ. Đó là điều mà mọi người
trong giai cấp bị trị lấy là hảnh diện, và nhìn thẳng vào đời đi lên với
hai bàn chân của chính mình, cho dù họ gặp rất nhiều khó khăn trong lúc
sinh hoạt, như hội hợp phải xin phép nếu không phải là những ngày lễ lớn
theo truyền thống, đã được nhà nước cho phép thì dứt khoát không được, thì
họ sinh hoạt theo lối khó khăn. Sự hiện hữu và phát triển của giai cấp bị
trị này, nó đã nói lên được cái huyết mạch truyền thống lâu đời của dân
tộc, nó đã ăn sâu, đã đúc kết nên một giai cấp chân lấm tay bùn, lao động
vất vả, luôn luôn bênh vực lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau
trong những khi hoạn nạn ập đến; luôn tự chủ không đánh mất chính mình. Nó
là một Giáo hội chính thống của Phật giáo Việt nam, là Giáo hội của những
kẻ thấp cổ bé họng, Giáo hội của vô danh nhưng hữu thực, đó chính là
G.H.P.G.V.N.T.N. Hay nếu muốm đặt cho nó một cái tên để gọi thì đó là một
trong những danh xưng hợp tình hợp lý nhất trong hiện tại.
Tóm lại, như đã trình bày ở
trên chúng ta đã nhìn thấy hiện tình Phật giáo Việt nam là như vậy, chúng
bị phân hóa thành hai giai cấp rõ ràng là giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị. Sự hiện hữu của chúng được đánh giá như là một sự ô nhục một thời
trong suốt dòng lịch sử Phật giáo Việt nam, chúng được hình thành và hiện
hữu một cách nhức nhối bỡi các thế lực vô minh nội tại cũng như ngoại tại,
đáng lý ra nó phải là một khối mạnh đoàn kết. Chúng ta không trách ai hết
mà chúng ta hãy tự trách chính mình, không đủ trí tuệ để lèo lái con
thuyền Phật giáo Việt nam vượt qua cơn bão táp, mà tự nhận chìm chính mình
để tránh bão táp!? Rốt cuộc rồi chúng ta được gì? Chia rẽ, phân tán, yếu
dần yếu dần và chìm nghỉm trong tiếng cười của bão táp phong ba. Hãy nắm
tay nhau lại, sát cánh bên nhau, đoàn kết nhau lại, hãy tha thứ cho nhau
những lỗi lầm nếu có trong quá khứ, hay trong hiên tại, mà vực dậy con
thuyền Phật giáo Việt nam. Hiện tại vẫn chưa phải là đã trễ, chỉ sợ chúng
ta không đủ dũng khí của một bậc trượng phu đứng lên cùng nhau vực dậy con
thuyền, và đặt chúng vào hướng đi thích hợp đối với sự giải thoát, và tự
chúng ta hợp nhau lèo lái tiến lên, mà không cần bất cứ một thế lực nào
khác ngoài chúng ta ra, thì đó mới đích thực là hướng đi đúng của Phật
giáo Việt nam.