Lời
Người Dịch
(^)
Thời đại của chúng
ta hiện nay là một thời đại khoa học, các tôn giáo đều
được phê phán dưới lăng kính khoa học. Những nhà trí
thức, các khoa học gia, các nhà bác học, các học giả, các
nhà văn, các nhà chính trị gia lừng danh trên thế giới không
ngớt ca tụng Phật giáo và bày tỏ lòng ngưỡng mộ Ðức
Phật. đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ
đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp
hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn
bản, bất biến của Công bằng và Chân lý. Giáo lý của Ngài
từ trên 2500 năm đem ánh sáng giác ngộ cho nhân loại,
giải thoát xiềng xích gông cùm nô lệ, mang an lạc và
hạnh phúc cho con người.
Nhận thấy quyển sách
này của Ðại lão Hòa thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda,
một bậc chân tu thạc học, là một công trình sưu tầm công
phu và giá trị nên chúng tôi không quản tài hèn đức mọn
cố gắng dịch ra Việt ngữ với hy vọng đóng góp một
phần nhỏ vào kho tàng văn hóa Phật giáo Việt nam tại
hải ngoại.
Chúng tôi xin chân thành
cảm tạ chư Tôn đức đã khích lệ, góp nhiều ý kiến
bổ ích. Ðặc biệt các Ðạo hữu, Bác sĩ Ðặng Hữu Phước,
Viên Minh Phạm Ðình Khoát, Minh Hỷ Phan Duyệt, Quảng Lâm Châu
Ngọc Tòng, Quảng Hải Ngô Thanh Hùng, Diệu Chơn Lương Thị
Mai, Diệu Hỷ Nguyễn Cung Thị Hỷ và Lý Kim Vân đã góp
phần công đức trong việc ấn hành dịch phẩm này.
Chúng tôi xin hồi hướng
công đức hoằng pháp này lên ngôi Tam Bảo và nguyện cầu
hồng ân chư Phật thùy từ gia hộ quý vị cùng bửu quyến
thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.
Sau cùng chúng tôi kính
mong chư Tôn, thiền đức, pháp hữu ân nhân, các bậc thức
giả cao minh vui lòng bổ chính cho những sai lầm thiếu sót,
để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn trong kỳ tái bản.
Hoa kỳ, Mùa Vu Lan
2538-1994
THÍCH TÂM QUANG.
---o0o---
Tiểu
sử Ðại lão Hòa thượng Tiến sĩ K. Sri Dhammananda
(^)
Ðại Lão Hòa thượng
Tiến sĩ K.Sri Dhammananda, năm nay tuy đã 75 tuổi, Trưởng lão
Tăng già Mã Lai Á, vẫn tích cực hoạt động; Ngài phục
vụ Phật giáo Mã Lai trên 42 năm trong các chức vụ như
một vị lãnh đạo tinh thần, một học giả, một cố vấn
và một thiện hữu.
Ngài sanh ngày 18 tháng
3 năm 1919 trong gia đình Ông K.A. Garmage, làng Kirinde, Matara phía
nam Sri Lanka (Tích lan). Ngài được đặt tên là Martin và là
người con lớn nhất trong gia đình gồm có ba anh em và ba
chị em.
Ngài khởi đầu việc
học hành theo nền giáo dục thế tục tại một trường
của chánh phủ tại Kirinde khi Ngài được 7 tuổi. Tuy còn
nhỏ mà Ngài đã phát triển mối quan tâm đặc biệt đến
Phật giáo. Ngài đã gia nhập các hoạt động và tổ chức
được thiết lập trên các nguyên tắt và đạo đức Phật
giáo. Ngài cũng có một người cậu làm Sư trưởng tại ngôi
chùa địa phương. Người cậu này đã cùng với bà mẹ
tận tâm của Ngài hướng dẫn tinh thần Ngài trong lúc
thiếu thời. Do đó ý nghĩ trở thành một tu sĩ đã nhen nhúm
trong đầu óc Ngài.
Khi Ngài 12 tuổi, Ngài
thọ giới Sa di với Hòa thượng K. Dhammananda Maha Thera tại
ngôi chùa Kirinde và được pháp danh là "Dhammananda"
có nghĩa là "NGƯỜI CHỨNG NGHIỆM HẠNH PHÚC QUA PHẬT
PHÁP" (Pháp Lạc). Sau đó Ngài tiếp tục chương trình
tu học 10 năm trước khi thọ đại giới tỳ kheo vào năm
1940.
Sau 10 năm tu học chuyên
về giáo lý của đức Phật tại các tu viện Sri Dhammarana
Privena, Ratmalama, Vidyăardhana, tại Colombo, Vidyalankara Pirivena
tại Peliyagoda, Kelaniya, một đại học Phật giáo rất có uy
tín, năm 26 tuổi Ngài tốt nghiệp văn bằng ngôn ngữ học,
Triết lý và Kinh điển Pàli.
Năn 1949, Ngài tốt
nghiệp cao học triết lý Ấn Ðộ sau bốn năm học tập
tại đại học Ấn Ba La Nại (Bénares). Trong số các giáo sư
nổi tiếng tại đại học này có cố Tiến sĩ S
Radgakrisnan, vị Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Ấn là
giáo sư của Ngài.
Ðược huấn luyện và
giáo dục, thấu triệt giáo lý Phật đà, Ngài trở về Tích
Lan đem thực dụng kiến thức uyên thâm của Ngài. Tại
Kotawila, Ngài thiết lập viện "Sudharma" huấn luyện
giáo dục, an ninh xã hội, và nhu cầu tôn giáo cho quần chúng.
Ngài cũng phát hành tam cá nguyệt tạp chí bằng tiếng Tích
lan (Singhalese).
Năm 1952, trong số 400 các
Tu sĩ trẻ tại Viyalanka Pirivina, Ngài được tuyển chọn đi
phục vụ Mã Lai Á vì nơi đây cần một nhà hoằng pháp Giáo
lý Phật đà. Vào thập niện 50 và 60. Phật giáo bị coi
rẻ bởi giới trí thức người Hoa có học vấn tại Mã Lai
vì lẽ những phương pháp thực hành do những người được
gọi là Phật tử chỉ đang áp dụng trên cơ bản đều
dựa theo các nghi thức cổ truyền và các hình thức lễ lượt
khác. Hình như không một ai chú ý đến ý nghĩa đích thực
của việc thực hành mà một người phật tử cần phải áp
dụng. Bởi vậy, với quảng đại quần chúng có giáo dục
tại nơi đây coi Phật giáo không có gì hơn chỉ là một
bao bì chứa đựng dị đoan.
Nhờ sự cố gắng
hoằng pháp của Ngài, nhiều người Hoa trong nước nhận
thức được giáo lý chân thật của đức Phật. Hội
Truyền bá Giáo lý Phật đà được thiết lập và Ngài không
ngừng ra sức viết các bài vở, xuất bản các loại sách
đủ cở về mọi phương diện của Phật giáo đem lợi ích
cho người phật tử Mã Lai.
Hội Truyền giáo, là
bộ phận hướng đạo được thiết lập, chịu trách
nhiệm việc phổ biến tất cả bài vở của Ngài. Kết
quả, Ngài nhận được rất nhiều thư của người Hoa trẻ
có học thức, rành Anh ngữ trên khắp cả Mã Lai tán dương
Ngài vì đây là lần đầu tiên trong đời họ đã hiểu
được nghiêm chỉnh giáo lý Phật đà. Rồi Ngài khai sáng
tờ báo "Tiếng nói của Phật giáo" cho đến bây
giờ vẫn đều đặn xuất bản một năm hai kỳ bởi Hội
Truyền Giáo. Ngài là tác giả của những cuốn sách rất
phổ thông như "Người Phật tử tin gì?", "Làm
thế nào để sống khỏi sợ hãi và lo lắng",
"Hạnh phúc lứa đôi", "Nhân loại tiến về đâu"
và "Thiền định con đường duy nhất". Tuy không là
một nhà thuyết giáo hùng biện nhưng Ngài đã thành công
cảm hóa tư tưởng của thanh niên và giáo dục họ với
một lối trình bày Giáo pháp của đức Phật một cách rõ
ràng, đơn giản và khoa học.
Vào năm 1970 và năm
1975, trong chuyến du hành thuyết giảng về đạo Phật và
triết lý Phật giáo trên thế giới, Ngài thuyết giảng
tại đại học Lancaster, đại học Hull, đại học
Manchester, đại học Oxford tại Anh Quốc, đại học Dharma
Realm và Ðông phương tại Hoa kỳ.
Do những thành quả
của các hoạt động hoằng pháp và giáo dục của Ngài, Ngài
được suy tôn "Tăng thống" Giáo hội Siam Maha
Nikaya, Malưatta, tại Mã lai năm 1965 và được tặng cấp
bằng Tiến sĩ Danh dự của các đại học Dhama Realm, đại
học Ðông Phương (Hoa kỳ), đại học Nalanda, đại học
Ba-lã-nại (Beneres - Ấn Ðộ ) và đại học Pàli của Tích
lan. Ngài cũng được ân thưởng tước vị Hoàng gia Johan
Setia Mahkota bởi Hoàng đế Mã lai.
Kết quả tốt đẹp
của Hòa thượng trong việc phục vụ cho cộng đồng Phật
giáo không những chỉ trong phạm vi của Mã lai mà cũng cho
tất cả thế giới bởi những ai cảm nhận được sự
nhiệt thành không chút vị kỷ vủa Ngài để hoằng dương
Phật pháp.
Lý do đó khiến người
ta đã ủng hộ và ngưỡng mộ Ngài không riêng từ một
cộng đồng mà từ nhiều cộng đồng. Ngài có, như đức
Phật mô tả, Bảy đức cao quý của một đại nhân trong
kinh Sakha Sutta (A.N. 4:31): Ngài là người đáng yêu, được kính
trọng, học thức, là một cố vấn, một người nhẫn nại
chịu nghe, thâm trầm trong đàm luận và không bao giờ cổ xúy
một cách vô căn cứ.
Benny Liow Woon Khin
Kuala Lumpur, Malaysia,
18 tháng 3 năm 1994.
---o0o---
VỀ VIỆC
XUẤT BẢN CUỐN SÁCH
(^)
Ðạo Phật là một tôn
giáo vĩ đại đã giác ngộ nhân loại từ 25 thế kỷ qua,
giải thoát con người khỏi tất cả những xiềng xích nô
lệ, các thực hành theo mê tín dị đoan. Ðạo Phật là
một tôn giáo khoa học, ngày nay tất cả các nhà văn hóa trí
thức trên thế giới dù có hay không liên hệ gì đến
Phật giáo đều tôn kính đức Phật Cồ Ðàm trong khi
những nhà khai sáng các tôn giáo khác chỉ được các tín
đồ của mình tôn kính mà thôi. Không phải chỉ những người
thuộc một số tôn giáo mà ngay cả những người được
gọi là tự do tư tưởng cũng rất kính trọng Ðấng Giác
Ngộ Tối Cao Ðộc Nhất trên hoàn vũ này. Nhìn từ quan điểm
lịch sử, chưa từng có một vị Ðạo sư nào mà phát
triển tinh thần tự do tôn giáo đến cực điểm cũng như lòng
tin thích đáng đối với nhân loại như đức Phật. Trước
khi đức Phật giáng thế, tôn giáo chỉ do một số giáo phái
trong xã hội độc quyền nắm giữ. Ðức Phật là một vị
Thầy trong lịch sử không phân biệt, mở cửa tôn giáo cho
từng cá nhân cũng như cho tất cả mọi người trong xã
hội.
Ðức Phật khuyên các
đệ tử Ngài trau dồi học hỏi và mở mang sức mạnh
tiềm ẩn nơi con người và tự chính nơi mình biểu dương
được cách thức sử dụng hữu hiệu nhất sức mạnh ý chí
và trí thông minh của mình không cần phải làm tôi mọi cho
một chúng sanh nào đó để tìm hạnh phúc trường cửu mà
Ngài tuyên bố cho thế giới biết qua kinh nghiệm bản thân
Ngài chứ không phải qua các lý thuyết hay qua các tín ngưỡng
hay phong tục tập quán. Giáo lý đức Phật là để cho con
người ứng dụng thực tiển mà không cần một nhãn hiệu
nào.
Trong việc sưu tập
cuốn sách này, tôi đã chọn lọc một số các lời phát
biểu của các nhân vật nổi tiếng, triết gia, học giả,
sử gia, văn hào, khoa học gia, các hàng giáo phẩm, các nhà
cách mạng xã hội và các chính khách danh tiếng trong thế
giới tiên tiến, tất cả đều là các nhà trí thức đứng
hàng đầu. Trong số này đa số không phải là người Phật
giáo mà là những nhà tự do tư tưởng. Theo họ, Phật giáo
là một tôn giáo thực tế nhất, hợp lý nhất, triển khai
rất khoa học, phục vụ hữu hiệu nhân loại nếu những người
theo đạo Phật thực hành nghiêm chỉnh tôn giáo này.
Lý do trên đã cho tôi
niềm vui lớn lao trong việc trình bày các đoạn văn trích
dẫn từ các sách và báo chí. Dù có một số người cho
rằng Ðạo Phật đứng đầu trong lãnh vực tôn giáo nhưng
việc sưu tập các đoạn văn này, không có ý muốn làm
giảm niềm tin nơi các tôn giáo khác và việc xuất bản
cuốn sách này cũng không phải để trình bày quan điểm
Phật giáo đứng hàng đầu mà trái lại chỉ để phản
ảnh tầm nhìn vô tư của một số các nhà trí thức.
Tất cả những lời chú
thích về các lời phát biểu trong sách này đều do nơi người
sưu tập.
K. Sri Dhammananda
25.11.1992 - P.L. 2536.
---o0o---
Mục
Lục
|
Phần
I |
Phần II
---o0o---
Chân
thành cám ơn Đạo Hữu Bình Anson
đã gửi tặng phiên bản điện tử tập sách này .
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 1-4-2002