...... ... |
. |
- TÂM
LÝ HỌC
TRONG GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY
I.
DẪN NHẬP:
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật
lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư
tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người
thì Phật giáo không còn đất đứng. Đạo Phật chú trọng vào
yếu tố tâm thức của con người bởi lẻ: một là con người
là chủ nhân của chính nó, chứ nó không phải là sản phẩm
sáng tạo của thượng đế. Hai là tâm thức có tác dụng chi
phối rất lớn đối với đời sống con người và xã hội,vì
tâm thức là động lực của ngôn ngữ và hành vi .
Triết học phương Tây thường đưa ra những
lập luận như tâm có trước hay vật có trước, tinh thần là
trên hết hay vật chất là quyết định ..v..v.. Đó là những
vấn đề của sự tranh luận, mà Đạo Phật không màng đến.
Chú trọng khảo sát tâm lý, Đạo Phật nhận thức rằng tâm
thức con người đóng vai trò chính trong việc kiến tạo đời
sống hạnh phúc hay khổ đau, như tronh kinh Pháp Cú Đức
Phật dạy :" Trong các pháp,tâm dẫn đầu, tâm làm
chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm để nói năng
hay hành động thì quả báo đau khổ sẽ đi theo như bánh xe lăn
theo con vật kéo xe. Ngược lại nếu đem tâm thanh tịnh để
nói năng hay hành động thì quả tốt đẹp đi theo như bóng
theo hình". Nói tâm dẫn đầu, tâm làm chủ không có
nghĩa là chủ trương tâm có trước vật hay là tinh thần
quyết định vật chất, như trong triết học phương Tây quan
niệm, Đức Phật muốn nói đến động cơ của hiện tượng
khổ đau hay hạnh phúc, tức là cái điều kiện chính của
hiện tượng khổ vui. Đây là một kinh nghiệm thực tiển
chứ không phải là một hệ thống triết lý .
Sự khác nhau của Tâm lý học Phật giáo và Tâm
lý học phương Tây ở chổ phương Tây phân tích các hiện tượng
tâm lý chứ không đi sâu vào bản chất của tâm lý, nhận
thức giá trị của tâm lý , củng cố phát triển chúng ,
mục đích là thỏa mãn các nhu cầu tâm lý như là một phương
thức thể hiện sự hạnh phúc .
Tâm lý học Phật giáo cũng phân tích các
hiện tượng tâm lý nhưng đánh giá phân loại rồi định hướng
chúng và vấn đề quan trọng là chuyển hóa tâm lý trở thành
trong sạch để đạt đến mục đích hạnh phúc chân thật.
Hạnh phúc chân thật ấy phải là từ bỏ các tâm lý ô
nhiễm, vốn thuộc về bản năng và gây đau khổ cho con người
vàtha nhân . Như vậy Tâm lý học Phật giáo không thuần tuý
là vấn đề tâm lý mà còn là vấn đề của luân lý học,đạo
đức học và giải thoát học.
II. TÍNH
THỰC TIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO
Trong kinh Pháp Cú Phât dạy :
" Đừng làm các điều ác
Hãy làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy"
Lời Phật có 3 điều : một là không làm các
điều ác, tức là không thực hiện các hành động về thân
thể hay ngôn ngữ làm tổn hại đến mình và tha nhân, nghĩa
là không làm tổn thương về thân thể, về tâm lý hay tình
cảm…của con người . Mới nhìn qua ta thấy đây là vấn đề
của luân lý nhưng nếu nhìn sâu ta sẽ thấy đây là vấn đề
cơ bản của giải thoát .Làm điều ác xuất phát từ tâm lý
ô nhiểm như tham,sân si…khi đình chỉ được điều ác thì
có nghiã là sự ô nhiểm của tâm đã được kiểm soát.Chế
ngự được tâm ác là bước đầu của lộ trình thoát khổ
.Hai làlàm các điều lành ,xuất phát từ tâm lý tích cực và
thanh tịnh,làm lành là vấn đề đạo đức, đạo đức cũng
là cơ sở của giải thoát hay của hạnh phúc.Điều ác không
được đoạn trừ,điều lành không được phát triển thì
vấn đề thanh lọc tâm thức không thể thành tựu.
Tính thực tiển của Tâm lý học Phật giáo
rất rõ qua phát biểu của điều thứ 3 là giữ tâm ý trong
sạch, nguyên lý thứ 3 là hệ quả của hai nguyên lý : đình
chỉ các điều ác và làm các điều lành. Không có hành vi
ổn định con người không có tâm lý ổn định, ngược lại
tâm lý không ổn định thì hành vi tiếp tục không ổn định.
Như vậy Đức Phật không cho rằng tâm lý là tất cả mà tâm
lý là nhân tố chính trong quá trình xây dựng hạnh phúc. Sự
ức chế về mặt tâm lý là động lực sản sinh khổ đau, ngược
lại sự giải phóng áp lực của tâm là nguồn sống vui tươi
giải thoát. Giữ tâm ý trong sạch là kiểm soát các động
lực ô nhiễm đừng để chúng tự do tàn phá và gây rối
loạn và cũng là thiết lập một cơ chế cho hành vi và ngôn
ngữ được chuẩn mực. Một khi tâm lý được thanh tịnh hoàn
toàn thì mọi áp lực của tâm lý sẽ hoàn toàn bị triệt tiêu,
đó là sự giải thoát .Như vậy Tâm lý học Phật giáo không
thuần lý,không tách biệt với những kinh nghiệm sống của
con người.
III. TÂM LÝ HỌC TRONG GIÁO LÝ CƠ BẢN
1 . Tứ
Diệu Đế
Tâm lý học Phật giáo là Tâm lý học ứng
dụng, nhất là Tâm lý học được trình bày trong Kinh Tạng và
qua các giáo lý căn bản. Giáo lý Tứ diệu đế được coi là
giáo lý nền tảng của hệ thống tư tưởng Phật học, phân
tích về tâm lý đã nói lên tính hai mặt của tâm lý : Một
là tính ô nhiễm. Hai là tính thanh tịnh. Sau này các luận thư
về tâm lý đều nêu bật hai tính nhiễm và tịnh của tâm lý
một cách chi tiết. Tâm lý ô nhiễm là những hoạt động tâm
lý đưa đến đau khổ phiền muộn, ngược lại tâm lý thanh
tịnh thì đưa dến đời sống hạnh phúc an vui.
Khổ là một thực trạng của đời sống nhưng
nổi khổ ấy không phải do tự nhiên mà có, không phải do
ngẫu nhiên, không phải do thượng đế áp đặt như là một
sự trừng phạt con người, mà khổ là kết quả của tâm lý
ô nhiễm, nghĩa là sự khổ do con người tạo nên và phải gánh
lấy .Năng lực tâm lý ô nhiễm được biểu hiện qua tâm lý
tham lam, sân hận và si mê, sự khổ hiện hữu do 3 loại tâm
lý ô nhiễm này hiện hữu ; lập luận kế tiếp là sự khổ
sẽ không có mặt nếu 3 loại tâm lý này không tồn tại. Vì
vậy phân tích tâm lý qua giáo lý Tứ diệu đế để đưa đến
một thái độ : đoạn trừ các tâm lý bất thiện và phát
triển những tâm lý thiện. Ở đây cái không nên làm và cái
nên làm được nêu rõ : mười điều ác là không nên làm và
Bát chánh đạo là điều nên làm. Vậy Tâm lý học Phật giáo
có sắc thái đạo đức học và giãi thoát học.
Tính hai mặt của tâm lý, đối ứng với hai
mặt khổ đau và hạnh phúc của đời người, vì vậy Tứ
diệu đế chú trọng đến đoạn trừ tâm ô nhiễm, tịnh hoá
tâm thức, không đi sâu vào tâm lý mang tính trừu tượng như
các luận thư về sau. Các trạng thái tâm lý thiền định
được khảo sát là những kinh nghiệm thực tiển chứ không
phải là các trạng thái tâm lý nằm ngoài khả năng của con
người .
2 . Thập
Nhị Nhân Duyên
Tâm lý được phân tích qua giáo lý 12 nhân
duyên, nói đến quá trình tâm lý ô nhiễm, tức là khảo sát
một cách sâu hơn bản chất của tâm ô nhiễm và đưa đến
nhận định rằng cơ cấu của tâm thức con người là ô
nhiễm, nhận thức của con người phần lớn là sai lầm . Tâm
lý được vận hành bởi động lực là vô minh, một trạng
thái mê muội bản năng, nó chi phối mọi hoạt động của tâm
lý ô nhiễm, nó như là nền tảng của nhận thức, hay nói cách
khác nhận thức là vô minh .
Khổ là một cảm giác, cảm giác ấy bao gồm
nhiều điều kiện, vô minh là một điều kiện trong những điều
kiện. Vô minh là điều kiện nguồn của dòng sông tâm lý. Nói
Vô minh sinh ra Hành là chưa đủ và dễ hiểu lầm rằng chu trình
12 nhân duyên chỉ diễn ra theo chiều thời gian, chiều dọc.
Về mặt tâm lý, cảm thọ khổ không phải là kết quả của
một quá trình tâm lý đơn giản mà là một sự tổng hợp đồng
thời của các điều kiện khác nhau. Do vậy, Tâm lý trong 12
nhân duyên phải được phân tích theo chiều ngang, là chiều
của không gian. Vô minh là điều kiện của Hành. Hành là
lực vận động của tâm lý và vật lý ( thân hành, khẩu hành,
ý hành ) nếu không có động lực thì không có sự tồn tại,
động lực tồn tại của chúng sinh được coi là Vô minh. Hành
là biểu hiện của Vô minh, Vô minh nuôi dưỡng Hành và Hành
làm cho Vô minh tăng sức mạnh. Tâm lý tồn tại nhờ có động
lực mà động lực ấy là động lực ô nhiễm, cho nên dòng
sông tâm lý là ô nhiễm.
Thức là khả năng phản ánh thế giới hiện
tượng, là khả năng phân biệt, là cái biết, và cái biết
ấy cũng là biểu hiện của Vô minh. Cho nên các luận thư
về sau đồng nhất Thức với Vô minh, và khi đề cập đến
cái biết không bị Vô minh tác động thì dùng từ Trí ( Trí
tuệ ) như nói :" Chuyển thức thành Trí" ( Chuyển 8
thức thành 4 trí ). Bản chất của thức là Vô minh và lực
vận động của Hành làm cho Thức trở thành mê lầm. Vì
vậy dưới sự biểu hiện của thức trở thành 2, đó là
thế giới của chủ thể và đối tượng, diễn tiến tâm lý
bao giờ cũng phải có chủ thể nhận thức và đối tượng
nhận thức, do vậy thế giới hiện tượng là thế giới
của tâm lý chứ không là thế giới khách quan. Chủ thể ở
đây là Danh ( tinh thần ). Đối tượng ở đây là Sắc (
vật chất ), tinh thần và vật chất là biểu hiện của
thức.Luận thư Duy Thức về sau dựa trên cơ sở này mà xây
dựng học thuyết Duy Thức của mình. Cơ sở của chủ thể và
đối tượng sinh khởi là 6 giác quan ( lục nhập ) tiếp xúc
với đối tượng của chúng (xúc ), sự tiếp xúc giữa giác
quan và đối tượng mới nhìn như là một sự tiếp xúc
thuần vật lý, nhưng thực ra đây còn là một kích thích
của tâm lý nữa.
Thọ là cảm giác, đây là một yếu tố tâm
lý quan trọng vì cảm giác là sự biểu hiện rõ nét của
tiến trình tâm lý mà ai cũng tự cảm nhận được. Thọ được
trình bày trong Kinh Tạng có 3 loại : cảm thọ khó chịu,
cảm thọ dễ chịu, và cảm thọ trung tính.Tuy nhiên Thọ
trong tiến trình 12 nhân duyên nghiêng về khía cạnh dễ chịu
( lạc thọ, hỷ thọ ) có lẽ muốn nói đến bản năng hưởng
thụ hay bản năng hướng đến hạnh phúc của đời sống con
người. Hạnh phúc là nhu cầu tối hậu của con người,
hạnh phúc mà con người tìm kiếm là sự cảm xúc dễ chịu
của tâm lý thọ. Như đã nói, sự vận động của dòng sông
tâm thức xuất phát từ động lực Vô minh nên mọi diễn
biến đều nhuộm màu đen tối, ước vọng hạnh phúc hay cái
được coi là hạnh phúc thực chất là mặt khác của khổ đau.
Tiếp theo sau cảm giác vui sướng là sự hài lòng, sự thỏa
mãn gọi là ái. Đối với tiến trình tâm lý thì ái là tâm
lý biểu hiện mạnh mẽ và kết thúc chu trình của tâm thức,
nó trở thành một năng lực tổng hợp để tạo thành một tác
dụng trong tâm thức hay trong hành động của con người và
tất nhiên Vô minh được biểu hiện trong ái là mạnh nhất .Trong
12 nhân duyên A? được coi là then chốt cho vòng tròn sinh tử
.
Thủ là sự vướng mắc, sự nắm bắt, sự
giữ gìn bảo thủ hay sự ghi nhận một kinh nghiệm, tâm lý này
chỉ là một hệ quả của A? mà thôi . Phân tích các yếu
tố tâm lý trong 12 nhân duyên có vẻ như là một diễn biến
tâm lý theo thứ tự và có thời gian nhưng trên thực tế thì
chúng diễn ra rất nhanh gần như đồng thời, có thể nói
trong một ý niệm là có đủ 12 nhân duyên . Tâm lý chấp
thủ là sự biểu hiện của A? hay là của sự thỏa mãn, đây
là yếu tố tâm lý mang tính ích kỷ mà về sau luận thư Duy
Thức phân tích sâu hơn căn nguyên của chúng và thức Mạt na
là cội nguồn của sự chấp thủ này. Sự chấp thủ, về
mặt nổi là hệ quả của A? nhưng nó cũng là biểu hiện
của động lực Vô minh, nó hình thành một bản năng sinh
tồn và bản năng hưởng thụ, bảo vệ cái hạnh phúc từ
chối cái khổ đau.
Tóm lại, xuất phát từ sự không thấy, không
biết rõ ( Vô minh ) về chính mình, về tha nhân và về thế
giới mà trong đó mình sống .Trên cơ sở không thấy rõ, và
thái độ tự vệ con người nhận thức thế giới chung quanh
như là đối tượng tách rời với chính mình. Do tự vệ con
người xô đẩy các đối tượng bất lợi, không vừa ý càng
xa càng tốt và nắm bắt các đối tượng có lợi và vừa ý
càng chặt càng hay. Do vậy con người liên tục xô đẩy và
nắm bắt suốt cuộc đời của mình một cách khốn khổ,
thế giới như vậy như là một biển khổ mênh mông.Khi thương
một người thì bạn luôn cố gắng tạo mọi điều kiện để
tiếp cận người ấy, dụ dỗ và chinh phục người ấy. Vì
bạn cho rằng đây là đối tượng đem đến cho mình niềm
vui và hạnh phúc, bạn không muốn ai chia xẻ tình thương
của người ấy, người ấy là của bạn, bạn phải giữ gìn
bảo vệ cái của bạn. Như vậy có hai vấn đề xảy ra:
Một là bạn phải đấu tranh, xô đẩy những ai và những gì
có khả năng cướp mất đối tượng của bạn,do vậy bạn có
thể chống cả thế giới. Hai là bạn phải đấu tranh với tính
khí của người ấy vốn luôn luôn muốn thoát ra ngoài sự trói
buộc của bạn. Ba là bạn phải đấu tranh với chính bản thân
của mình, nghiã là về tâm lý bạn vẫn bị những cảm giác
mất mác, chán chường làm cho niềm vui của bạn bị pha
loảng , chúng ta sẽ phải tiếp tục chịu đựng sự rối
loạn bất an còn niềm hạnh phúc thì vẫn chập chờn
phía trước, như vậy tâm lý luôn bị khủng hoảng, luôn bị
áp lực. Sự giãi phóng áp lực tâm lý là điều kiện của
hạnh phúc hoàn toàn, là mục tiêu của mọi đường lối tu
tập.
3 . Ngũ Uẩn
Phân tích tâm lý theo giáo lý 5 uẩn, chúng ta
nhận thấy con người được phân tích thành năm lĩnh vực,
hay nói cách khác con người là hợp thể của 5 yếu tố :
yếu tố vật lý và yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý có 4 khía
cạnh : cảm giác, tri giác, ý chí và nhận thức. Có nhiều cách
phân tích về 4 yếu tố tâm lý này, tuỳ theo cái nhìn của các
trường phái tư tưởng Phật giáo, có nơi phân tích tâm lý
theo chiều dọc thời gian như cảm giác đến trước rồi tri
giác, rồi các xử lý của ý chí, rồi đến sự ghi nhận và
giữ gìn trong tâm thức chiều sâu. Có nơi phân tích theo
chiều không gian cảm giác phần cạn, tri giác sâu hơn ý chí
và thức đi vào vi tế sâu sắc hơn nó ẩn kín bên trong .
Trước hết chúng ta thấy rằng tâm lý và
vật lý là mối quan hệ bất khả phân, điều này xuyên
suốt lịch sử Tâm lý học Phật giáo bất cứ thời kỳ và
trường phái nào, sắc pháp bao giờ cũng hiện hữu bên cạnh
tâm pháp. Sắc uẩn bao gồm mọi yếu tố vật lý thân thể và
môi trường sống. Diễn biến tâm lý được phân tích là
những nhóm tâm lý cùng tính chất : nhóm cảm giác bao gồm
những cảm xúc bởi thế giới bên ngoài và thế giới bên
trong, nếu nhìn riêng lẽ thì cảm giác thuần tuý không đưa
đến một tác dụng tích cực nào, chỉ đơn giản là một
phản ứng có điều kiện, nhưng nếu nhìn cảm giác trong
mối quan hệ chung thì trong cảm giác có đầy đủ 4 yếu tố
vật lý, tri giác, ý chí, và nhận thức. Nếu như vậy thì
cảm giác có một tác dụng tích cực đối với dòng sông tâm
thức con người, thậm chí nó đóng vai trò chủ yếu trong đời
sống con người, vì con người sống với mục đích hướng
đến cảm giác hạnh phúc.
Nhóm Tri giác bao gồm những nhận biết các đối
tượng bên ngoài hay bên trong chính là những kinh nghiệm,
nếu không có kinh nghiệm con người sẽ không nhận ra được
cái gì cả. Nhận biết là sự đối chiếu những tướng
trạng đã có với cái đang có, nếu đặt Tri giác trong mối
quan hệ chung thì có lúc Tri giác có mặt trước cảm giác, và
có lúc thì sau cảm giác. Ví dụ, như khi thấy ấm nước
bốc hơi biết là nước sôi một cảm giác hài lòng vì sẽ có
tách trà nóng, đó gọi là Tri giác đến trước ; còn nếu như
ta sờ tay ấm nước cảm giác nóng và động của ấm nước
làm ta khó chịu và ta biết nước sắp sôi, đây là trường
hợp cảm giác có trước. Nếu chỉ là tri giác thuần tuý thì
chúng không đưa đến một tác dụng tích cực nào, nếu chúng
liên hệ với các yếu tố tâm lý khác thì mới đủ khả năng
tạo nên một tác dụng ( tạo nghiệp ).
Trong Tâm lý học phổ thông cảm giác và tri
giác được gọi là nhận thức cảm tính và cho rằng Tri giác
là nhận thức cao hơn cảm giác. Giáo lý 5 uẩn cho rằng trong
mối quan hệ của chúng, cảm giác và tri giác dựa vào nhau
tuỳ theo điều kiện cụ thể mà chúng có tác dụng mạnh hay
yếu .
Yếu tố tâm lý thứ 3 là Hành, tức là hoạt
động của tư duy, bao gồm các hoạt động tâm lý mạnh mẽ,
xác định,có tính chủ ý,tính quyết định như các tâm lý
ham muốn, giận dữ, thương yêu, ghét bỏ... những tâm lý này
có năng lực để tạo ra hậu quả, tức là tạo nghiệp. Hành
là loại tâm lý có tác dụng thúc đẩy tạo nên hành vi và
ngôn ngữ, do vậy trong kinh Phật dạy Hành có tâm hành, khẩu
hành, và thân hành. Nếu nói một cách dễ hiểu thì hành là
những tâm lý tính toán, quyết định có tính cách ý chí, nghĩa
là vẫn ở phạm vi mặt nổi của tâm lý. Tuy nhiên nếu nói
một cách tế nhị thì Hành là động lực sâu kín, là sự
vận động của hệ thống tâm thức theo xu hướng và tính
chất đã được tích luỹ. Do sự vận động của tâm Hành sâu
kín mà ta có những biểu hiện nằm ngoài kiểm soát của ý
thức, chúng thuộc bản năng và tự phát. Tuỳ thuộc vào tính
chất của Hành mà con người có những biểu hiện khác nhau ;
mỗi người là mỗi thế giới, chúng ta rất khó phán đoán
động cơ của hành vi con người, ví dụ như một người có
một nghĩa cử cao đẹp như cứu giúp một người khốn khổ
động cơ mà anh ta làm điều tốt ấy đôi khi chỉ là do xúc
động bởi một ánh mắt của đối tượng. Tại sao có sự xúc
động ấy ? Đó là tác dụng sâu kín của Hành .
Yếu tố tâm lý thứ 4 là thức. Thúc là khả
năng phản ánh mọi đối tượng bên ngoài hay bên trong, chức
năng của thức là nhận ra sự có mặt của đối tượn, là
nền tảng chung cho mọi hoạt động tâm lý. Những tâm lý
thuộc về cảm giác, tri giác, ý chí đều nương vào nền
tảng là thức. Nói cách khác Thúc là bản thể tâm lý còn
cảm giác , tri giác, ý chí ... là hiện tượng tâm lý . Sau này
các luận thư tâm lý học Phật giáo gọi thức là Tâm vương
và các hiện tượng tâm lý là tâm sở . Thức phải có mặt
thì các tâm lý khác mới có cở hoạt động, mối quan hệ
giữa thức và những hiện tượng tâm lý khác là bất khả
phân ly. Chức năng của thức tương tự như một tấm kiếng
phản ánh tất cả những đối tượng đi ngang qua nó, tuy
vậy không nên hiểu thức là một thực thể cứng đơ như
tấm kiếng, mà thức thì rất sinh động vì mối tương tác
giữa các diễn biến tâm lý .
Phần tâm lý được phân tích thành 4 phần là
một cách chia để dễ khảo sát, rất gượng ép và dễ
hiểu lầm rằng mỗi phần có một ranh giới riêng. Thực ra
khi một đối tượng được nhận thức thì mọi tâm lý đều
sinh khởi, tuỳ theo sự kích thích của đối tượng mạnh hay
yếu và tuỳ theo sự nhạy cảm của các quan năng mà nhận
thức là nhận thức thuần tuý hay là nhận thức có tác
dụng thúc đẩy hành vi .
Phân tích tâm lý của con người dựa trên
nền tảng, một năng lực Thức phổ quát, là một phát hiện
độc đáo trong lịch sử tâm lý học, đó là cơ sở để các
luận thư tâm lý học Phật giáo về sau phát triển và giải
quyết các vấn đề nhu yếu của tâm thức.
Tóm lại phân tích tâm lý qua giáo lý 5 uẩn
cho thấy 2 mặt của tâm lý : bản thể và hiện tượng.
Thấy rõ các mối quan hệ bất khả phân của các hiện tượng
tâm lý. Mặt khác sự bất khả phân giữa tâm lý và vật lý,
nội dung hoạt động tâm lý không có một chủ thể độc
lập, cố định, giá trị riêng tư nào. Do vậy con người là
một tổng hợp vủa các hiện tượng tâm lý , vật lý. Không
phải tồn tại như một đối tượng của tư duy, khái niệm
mà là của thực tại vô thường , khổ, vô ngã.
IV. KẾT LUẬN
Tâm lý học Phật giáo qua giáo lý Nguyên thuỷ
là tâm lý học ứng dụng vào thực tiển của đời sống chứ
không phải là những lý luận khô khan,siêu hình, mục đích
là :
- Cung cấp phương pháp nhận thức về con người
chính mình.
- Tìm cách thay đổi tình trạng đau khổ do rối
loạn tâm lý .
- Giúp con người định hướng tư duy và
hành động để đem đến sự chân
thiện cho đời sống .
- Giúp con người đi sâu vào đời sống nội tâm
để giãi phóng những ức chế tâm lý, những kết tụ của
các năng lượng khổ đau và vô minh .
Chân thành cảm ơn ĐĐ Viên
Giác đã gởi tặng bài viết này
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
---o0o---
| Thư mục Tác Giả |
Cập
nhật : 01-02-2002
|
|