VÀI NÉT VỀ
PHẬT GIÁO DÂN GIAN VIỆT NAM
Giáo sư Trần Quốc Vượng
Đạo
Phật được truyền bá vào đất Việt từ buổi đầu công nguyên và tồn tại, diễn
tiến, lúc thăng lúc trầm, từ đó cho đến tận ngày nay.
Đạo Phật tới đất Việt chủ yếu
theo ba con đường sau :
- Con đường ven biên trực tiếp
từ Ấn Độ qua, đến Nam Bộ, Trung Bộ tới Bắc Bộ nước ta.
- Con đường bộ từ Tây Tạng-Vân
Nam mà xuống, theo đôi bờ sông Nhị, chảy qua đất Hà Tây (xứ Đoài và xứ Sơn
Nam Thượng ngày xưa) mà xuôi mãi xuống vùng biển. Đến cuối đời nhà Lý vẫn
còn các sư từ Tây Tạng-Vân Nam xuống kinh đô " Thăng Long (Hà Nội). "Tam
Thánh" (ba thiền sư lớn) của đời Lý là Không Lập, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh,
gặp nhau kết nghĩa ở xứ Đoài (La Phù-La Dương - Ngã Cầu) rồi ngược sông
Hồng lên Vân Nam học Phật.
- Con đường từ Nam Trung Hoa
(Triết Giang, Phúc Kiến, Lưỡng Quảng) vừa theo đường bộ, vừa theo đường
ven biển mà tới xứ Đoài, xứ Bắc và cả miền Trung Bộ.
Rồi từ khi thành Thăng Long -
Đông Đô - Hà Nội được hình thành thì trung tâm Phật Giáo được hội tụ về
Thủ đô rồi từ đó lại lan tỏa ra 9 phương trời, 10 phương Phật của nước
Việt chúng ta. Các vị "Quốc sư" đều về Thăng Long giảng Đạo Lý, Phật Pháp.
Trên diễn trình lịch sử Phật
Giáo Việt Nam như thế, đạo Phật đã hấp thụ nhiều dòng phái Phật Giáo Ấn
Độ, Trung Hoa, Trung Á... rồi hợp lưu lại, được Việt Nam hóa và dân gian
hóa mà thấm đượm vào lòng (tâm) từ vua quan, vương hậu, vương phi, công
chúa... cho đến người dân thường ở làng xã.
Đạo Phật tới đất Việt vào lúc
tổ tiên ta đang rên xiết dưới ách thống trị của nền quân chủ chuyên chế
phương Bắc. Dân ta tiếp thu được ngay tinh túy tự do, bình đẳng, tinh tấn
của đức Phật. Đức Phật dạy : "Ta là Phật đã thành (Buddha, tức là giác
ngộ) còn toàn thể chúng sinh là những đức Phật sẽ thành" (ai cũng có thể
giác ngộ). Nhân dân ta tiếp thu được ngay tinh thần Đại Hùng, Đại Lực, Đại
Trí, Đại Từ, Đại Bi... của đức Phật nên một mặt rất anh dũng đấu tranh lật
đổ mọi ách đô hộ thực dân của giặc ngoài, mọi "hôn quân ám chúa", quan
tham lại những ở trong nước, một mặt khác củng cố, phát triển tình thương
trong gia đình, họ hàng, xóm làng, vùng miền, đất nước, mà đỉnh cao nhất
là : "Thương người như thể thương dân, Người trong một nước phải thương
nhau cùng". Một mặt, trong đời sống thường ngày dân ta cố gắng ăn ở hiền
lành ("hiền lành như Bụt"), nhưng một mặt khác, khi trong xã hội còn những
thế lực Dữ-Ác thì dân ta cũng biết phát huy trí tuệ (Trí Huệ) và tinh
thần, sức lực Hùng-Dũng để diệt trừ Dữ-Ác, từ con hổ dữ ở rừng núi, con
thuồng luồng ác ở sông biển đến kẻ ngoại xâm, nội thù. Chẳng phải lìa xa
tinh thần Phật Giáo mà từ thế kỷ VI (542-602) Lý Phật Tử (Phật tử họ Lý)
tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Lý Bí khi trở thành Lý Nam Đế (vị hoàng đế
đầu tiên của nước Nam), việc đầu tiên là xây dựng chùa Khai Quốc (Chùa Mở
Nước, sau đổi là chùa Trấn Quốc, nay ở sát Hồ Tây, Hà Nội). Giới nghiên
cứu Phật học đều nhất trí cho
rằng chính các thiền sư như Cảm Thành (860), Định Không (808) cùng trưởng
lão La Quý An, Thiền Ông (936) v.v... đã chuẩn bị cho nền tự chủ lâu dài
của nước Việt từ thế kỷ X (938) và trước đó "Đạo Phật đã ngấm vào lòng
người dân như nước ngấm vào lòng đất". Biết bao vị thiền sư (Vạn Hạnh,
Pháp Thuận, Đa Bảo, Viên Chiếu...) mà đứng đầu là đại sư Khuông Việt
(933-1011) đã góp phần tích cực vào việc củng cố và giữ gìn nền độc lập
dân tộc, trong mọi lãnh vực đối nội, ngoại giao, văn hóa, xã hội.
Giới sử học hiện nay đã thống
nhất gọi nền quân chủ Đại Việt thời Đinh-Lê-Lý-Trần (968-1400) là nền Quân
Chủ Phật Giáo với sự xuất hiện của nhiều vị vua nhân từ, hỉ xả... như Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông... Trần Thái Tông, Trần
Nhân Tông, Trần Minh Tông v.v... cùng các bậc lãnh đạo khác, thời ấy, như
Thái úy Lý Thường Kiệt vị nguyên soái "phạt Tống, bình Chiêm" mà văn bia
của một vị thiền sư viết : "Ông Lý tuy thân phải dấn trong cõi đời bụi
bặm, nhưng tâm từ lâu đã thuộc Phật", như thái hậu Ỷ Lan bàn
bạc cùng quốc sư Thông Biện và
bậc đại thiền sư khác về lịch sử và yếu chỉ của Phật Giáo Việt Nam, trị
quốc thay vua đi đánh giặc, cấm lạm sát trâu bò để phát triển nền sản xuất
nông nghiệp, bỏ tiền kho để chuộc các cô gái nhà nghèo bị gán nợ cho nhà
giàu làm tôi tớ, rồi gả chồng cho họ -- đúng với tinh thần "bố thí" của
Phật giới...
Như vậy, đại Phật nói chung và
Phật Giáo Việt Nam nói riêng đâu phải là "tiêu cực", "xuất thế" như đã có
lúc nhiều người mê lầm, tưởng bậy, mà có đủ tinh thần "nhập thể" dấn thân
tích cực cứu đời. Biết bao nhiêu vụ -- mà chỉ xin phép kể một vị điển hình
: Thượng sĩ Tuệ Trung (Trần Quốc Tung sinh năm 1230), "ngọn đèn tổ của
Phật Hoàng" (Trần Nhân Tông) thời bình thì mặc áo cà sa ở chùa núi, lúc có
giặc Nguyên-Mông thì khoác áo tướng quân đi dẹp giặc, giặc lui thì cởi
"giáp binh" trở về chùa núi... đạt tới tột cùng "Phật đẳng hằng sa"...
Đạo Phật, cũng như bất cứ tôn
giáo lớn nào khác đều có Giáo chủ (Phật), có giáo lý (Pháp), và các vị
tinh thông giáo lý kinh điển và nhất là có đạo đức cao cả để hoằng dương
giáo lý mà đức giáo chủ khởi xướng (Tăng). Còn ở dưới người dân theo Phật
Giáo đều gọi chung là Phật tử (con cái đức Phật).
Ngay một số tăng, như đại sư Tô
Huệ Năng của thiền phái Nam Tông - người Việt phương Nam, không biết chữ,
vào chùa chỉ chuyên đi gánh nước giã gạo xay thóc -- đâu có giỏi chứ, giỏi
giáo lý như Tổ Thần Tú của thiền phái Bắc Tông (Bắc Trung Hoa) song ở thế
kỷ VII lại được coi là vị tổ chính, phát huy tính chất thiền.
Thiền Phật vốn phóng khoáng,
cởi mở, tự do, dung nạp mọi tín ngưỡng, cổ tích dân gian (như Kinh Bách
Dụ), dung nạp cả tín ngưỡng thờ mẹ (mẫu) của dân gian nước Việt, nào chùa
Man Nương (Mãn Xá), nào chùa Bà Dâu, Bà Đậu (Hà-Bắc, Hà Tây), Bà Nành, Bà
Ngô (Hà Nội), đã biến đổi từ Đức Bồ Tát Quán Âm (Avalokitesvara) của Ấn Độ
(theo truyền thống Ấn Độ là đàn ông) thành Phật Bà Quán Âm, thành Bà
Chúa Bà của Chùa Hương Tích
"Nam Thiên Đệ Nhất Động", thành Bà Quán Âm Thị Kính của Phật Giáo dân gian
Việt Nam v.v.... Và trong khuôn viên nhiều ngôi chùa nổi tiếng như chùa
Keo (Thái Bình), chùa Tổng (La Phú), chùa Thày (Sài Sơn), chùa Láng (Hà
Nội) v.v... đều được xây theo kiểu kiến trúc "tiền Phật hậu Thánh" hay
thậm chí "tiền Thần hậu Phật". Có sao đâu ? Vì Phật giáo vốn "dung Tam
Giáo" (1) thậm chí còn có lý thuyết "Tam giáo đồng nguyên") ba tôn giáo ấy
cùng chung một cội nguồn). Xưa nay trong lịch sử Việt Nam, chỉ
thấy nhà Nho bài Phật (rồi về
già lại hối hận như Trương Hán Siêu đời Trần) song các bậc đạo Nho như
Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Trạng Trình, Trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan, quê
Phùng Xá, Hà Tây), cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến v.v... là đều chống
gậy lên chùa thăm các sư, đàm đạo giáo lý và việc đời cùng các sư. Lý
Thánh Tông là đệ tử của Thiền sư Thảo Đường song lại chính là người sai
xây dựng Văn Miếu thờ đức Khổng Tử. Còn con ông cùng đức Bà Ỷ Lan là vua
Lý Nhân Tông, rất sùng Phật nhưng lại là người tổ chức kỳ thi Nho giáo đầu
tiên ở nước ta (1075). Thí dụ còn nhiều lắm, kể sao cho xiết.
Phật và đạo Phật là rộng lượng,
bao dung, Lý Nhân Tông ca ngợi Thiền sư Giác Hải ("Giác Hải tâm như biển")
và cả chân nhân đạo sư Thông Huyền ("Thông Huyền đạo rất huyền") vì cả hai
đều thần thông và biến hóa như "Một Phật, một thần tiên".
Chùa không phải chỉ là nơi dân
đến cúng dường đức Phật cùng chư vị Bồ Tát... Theo bài văn bia của Trần
Minh Tông khắc trên núi Non Nước (Ninh Bình) thì các ngôi chùa thời ấy còn
là nơi trồng cây thuốc Nam, mở y viện ngay trong khuôn viên chùa để chữa
bệnh cứu dân.
Chùa có giống cây trồng nào mới
thì lại "bố thí" cho chúng sinh Phật tử đem về nhà, về làng trồng gây
giống, truyền bá cho toàn dân như cây mít, cây hoa dại, cây bồ đề v.v...
Người dân -- nhất là người đàn
bà Việt Nam -- sống ở đời theo phép ứng xử : "Trẻ vui nhà, già vui chùa".
Lúc còn trẻ, phải gáng giang sơn nhà chồng, "ghé vai gánh vác sơn hà" cùng
nam giới, vả lại theo giáo lý của thiền phái Bách Trượng thì ai ai cũng
phải lao động, làm lấy mà ăn, còn dư thì bố thí cho người nghèo, người tàn
tật, cúng dường cho chùa, đền, miếu... Khi về già, con cái đã trưởng
thành, ở riêng, ăn riêng và còn biết phụng đường bố mẹ già để mẹ già được
nghỉ ngơi, lên chùa, cúng Phật, cầu nguyện cho con cháu cùng đất nước an
lạc, thái bình.
Vả lại thiền tông chủ trương
"Tâm tức Phật, Phật tức tâm". Dân gian ta thường nói "Phật tại tâm" (Phật
ở trong lòng mình) cũng như nhà đại thi hào Nguyễn Du trong truyện Kiều đã
tổng kết vô cùng chí lý "Thiện căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba
chữ tài". Cho nên dân gian Việt Nam, với lối nói bóng bẩy, ngoa dụ đã dám
bảo rằng : "Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa", "Dù xây
chín đợt phù đồ (2), không bằng làm phúc cứu cho một người".
Trong ba vị tam thánh (ba đại
thiền sư đời Lý) được thờ ở chùa Tổng (Thiện Hưng tự, La Phù, Hà Tây) và ở
nhiều nơi khác, thì ngài Từ Đạo Hạnh hào hiệp, phóng khoáng, kết bạn thân
với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa, và người kép hát là Vĩ Ất. Ban
đêm miệt mài đọc sách, ban ngày thổi sáo, đá cầu, vu chơi (3). Tu Phật đâu
cần làm ra vẻ nghiêm trang hình thức, các sư có thể chơi với người mà quan
niệm chính thống khi ấy coi là "xướng ca vô loài".
Thiền sư Giác Hải từ nhỏ làm
nghề đánh cá, thường lấy thuyền làm nhà, lênh đênh trên sông biển (4).
Thiền sư Không Lộ nhà mấy đời làm nghề đánh cá sau ngài "cùng đạo hữu là
Giác Hải đi vân du cõi ngoài" (5). Quốc sư Minh Không (trong truyền thuyết
dân gian và một số thư tịch cổ có sự trình bày lẫn lộn giữa Minh Không và
Không Lộ, còn gọi là "Khổng Lồ", "Khổng Minh Không", cũng làm nghề đánh
cá, chữa bịnh cuồng (hóa hổ) cho vua Lý Thần Tông. Cả ba (5) vị đại thiền
sư này đều tu đường (đi chơi), đi chợ (dấu kín tông tích, ăn rau mặc
lá, vui chơi thoải mái mà kỳ lạ
thay đều đắc đạo ("đốn ngộ" thành Phật) trước khi về tu hẳn trong những
ngôi "chùa làng" (đất của Vua, chùa của Làng, lời dân gian Việt Nam).
Trên đây là mấy "lời quê góp
nhặt dông dài" của kẻ còn lấm lem nơi gió bụi Đất Trời, không có được cơ
duyên về (quy) "ăn mày cửa Phật".
Kính xin Hòa thượng, Thượng
tọa, Đại đức, cùng thể Tăng Ni, Phật tử tỉnh Hà Tây cùng cả nước "mở lượng
hải hà" rộng dung và xá tội cho.
Nam mô A Di Đà
Phật
Nam mô Quán Thế
Âm Bồ Tát.
Ghi chú:
(1) Vua Lý Nhân Tông (1072-1128) có bài kệ truy tán
Thiền sư Vạn Hạnh (viên tịch năm 1018) câu mở đầu là : "Vạn Hạnh dung tam
tế", có người dịch là "Vạn Hạnh dung ba cõi" (hay dung ba giáo).
(2) Tức xây tháp chín tầng để cúng dường đức Phật,
nhà chùa.
(3) (4) (5) Xem Thuyền Uyển Tập Anh trang 105, 18,
197, 213.
(Bài nói chuyện tại trường Cơ Bản Phật Học Hà Tây,
ngày 24-5-1992).