Nhân Vật Phật GiáoThế Giới
Pháp Sư Tịnh Không,
Người Truyền Bá Giáo Lý Tịnh Ðộ
qua con đường giáo dục
Thích
Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2003
---o0o---
|
Lời giới thiệu
của Thượng Tọa Thích Bảo Lạc
Giáo pháp Phật dạy nhiều vô
số như đại dương cho đủ mọi trình độ, căn cơ của người nghe. Mặc dù nhiều,
nhưng Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát mà thôi.
Những pháp môn ưa chuộng nhất hiện nay là Thiền Tông, Mật Tông.........
được nhiều người Tây Phương áp dụng, nhưng Tịnh Tông đã được phát
triển sâu rộng tại Á châu hơn 1000 năm rồi. Mỗi hành giả chọn một pháp tu,
cũng như mỗi người chỉ chọn một nghề để tay nghề được điêu luyện tinh vi;
như người tu chọn một pháp tu cho việc tu chuyên nhất thuần thục. Chúng ta
đang trong thời kỳ mạt pháp và dễ bị đời sống vật chất lôi cuốn mạnh mẽ.
Ngoài ra, con người phải đối phó với quá nhiều vấn đề của thời đại như
thiên tai, chiến tranh, khủng bố; những chứng bịnh ung thư, bịnh dịch
v.v... đe dọa ở khắp mọi nơi và ở ngay trong lòng mỗi chúng ta. Vì thế,
pháp tu giản dị dễ thực hành là pháp môn Tịnh Ðộ, hợp trình độ, căn
cơ của mọi người.
Pháp
Sư Tịnh Không, người Truyền Bá Giáo Lý Tịnh Ðộ
qua giáo dục được Ðại Ðức Nguyên Tạng
đúc kết, biên soạn, giới thiệu là muốn
nhắm tới đối tượng độc giả hiện đang thực hành pháp môn này một cách tinh
chuyên.
Nhằm mục đích truyền bá Phật pháp, tác giả nhờ tôi có đôi lời giới thiệu
và vận động Phật tử ấn tống. Dĩ nhiên, tôi hoan hỷ để tác phẩm được hoàn
thành, trao đến quý độc giả bốn phương nhân mùa Vu Lan, như món quà tặng
những người con hiếu thảo.
Pháp Bảo tự, Sydney 10/05/2003
T.T Thích Bảo lạc
---o0o---
Preface
For all
people of different levels and motivation, the Buddha’s teachings are
immeasurable as the ocean, although the Dharma has only one taste, the
liberation of the tasty, to help the sentient-beings to attain the
enlightenment.
In modern society
today Zen, Exotic schools are prefered by Western people while Pure-Land
Buddhism has always been immensely popular in Asia for the past thousand
years or more. A practitioner chooses only one method of regular practice,
so that Pure-Land may be intergrated into every one’s daily work and life.
In the same way
professionals specialise in a particular area suited to their skills and
abilities.
We are at the end of
the third Dharma Age – the last period of the Buddha’s teachings, when we
are so busy dealing and coping with disasters and problems, wars, disease,
etc... everywhere, and in one’s own heart as well. Therefore, Pure-land
Buddhism is a simple method which for many today is reasonably easy to
practise.
In summary this is
an introduction to Pure-Land practices by Dharma Master Ching-Kung that
Reverend Thich Nguyen Tang wishes to be aimed at readers who are
assiduously practising this Path.
In order to assist in
the propagation of the Dharma, the author has requested me to pen a few
words of introduction and call for donations for its publication.
Naturally I have been pleased to collaborate on the project to assure that
it became available to readers on all Souls’ Day as a gift to those
showing their respects on that day.
Phap Bao Temple -
Sydney
Dated 10 May 2003
Ven. Thich Bao Lac
----o0o---
Lời
đầu sách
Sau
khi Ðức Phật Thích Ca nhập diệt vào hơn 2500 năm trước, một hình
thức Ðạo Phật khác đã phát triển rất mạnh ở Châu Á, một vùng không
gian rộng lớn bao gồm các quốc gia Trung quốc, Triều Tiên, Nhật Bản
và Việtnam, đó là Phật giáo Ðại Thừa, hay còn gọi là Phật giáo Bắc
Truyền, một truyền thống đã ảnh hưởng rất sâu rộng đối với Phật giáo
Việt Nam.
Phật Giáo Ðại Thừa có ba
tông phái chính là Thiền, Tịnh và Mật. Thiền phát triển và ảnh hưởng
rộng ở Trung Hoa và Nhật Bản, Mật Tông đặc biệt phát triển ở Tây
Tạng, còn pháp môn Tịnh Ðộ thì hầu như phát triển khắp các quốc gia
Trung Hoa, Ðài Loan, Triều Tiên , Nhật Bản và Việt Nam. Trong nhiều
thập niên qua pháp môn này lại được truyền bá và thực hành rộng
khắp ở Tây Phương, một trong những người có công truyền bá là Pháp
sư Tịnh Không, một danh tăng Phật giáo Ðài Loan, một người đã gây
niềm cảm hứng và thích thú cho hàng vạn người tu theo Pháp môn niệm
Phật.
Do ngưỡng mộ đức hạnh và
công đức ấn tống Kinh điển của Pháp sư Tịnh Không, chúng tôi biên
soạn sách này để tỏ lòng tri ân đối với Pháp sư Tịnh Không, người đã
có công chấn hưng pháp môn niệm Phật trong thời hiện đại.
Tập sách gồm có năm
chương, kể về cuộc đời và công cuộc hoằng dương Chánh pháp của Pháp
sư ở Ðài Loan, Singapore và ở nhiều quốc gia khác.
Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn quý đạo hữu Kim Hồng, Gia Khánh, Nhị Tường, Tấn Nhứt, Thiện
Kiến, Diệu Hà, Hải Hạnh,
Nguyên Nhật An Trà My, Chris Dunk, Steve Lowe đặc biệt là Sư Cô
Như Nguyệt (du học ở Ðài Loan) đã giúp đở nhiều việc khác nhau để
hoàn tất bản thảo vi tính. Chúng tôi cũng có lời tán thán công đức
của Ðạo hữu Tâm Kiến Chánh đã bỏ nhiều thời giờ để đọc sách này vào
băng Cassette và CD Rom để giúp cho các vị lớn tuổi hoặc những vị
không có thời giờ để đọc sách, có thể nghe được tài liệu này một
cách dễ dàng. Cuối cùng chúng tôi xin cảm ơn quý Phật tử xa gần đã
đóng góp tịnh tài để ấn hành miễn phí tập sách này.
Hy vọng tập sách nhỏ này
sẽ giúp cho người đọc và người nghe tăng trưởng thêm niềm tín tâm về
pháp môn niệm Phật, bỏ ác làm lành, phát tâm Bồ Ðề và tinh tấn tu
tập, để mau chóng đạt được giác ngộ và giải thoát.
Nguyện cầu pháp môn Tịnh
Ðộ được lan truyền rộng khắp và mang lại lợi ích cho mọi chúng sinh
trên thế gian này.
Nam Mô A Di Ðà Phật
Viết tại Tu Viện Quảng Ðức
Mùa Vu Lan Báo Hiếu Phật lịch 2547, Quý Mùi (2003)
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Cẩn chí
Foreword
After Shakyamuni Buddha
entered Mahanirvana more than 2,500 years ago, a number of forms of
Buddhism developed in Asia. Asia of course is a broad area encompassing a
number of countries including China, Tibet, Korea, Vietnam, and Japan.
One of these forms is the Mahayana tradition (also known as the "Great
Vehicle"), a tradition has deeply influenced Vietnamese Buddhism from the
1st century AD.
Among the different schools that
arose within Mahayana Buddhism itself, three gained widest appeal these
being the: Chan (Zen) School that was developed in China and spread
to Japan, Esoteric (Tantric) school which developed in Tibet,
Pure Land Buddhism that developed in China spreading to Korea, Japan
and Vietnam.
Recently over the past several
decades, the Pure Land Dharma school has been transferred and practiced
widely in the West. One of Buddhist Masters who has been responsible for
this, is Venerable Master Chin Kung, who has created interest in
this form of Mahayana Buddhism for many thousands of people who practice
Pure land Buddhism.
Due to my deepest respect for
Venerable Master Chin Kung’s deep Buddhist morality and supreme efforts in
making available free distribution of Buddhist sutras, I have composed and
translated this book as my thanks to him and in recognition of his
achievement in rehabilitated Pure Land Buddhism today.
This Book has five chapters
includes brief biography of Venerable Chin Kung and his teachings career
in Taiwan, Singapore and other countries.
I wish to convey my thanks to Kim
Hong, Gia Khanh, Nhi Tuong, Tan Nhut, Thien Kien, Dieu Ha, Hai Hanh,
Nguyen Nhat An Tra My,
Chris Dunk, Steve Lowe and
especially Buddhist nun Nhu Nguyet (from Taiwan) who’s efforts have
greatly assisted me towards the final electronic draft of this
publication. I also am indebted to brother Tam Kien Chanh who read and
recorded this book onto cassette and CD Rom to provide the text to sight
disabled or aged people or for those with no time to read enabling them to
listen to the text. Finally, I would like to
thank all disciples who made donations enabling me to publish this book
and provide it to all as a free distribution.
May this booklet will help for
readers and listeners who develop their faith in practice the recitation
the Buddha ‘s name, make their Bodhi-Mind (Bodhicitta - Aspiration for
Enlightenment) and make efforts in practice Buddhism in order to
attain liberation and become free from suffering.
May the Pure Land Buddhism has
widely propagated throughout this world and bring the benefit to all
Sentient Beings.
Nam Mo Amitabha
Ullambana Day,
Buddhist Era: 2547 ( 2003)
Quang Duc Buddhis t Monastery.
Ven. Thich Nguyen Tang
|
Chương 1
Đôi nét về
Pháp Sư Tịnh Không
Pháp Sư Tịnh Không (Master Chin Kung) thế danh là Từ Nghiệp
Hồng (Yae Hong Hsu), sinh năm 1927 tại huyện Lô Giang (Lujiang County),
tỉnh An Huy (Anhui province), Trung Hoa. Ngài đã theo học tại trường Trung
Học Ðệ Tam Cấp Quốc Gia Quế Châu (Guizhow) và Trường Trung Học Ðệ Nhất cấp
Thành Phố Nam Kinh. Năm 1949, Ngài đến Ðài Loan và làm việc ở Viện Thạch
Kiến (Shijian). Trong mười ba năm sau đó, Pháp Sư Tịnh Không đã dùng thời
gian rảnh rỗi để nghiên cứu kinh điển, lịch sử và triết học Phật Giáo dưới
sự hướng dẫn của giáo sư Ðông Mỹ Phương (Dong Mei Fang), Lạt Ma Tây Tạng,
Trương Gia Ðại Sư (Zhang Jia) và pháp sư nổi tiếng Lý Bỉnh Nam (Bing Nan
Lee), đệ tử chân truyền của Ðại sư Ấn Quang (Yin-Guang). Pháp Sư Tịnh
Không là người thông thạo nhiều Kinh điển Ðại Thừa và các bộ luận của
nhiều tông phái Phật giáo (PG) cũng như triết lý của Ðạo Khổng, Ðạo Lão,
Ðạo Gia Tô, Ðạo Hồi và các Tôn giáo khác. Pháp sư Tịnh Không được xem là
người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả
cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hành và truyền bá pháp môn Tịnh
Ðộ, là một pháp môn mà Ngài đã đạt được những thành tựu lớn nhất.

Pháp sư nổi tiếng Lý Bỉnh Nam,
một trong những người Thầy
của Pháp Sư Tịnh Không |
Pháp Sư Tịnh Không xuất gia năm 1959 (32 tuổi) tại Chùa Lâm Tế (Linji), thuộc tỉnh Ngọc Án Sơn (Yuanshan), Ðài Bắc và
được Hòa Thượng Bổn sư ban cho pháp danh
là Tịnh
Giác, pháp tự là
Tịnh Không. Sau khi thọ Cụ Túc Giới, Ngài bắt đầu công việc hoằng pháp
và truyền bá giáo lý tại Ðài Loan và ở nước ngoài. Trong hơn bốn mươi năm,
Ngài đã liên tục thuyết giảng năm bộ Kinh Tịnh Ðộ, và các bộ kinh Ðại Thừa
như:
1. Kinh Hoa Nghiêm
2. Kinh Pháp Hoa
3. Kinh Lăng Nghiêm
4. Kinh Viên Giác
5. Kinh Kim Cang
6. Kinh Địa Tạng
.v.v...
May mắn thay các cuộc thuyết giảng của Ngài đã được ghi lại trên hàng
ngàn các loại băng cassettes, video, DVD, VCD, v.v... để phổ biến cho
những ai không có duyên trực tiếp đến dự các pháp hội của Ngài. Cho đến
nay, Ngài vẫn hoan hỷ đi đó đây để thuyết pháp giảng kinh một cách
không
mệt mỏi.
Trong sự nghiệp giảng dạy lâu dài của Ngài, Pháp Sư Tịnh Không đã giữ
những chức vụ như :
-Giảng viên tại Viện Tam Tạng ở Chùa Thập
Phổ (Shipu) năm 1960
-Thành viên Ủy ban Truyền Bá Giáo Lý năm 1961
-Thành viên Ủy Ban Kế Hoạch của Hội Phật Học Ðài Loan năm 1965
-Giảng Viên trưởng khóa học Phật Pháp cho sinh viên đại học thuộc
Hội Phật Học Ðài Loan năm 1972
-Nghiên cứu gia Phật học tại Học Viện Trung Hoa
-Giáo sư và
biên tập viên Hội Phiên dịch Kinh Luận Phật Học
Ðài Loan năm 1973
-Giáo sư Ban Triết Học tại Ðại Học Văn Hóa
-Giáo Sư Khóa Học
Sống Ðạo cho Gia Tô Ðông Á thuộc Ðại Học Gia Tô Phụ Nhân (Fu Ren) năm 1975
-Hiệu Trưởng Trường Trung Ðẳng Phật Học Trung Hoa năm 1977
-Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Tu Tập Tịnh Ðộ Trung Hoa năm 1979.
Tất cả những học viện nói trên đều ở Ðài
Loan.
-Năm 2002, Pháp sư Tịnh Không đã được
thành phố Toowomba, thuộc tiểu bang Queensland, Úc châu, truy tặng danh
hiệu “Công Dân Danh Dự” về những đóng góp của Ngài cho chính sách
đa văn hóa của Úc.
-Cũng trong năm 2002, Pháp sư Tịnh Không đã được Ðại Học Griffith,
tiểu bang Queensland, Úc châu, đã trao bằng “Tiến Sĩ Danh Dự” để
đánh dấu những thành công và đóng góp của Ngài về văn hóa và giáo dục đạo
đức cho xã hội Úc trong nhiều năm qua.
Ngoài ra Ngài còn sáng lập
Hội Pháp Thí Hoa Tạng (Hwa Dzan), Thư Viện
Thính Thị Phật Giáo Hoa Tạng;
Hội Giáo Dục Phật Giáo PG; Trung Tâm Tịnh Ðộ Học Hoa Tạng và
các Trung Tâm Phật Học và Tịnh Ðộ Học khác trên khắp thế giới.
Pháp Sư Tịnh Không là người tiên phong
trong việc sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền hình vệ tinh, mạng lưới
thông tin toàn cầu (Internet,
http://www.amtb.org.tw hoặc
http://www.amitabha.com) và những phương tiện truyền thông hiện đại
khác trong việc truyền bá Chánh Pháp ở Ðài Loan và khắp thế giới. Ngài
cũng bảo trợ cho công tác ấn loát và phát hành miễn phí khắp thế giới
Ðại Tạng Kinh Phật Giáo (chữ Tàu), Tứ Thư Ngũ Kinh của Khổng Giáo,
cũng như các sách và băng từ về PG, luân lý, đạo đức và văn hóa Trung Hoa,
cùng với hơn một triệu bản in về hình ảnh của Chư Phật và Bồ Tát.
Năm 1977, Pháp Sư Tịnh Không bắt đầu thuyết
giảng ở hải ngoại. Ngài đã chú trọng đến những nguyên lý của Ðại Thừa PG
như giải trừ mê tín, tà kiến, giúp mọi người phân biệt rõ phải và trái,
đúng và sai và giải quyết hoàn hảo mọi vấn đề. Trong nỗ lực thực hiện cộng
việc này Ngài hỗ trợ thành lập hơn năm mươi Trung Tâm Tịnh Ðộ Học và Hội
Phật Ðà trên khắp thế giới, bao gồm những trung tâm và hiệp hội ở Ðài
Loan, Hồng Kông, Singapore, Mã Lai, Bắc Mỹ, Úc, Tây Ban Nha và Anh quốc.
Suốt mấy thập niên qua, Ngài đã cố vấn cho vô số tổ chức PG và xã hội.
Pháp Sư Tịnh Không đã quảng bá cho người
Trung Hoa trên khắp thế giới ý thức về việc thiết lập bàn thờ tổ tiên nhằm
giáo dục mọi người về lòng thành kính và danh dự, cũng như khuyến khích
thực hành đạo hiếu, thành kính và báo ân đối với tổ tiên; bảo tồn đạo đức,
phát huy những giá trị cổ truyền, giúp quốc gia phát triển và thịnh vượng.
Năm 1985, Pháp Sư Tịnh Không đã nhập cư Hoa
Kỳ, trong thời gian sống ở đó, do những thành quả xuất sắc về liên hệ sắc
tộc, công cuộc vận động hòa bình và đạo đức, vào năm 1995, Ngài đã được
thành phố Dallas lẫn tiểu bang Texas phong tặng danh hiệu là Công Dân Danh
Dự (Honorary Citizen).
Những năm gần đây, Ngài đã đi thuyết giảng ở nhiều trường đại học như Ðại
học Quốc Gia Singapore, Ðại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore, Ðại học
Minnesota, Ðại học Texas và Ðại học Hawaii ở Hoa Kỳ, Ðại học Melbourne,
Ðại học Bond, Ðại học Kỹ Thuật Curtin, Ðại học Monash ở Úc châu; Ðại học
Fu Ren Gia Tô Giáo, Ðại học Văn Hóa Trung Hoa, Ðại học Cheng Gong và Ðại
học Chong Shan ở Ðài Loan và nhiều học viện cao cấp khác. Ngài cũng nói
chuyện trên các đài truyền hình, truyền thanh ở nhiều quốc gia khác.
Từ tháng 5 năm 1995, Pháp Sư Tịnh Không dạy
các khóa huấn luyện giảng sư do các Hội Phật Học Singapore và Hội Phật Ðà
ở Singapore bảo trợ và Ngài cũng là Giám đốc Giáo Dục của những Hội này.
Trong thời gian này, Ngài đang lưu trú tại Singapore để thực hiện một loạt
bài giảng về Kinh Hoa Nghiêm (Flower Adornment Sutra), Kinh Vô
Lượng Thọ (Infinite Life Sutra) và Kinh Ðịa Tạng (Earth
Treasure Sutra). Hiện Ngài đang thành lập Trường Cao Ðẳng Giáo Dục Phật
Giáo, đây là trường đầu tiên thuộc loại hình này ở Singapore để đào tạo
những người kế thừa công việc bảo tồn Phật giáo.
Chương 2
Nguồn gốc của Hội Phật Ðà
Cảm thông với sự đau khổ của
chúng sanh, Phật Thích Ca đã xuất hiện ở thế gian này để truyền dạy cho
chúng sinh phương pháp giải khổ và thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Mục
đích của Ngài giúp cho chúng sinh hiểu được chân lý để đạt đến giác ngộ.
Trong thời mạt pháp, ác nghiệp của chúng ta quá nặng, tạo nhiều chướng
ngại cho việc tu tập. Do thiếu trí tuệ và duyên lành, chúng ta đã gặp khó
khăn trong việc tìm gặp một bậc minh sư, người có khả năng hướng dẫn mình
và giảng giải chính xác lời dạy của Phật. Vì biết như vậy nên Ðức Phật đã
truyền dạy một pháp môn đặc biệt cho loài người trong thời đại chúng ta,
đó là pháp môn Tịnh Ðộ.
Cố học giả Phật giáo nổi tiếng Mai Nam Xương (Guang Xi Mei) từng nói:
“Nếu có thể chấp nhận và đề cao giáo lý Tịnh Ðộ, không những chúng ta sẽ
giải trừ những đau khổ tương lai và lại còn có thể đạt được sự an lạc ngay
trong hiện tại. Ai không nhất tâm thọ trì giới pháp thì sẽ không bao giờ
thấu hiểu hay chứng nghiệm phúc lạc trong việc thực hành pháp môn kỳ diệu
này. Tương tự, người nào không thực hành giáo lý sẽ không bao giờ chứng
nghiệm sự thâm diệu của chân lý ấy. Nếu muốn truyền bá giáo lý của Ðức
Phật trong thời đại này, chắc chắn chúng ta cần phải ủng hộ và xiển dương
pháp môn Tịnh Ðộ”.
Về nguồn gốc, Hội Phật Ðà được Lão Cư Sĩ Hạ Liên Cư thành lập lần đầu
tiên sau Thế chiến thứ 2 (tức sau năm1945), Lão Cư Sĩ Hạ Liên Cư là một
giảng sư Phật học nổi tiếng, quảng bá việc học và tu tập đặc biệt về Tịnh
Ðộ Tông. Pháp Sư Tịnh Không là người tiếp tục duy trì và phát triển Hội
này đến ngày nay. Với hơn bốn mươi năm kinh nghiệm truyền bá PG, Pháp sư
Tịnh Không đã hiểu rõ rằng Tịnh Ðộ là pháp môn tốt nhất để giúp đỡ chúng
sinh giải thoát. Trong những năm gần đây, Ngài đã thuyết giảng không mệt
mỏi về giáo lý này khắp thế giới, phần lớn ở Á châu, Úc châu và Bắc Mỹ.

Lão Cư Sĩ Hạ Liên Cư (Lian Ju Xin)
|
Ngài đã thành lập Hội Giáo Dục Phật Ðà (The
Corporate Body Of The Buddha Educational Foundation, 11Fl., No. 55, Hang
Chow S. Rd., Sec. 1, Taipei, Taiwan, Tel: (02) 395-1198, Fax: (02)
391-3415)ø để ấn tống kinh sách miễn phí cho PG thế giới. Ước
nguyện thật sự của Ngài là hỗ trợ thiết lập các Hội Phật Ðà độc lập
trên khắp thế giới. Ngài kỳ vọng những tổ chức này sẽ cổ động một nền giáo
dục chân chính, giảng giải Luật Nhân Quả, phát Bồ đề tâm và khuyến khích
mọi người niệm hồng danh Ðức Phật A Di Ðà và nguyện cầu vãng sinh Tịnh Ðộ.
Tôn chỉ của Ngài là Phật tử đồng tu của các Hội Phật Ðà nên tu tập theo
năm bộ Kinh Tịnh Ðộ:
1.
Kinh Vô Lượng Thọ
(Infinite Life Sutra,),
2.
Kinh A Di Ðà
(The Amitabha Sutra, )
3.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật (The Sutra on
Observing Amitabha Buddha and His Pure Land,
),
4.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Bồ Tát (Kinh Hoa Nghiêm)
(Universal Worthy Bodhisattva's Conduct and Vows, ).
5.
Phẩm Ðại Thế Chí Bồ Tát
Niệm Phật Viên Thông (Kinh Lăng Nghiêm)
(the Foremost Attainment of Great Strength Bodhisattva through Buddha
Recitation ).
Và một bộ luận: là Luận Vãng Sanh
(,
Vasubandhu Bodhisattva's
Commentary on the Way to Reaching Pure Land)
của Bồ Tát Thiên Thân)
Pháp Sư Tịnh Không cũng nhấn mạnh sự quan trọng trong việc tu tập và
phát triển Chánh kiến và thực hành giới hạnh của mọi hành giả ngang qua
việc áp dụng Năm cửa công đức bao gồm Sáu
pháp hòa hợp, ba vô lậu học, Sáu ba la mật và Mười đại nguyện.
Cửa công đức thứ nhất
là hiếu kính đối với cha mẹ, Thầy tổ và các bậc sư trưởng, từ bi không sát
sinh và thực hành mười điều thiện lành; quy y Tam Bảo, trì giới và có oai
nghi, tế hạnh; phát tâm Bồ đề, tin sâu giáo lý Nhân quả, tụng đọc Kinh
điển Ðại Thừa và khuyến khích người khác tinh tấn tu tập để đạt được giải
thoát.
Cửa công đức thứ hai là Lục hòa (six harmonies) tức là sáu pháp hòa kính, bao gồm chia xẻ
cùng quan điểm và mục tiêu, giữ cùng những giới luật, cùng sống và tu hành
với nhau trong hòa hợp, không tranh chấp, cùng chứng nghiệm sự an lạc
trong thực hành và chia đều cho nhau phúc lợi có được.
Cửa công đức thứ ba
là thực hành và phát triển ba môn vô lậu học bao gồm trì giới, thiền định
và trí tuệ.
Cửa công đức thứ tư
là áp dụng sáu Ba La Mật bao gồm Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định và trí tuệ vào trong đời sống hằng ngày.
Cửa công đức thứ năm là Mười đại nguyện (Ten Great Vows): 1. Tôn trọng mọi người và xử sự
một cách cẩn trọng; 2. Khen ngợi đức hạnh của người; 3. Thực hành bố thí
một cách vô uý; 4. Biết hối hận những lỗi lầm của mình, vốn là những
chướng ngại cản trở chúng ta thấy được chân tâm của mình và phát nguyện
không tái phạm; 5. Hoan hỷ với đức hạnh của người, tuyệt đối không ganh
tyï; 6. Thỉnh cầu các bậc thiện tri thức truyền bá Chánh Pháp; 7. Thỉnh
cầu các bậc Minh sư ở bên cạnh mình để hướng dẫn mình tu tập; 8. Mãi mãi
giữ những lời dạy của Ðức Phật ở trong tâm thức mình; 9. Sống hòa hợp với
mọi hoàn cảnh và mọi người xung quanh; 10. Hồi hướng công đức có được từ
những việc trên cho chúng sanh, cầu mong chúng sanh đạt được giác ngộ vô
thượng.
Chúng ta nên nhất tâm niệm hồng danh Phật A Di Ðà, không nghi ngờ, không
pha trộn với các pháp khác hay những ý nghĩ khác và không gián đoạn, mong
siêu sinh về Tây Phương Tịnh Ðộ, rồi tái sinh ở thế gian để giúp đỡ người
khác.
Chúng ta thành tâm cầu mong cho mọi người sẽ nhận ra
rằng nguồn gốc của những nguyên nhân gây ra đau khổ là ở ngay trong tâm
nhiễm ô của chính mình. Chúng ta sẽ tinh tấn tu tập để giải trừ những
phiền não mê lầm và tà kiến theo lời dạy trong Kinh Vô Lượng Thọ
(Infinite Life Sutra):
“ Người đời phần đông phước mỏng, cùng tranh dành nhau những sự không
cần thiết, ở tại trong chỗ cực ác tột khổ mà nhọc nhằn làm ăn để tự cung
cấp. Không luận là người tôn, kẻ ti, người nghèo, kẻ giàu, trẻ già, nam nữ
đều lo nghĩ về tiền tài, vất vả sầu khổ, mãi nghĩ mãi lo, không lúc nào
yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có trâu ngựa, lục súc, nô tỳ, tiền
của, y thực trăm ngàn thứ, lại lo trăm ngàn thứ. Toan tính, cầu lợi, lo
nghĩ, buồn sợ, bỗng chốc bị trộm cướp, nước cuốn, lửa cháy, sung công, tài
sản tiêu tan, thân mang tai họa, lại sầu khổ phẩn uất. Nếu tài sản không
bị tiêu tan, nhưng cuối cùng vô thường kéo đến, thân chết mạng chung, tay
không ra đi, không mang được món gì. Do những việc như thế nên không thể
đắc đạo. Các vị phải suy nghĩ chín chắn, nên xa lìa những điều ác, chọn
những điều lành rồi siêng năng thực hành. Ái dục vinh hoa là những thứ
không thể bảo tồn mãi mãi, rồi sẽ ly tan, không có gì đáng để vui thích.
May mắn gặp Phật tại thế, phải cần kíp tu hành, người nào có chí nguyện
sanh về cõi nước An Lạc thì được trí tuệ sáng suốt, công đức thu thắng.
Không nên buông lung theo dục vọng mà quên mất lời dạy trong Kinh Pháp,
giới luật, để rồi phải rơi lại ở phía sau”.
Nếu đọc và làm theo lời dạy của Kinh này, công đức và trí tuệ của chúng ta
sẽ phát sinh, giải trừ được ác nghiệp, sống lâu, mạnh khỏe và hạnh phúc.
Thêm nữa, nếu Kinh này đã phân phát rộng rãi và được đón nhận thì mọi
người sẽ trở nên hiền lành và tử tế hơn. Kinh này là chìa khóa giải quyết
mọi vấn đề của chúng ta và thiết lập cho nền hòa bình thế giới.
Chúng ta thành lập các Hội Phật Ðà để các hành giả tu theo năm cửa công
đức và hợp với lời dạy của Pháp Sư Tịnh Không để tu theo pháp môn Tịnh Ðộ
và học Kinh Vô Lượng Thọ. Làm như vậy chúng ta có thể báo Phật ân đức, trả
ơn Quốc Gia, ơn Cha Mẹ, ơn Thầy Tổ và chúng sinh. Chúng ta sẽ có khả năng
giúp những người nào còn chịu đau khổ. Chúng ta đang có ở trước mặt một cơ
hội hiếm có và quý báu chỉ có thể gặp một lần trong vô số đại kiếp. Hỡi
các bạn đồng tu, chúng ta nên trưởng dưỡng đạo tâm, thanh tịnh, bình đẳng,
hiểu biết và từ bi để thông suốt, xả ly, đạt được giải thoát, hợp với hoàn
cảnh và quán tưởng Phật A Di Ðà, làm theo lời dạy của Ngài và nguyện cầu
vãng sinh Tây Phương Tịnh Ðộ.
Chương 3
Hướng Dẫn về chính trị của
các Hội Phật Ðà
Các Hội Phật Ðà khắp thế giới hoạt động độc lập với nhau. Họ
thực hiện theo những nguyên tắc chính yếu “chỉ tập trung vào việc
truyền bá giáo lý của Ðức Phật qua giáo dục, chứ không tham gia vào bất cứ
một hoạt động nào khác”. Dù hoạt động độc lập, thành viên của hội vẫn
tuân theo những điều hướng dẫn về sự không tham dự vào những sinh hoạt
chính trị:
1.
Không tham dự hay thảo luận về chính phủ hay chính trị, không gia
nhập bất cứ dưới bất cứ hình thức nào các đảng phái chính trị và hoạt động
có tính cách chính trị.
2.
Không thành lập các hiệp hội hay các cuộc họp bất hợp pháp, không
tổ chức những cuộc tập trung quần chúng hay biểu tình.
3.
Không chứa chấp bất cứ loại hình hoạt động nào có thể làm rối loạn
cho quốc gia.
4.
Hỗ trợ công cuộc hợp nhất một quốc gia cũng như những hoạt động tạo
sự liên hệ hòa hợp giữa các chủng tộc, tôn giáo, văn hóa và quốc gia.
5.
Tham dự những cuộc hội họp như “Hội Nghị Thế Giới Về Tôn Giáo và
Hòa Bình” và những hội nghị tương tự. Giới thiệu quan điểm của Pháp Sư
Tịnh Không về “Phật giáo là một nền giáo dục” với các nhà lãnh đạo
tôn giáo và học thuật. Không phát biểu đối kháng với bất kỳ một tổ chức
nào.
6.
Ủng hộ những phương tiện hòa bình trong việc giải quyết những vấn
đề bất đồng sắc tộc, tôn giáo và quốc gia qua truyền thông, thương
thuyết.v.v.. hay bằng bất cứ phương cách hòa bình và trung dung nào.
7.
Khuyến khích mọi người hợp tác trong việc theo đuổi nền giáo dục đa
văn hóa quốc tế.
8.
Ủng hộ và biểu lộ lối sống tôn trọng và bảo vệ mọi sinh vật, môi
trường và tài nguyên thiên nhiên, duy trì sự cân bằng sinh thái.
9.
Ủng hộ những tổ chức bảo tồn, tôn vinh và dẫn dắt cho những thế hệ
tương lai về truyền thống văn hóa. Thêm nữa, nên ủng hộ các sắc tộc, các
tôn giáo, các quốc gia, và các cá nhân tìm đến nền tảng chung và loại bỏ
mọi dị biệt để học hỏi lẫn nhau và giúp đỡ lẫn nhau.
10.
Củng cố và phát triển những mối quan hệ và tình hữu nghị giữa các
nhóm với nhau.
Chương 3
Hội Phật Ðà với Chế Ðộ Quản
Lý Ðộc Lập
Hiện nay có hơn năm mươi Hội Phật Ðà trên khắp thế giới, tất
cả đều hoạt động một cách độc lập với nhau. Pháp Sư Tịnh Không không ủng
hộ việc thành lập một ban điều hành tổng quát để ban này chỉ thị cho các
hội chi nhánh, hay để kiểm soát nhân sự và chính sách tài chánh của các
hội. Ngược lại, Ngài thật sự kỳ vọng rằng tất cả các Hội Phật Ðà sẽ giúp
đỡ và hợp tác với nhau, và luôn là pháp hữu của nhau. Ngài cũng mong ước
sâu xa rằng tất cả các bạn đồng tu sẽ chú tâm vào việc tu tập chứ không
chú trọng vào lý thuyết suông và tự làm gương tốt cho mọi người. Làm được
như vậy chính là truyền bá Phật Pháp và giới thiệu pháp môn Tịnh Ðộ cho
mọi người trên toàn thế giới. Sau đây là những hướng dẫn về chế độ quản
trị cho tất cả các Hội Phật Ðà:
1. Tất cả các Hội sẽ tổ chức những hoạt động phù hợp với luật pháp và
chính sách của địa phương và quốc gia.
2. Tất cả các Hội sẽ thành tâm tu tập theo lời dạy của Ðức Phật.
3. Tất cả các Hội đều độc lập, không phụ thuộc vào một tổ chức quốc tế
nào.
4. Tất cả các ban giám đốc và các ban điều hành của các Hội Phật Ðà
được bầu cử một cách dân chủ bởi các hội viên. Thêm nữa, công dân địa
phương sẽ giữ những chức vụ này. Mọi thể thức điều hành đều làm theo tập
quán địa phương.
5. Một cách tổng quát, Pháp Sư
Tịnh Không được mời làm vị cố vấn thường trực cho các Hội Phật Ðà.
Chương 5
Quan Ðiểm của Pháp Sư
Tịnh Không
“Thành thực, Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác ngộ, Từ bi, Sáng
suốt, Xả ly, Giải thoát, Hòa hợp với hoàn cảnh và Quán tưởng Phật A Di Ðà”.
Mười phẩm tính này là những quy tắc căn bản từ lời dạy của Pháp Sư Tịnh
Không. Không những Ngài không hề mệt mỏi hướng dẫn mọi người đạt được
những phẩm tính này, mà suốt cuộc đời Ngài đã làm gương cho họ. Từ lần
thuyết pháp đầu tiên của Ngài ở Ðài Loan, đến nay Ngài đã hoằng pháp liên
tục trong 40 năm. Với đại hạnh nhẫn nhục, Ngài đã giảng giải cho mọi người
rằng: “Phật giáo là nền giáo dục đạo đức và hoàn hảo nhất do Ðức Phật
truyền dạy cho chúng sinh trong ba cõi. Thứ hai, Phật Thích Ca là một nhà
giáo dục tự nguyện và có trách nhiệm. Thứ ba, Phật giáo không phải là một
tôn giáo hay triết lý, mà chính yếu là cho thế giới ngày nay”.
Ngài ủng hộ cho những ý tưởng PG là một nền giáo dục, hiếu
kính tổ tiên, cha mẹ, tôn kính thầy tổ và tôn trọng những giá trị cổ
truyền. Trong việc truyền bá giáo lý của Ðức Phật, Ngài đã du hành khắp
thế giới, chủ yếu là ở Trung Hoa, Ðông Nam Á, Úc Châu và Bắc Mỹ. Ngài đã
được nhiều người trên thế giới kính trọng và đã được các hội đoàn và cơ sở
giáo dục ca ngợi. Nguyên tắc và triết lý phong phú, thâm diệu của Pháp Sư
Tịnh Không được trình bày tóm tắt như sau:
Truyền bá giáo lý của
Ðức Phật qua giáo dục
Thiết lập Cơ Quan giáo dục
Phật Ðà:
Dưới sự hướng dẫn của Pháp Sư Tịnh Không, Hội Pháp Thí
Hoa Tạng được thành lập năm 1962. Mục đích của Hội này là in ấn và
phân phát miễn phí kinh điển cũng như các sách về luân lý và đạo đức.
Tháng giêng năm 1985, cơ quan giáo dục Phật Ðà chính thức thành lập ở Ðài
Bắc. Mục đích của cơ quan này là phát huy luân lý đạo đức và giúp mọi
người phát tâm từ bi với chúng sinh. Tổ chức thực hiện việc này bằng cách
phân phối miễn phí kinh sách, băng ghi âm, ghi hình cũng như bảo trợ những
cuộc thuyết giảng về PG và tài trợ học bổng.
Cơ quan đã ấn hành “Ðại Tạng Kinh”, các Kinh, Luật,
Luận của chư Phật tổ, Tứ Thư Ngũ Kinh của Khổng Tử, các sách phát huy luân
lý đạo đức, giá trị cổ truyền Trung Hoa. Những sách này đã được phân phát
khắp Á châu, Úc châu, Âu châu và Phi châu. Chỉ riêng năm 1998, đã có hơn
hai trăm nhóm trên khắp thế giới nhận được kinh sách và băng từ của cơ
quan. Hơn hai mươi tám ngàn thùng chứa khoảng một triệu bảy trăm ngàn Kinh
sách các loại đã được phân phối.
Phật Giáo là một nền Giáo
dục:
Dưới sự hướng dẫn của Pháp Sư Tịnh Không, mỗi Hội Phật Ðà
mới thành lập nên xem nhiệm vụ trước hết của mình là phân phối kinh sách,
băng từ và những phương tiện vật chất giúp đỡ mọi người hiểu rằng PG là
một nền giáo dục, một lối sống. Pháp Sư Tịnh Không luôn nói rằng PG đã bị
hiểu lầm là một tôn giáo, mà lại là một tôn giáo đa thần. Ngày nay nhiệm
vụ trước hết của mỗi Phật tử chúng ta là làm sáng tỏ và hiểu rõ sự liên hệ
giữa Ðức Phật và chúng ta. Chúng ta gọi Phật Thích Ca là một vị Thầy
nguyên thủy của mình; Ðức Phật và chúng ta có sự liên hệ như thầy trò.
Ðiều này khác với các tôn giáo có liên hệ như cha con hay có liên hệ như
chủ tớ. Phật giáo là một nền giáo dục có tính nghệ thuật cao. Mỗi bức
tranh hay hình tượng Phật, Bồ Tát, mỗi nghi lễ là một sự biểu trưng hoàn
hảo cho những giáo lý của Ðạo Phật. Tất cả những cái đó tượng trưng cho
những đặc thù thâm diệu của Phật Giáo. Khi bước vào một ngôi chùa, chúng
ta sẽ thấy tượng Bồ Tát Di Lặc tôn trí ở giữa Chánh điện. Với nụ cười sảng
khoái và cái bụng to, ngài biểu lộ ý tưởng cho rằng để học và thực hành
Phật Pháp trước hết chúng ta phải học cách phát tâm hoan hỷ và phóng
khoáng, có lòng bao dung, hiểu biết và không thiên vị đối với mọi người.
Bốn vị Hộ Pháp, bốn vị Ðại Bồ Tát và mười tám vị La Hán,
cũng như nước, hương, đèn, hoa, quả, tất cả đều tượng trưng cho những lời
Phật dạy. Còn việc lễ bái chư Phật, Bồ Tát, đốt nhang, quỳ lạy các Ngài để
cầu tài lộc hay thăng quan tiến chức là một loại sinh hoạt mê tín và là
một sự xúc phạm đến chư Phật và chư Bồ Tát. Mọi sự vật đều hiện hữu theo
luật nhân quả. Nếu không hiểu giáo lý nhân quả, không làm theo lời dạy của
Ðức Phật mà chỉ lễ bái một cách mù quáng thì chúng ta đã đi ngược lại với
mục đích của Phật Pháp.
Trong bốn mươi năm, Pháp Sư Tịnh Không đã liên tục truyền bá
chánh pháp và giải thích rằng Phật giáo là một nền giáo dục. Cư Sĩ
Hạ Liên Cư đã đặt tên cho các Hội là Trung Tâm Tịnh Ðộ Học, một tên khác
của các Hội Phật Ðà. Những ý tưởng này, vốn phát sinh sau thế chiến thứ
hai chỉ đựợc thực hiện khi Pháp Sư trình bày ý tưởng PG là một nền giáo
dục, đưa ý tưởng của Ngài Hạ Liên Cư vào cuộc sống hiện thực.
Học bổng dành cho
Trung Hoa, quê hương của Pháp Sư Tịnh Không:
Pháp Sư Tịnh Không đã làm rất nhiều việc cho giáo dục nói
chung. Năm 1993, Ngài đã thiết lập và tài trợ Học Bổng Hoa Tạng (Hwa Dza)
ở Ðại học Bắc Kinh, Ðại học Phục Ðán (Fudan), Ðại học Liêu Ninh
(Liaoling), Ðại học Phổ thông Nam Kinh và Ðệ nhất Cấp Trung Học Nam Kinh
(trường cũ của Ngài Tịnh Không). Năm 1998, Pháp Sư Tịnh Không cũng thiết
lập quỹ cấp Học Bổng Hiếu Kính Thành cho 30 trường học. Trong 5 năm, Ngài
đã cấp học bổng cho 88 trường học khắp Trung Hoa, bao gồm 30 đại học sư
phạm, 29 đại học, hai đại học y khoa, 24 trường sơ trung và ba trường tiểu
học. Mỗi năm Ngài biếu tặng trên 200 ngàn Mỹ kim để tài trợ cho học bổng.
Từ việc cấp học bổng này, chúng ta có thể thấy các Ðại Học
Sư phạm huấn luyện các giáo viên là những trường chính yếu được hưởng học
bổng Hoa Tạng và Hiếu Kính Thành. Pháp Sư hoàn toàn đồng ý với câu nói
trong Kinh Lễ rằng “giáo dục là điều kiện thiết yếu nhất để xây dựng
quốc gia và lãnh đạo nhân dân”. Ngài tin rằng giáo dục là nhân tố quan
trọng để quốc gia được cường thịnh. Phát triển ngành giáo dục là công việc
hàng đầu để tăng tiến nền văn minh, ổn định xã hội và cải thiện đời sống.
Người giáo viên có phẩm chất và đạo đức cao sẽ giữ vai trò quan trọng
trong việc đạt được những thành quả nói trên.
Bất hạnh thay, trong xã hội ngày nay, chúng ta đang để mất đi những giá
trị cổ truyền, chúng ta cần phải một lần nữa nhấn mạnh sự quan trọng của
giáo dục, trong việc dạy những giá trị cổ truyền để con cháu chúng ta tự
hào với nền văn hóa, di sản và tổ quốc của chúng. Thông qua giáo dục, mọi
người sẽ dần dần mở mang trí óc, trở nên khoan dung với người khác, kế
thừa, phát huy những phẩm chất ưu việt truyền thống và của những quốc gia
khác. Như vậy tương lai của nhân loại và tổ quốc sẽ xán lạn và đầy triển
vọng đều phát xuất từ nền tảng giáo dục. Giáo viên là chiếc cầu nối liền
quá khứ với hiện tại và từ Tây phương đến Ðông phương. Ðể thành tựu việc
này, chúng ta cần phải có sự hỗ trợ của chính phủ và các kỹ nghệ gia cũng
như xã hội.
Ðào Tạo người kế thừa Phật Giáo
Sự quan trọng của người kế thừa Phật
giáo:
Chủ tịch Hội Phật Giáo Trung Hoa, ông Triệu
Phác Sơ (Pu Chua Zhao) đã có lời kêu gọi đơn giản mà hùng hồn tại
Hội nghị Giáo Dục PG Trung Hoa ở Thượng Hải năm 1991 “Ðiều quan trọng
nhất cho tương lai PG Trung Hoa là, thứ nhất, chúng ta cần đào tạo những
người kế tục PG; thứ nhì, chúng ta cần đào tạo những người kế tục PG; thứ
ba, chúng ta cần đào tạo những người kế tục PG”. Bài diễn văn nhiệt
thành và thẳng thắn của ông đã làm cho thính giả cảm động sâu xa.
Sau buổi nói chuyện của ông, Phật tử Trung Hoa chỉ nghĩ tới và tìm cách
thực hiện ý kiến của ông. Kết quả nhiệt tình đó là việc thiết lập nhiều
Phật học viện mới, những cơ sở mọc lên như măng tre sau cơn mưa. Những
trường này đào tạo những người kế thừa PG để chăm sóc tự viện và làm giáo
viên, giảng viên, được cử tới những tự viện khắp Trung Hoa. Những người kế
thừa có tài năng này sẽ đảm bảo một tương lai tươi sáng cho PG Trung Hoa
và do lời kêu gọi của ông Triệu Phác Sơ.
Từ lâu Pháp
Sư Tịnh Không đã mong ước sâu xa rằng một ngày nào đó Ngài sẽ có thể trở
về Trung Hoa để hỗ trợ việc giáo dục cho đồng bào của mình. Không may là
do nhiều lý do khác nhau, điều mong ước đó đã không thể thực hiện được,
ngày nay hoài bảo ấy đã trở thành hiện thực, nên Pháp sư đang tập trung để
hổ trợ cho Phật Giáo Trung Hoa.
Mở Khóa đào tạo giảng viên
Pháp Sư Tịnh Không được mời sang Hồng Kông thuyết giảng vào năm 1977 và
Singapore năm 1987. Kết quả là việc thuyết pháp mỗi năm ở hai nơi này tạo
điều kiện cho Ngài phát triển nhiều liên hệ vững chắc. Tháng năm, 1995,
Hội PG Singapore và Hội Phật Ðà đã thành tâm thỉnh cầu Ngài đến thuyết
pháp và mở lớp đào tạo những thuyết trình viên. Khi được biết rằng tất cả
các đại đức ở khóa thứ nhất đều là đồng hương của mình, Ngài đã vui mừng,
vì điều mong ước đào tạo thuyết trình viên Trung Hoa của Ngài đã trở thành
hiện thực.
Sau khi khóa thứ nhất kết thúc và với sự khuyến khích và giúp đỡ của
Pháp Sư Tịnh Không, chín Tỳ kheo đều vui vẻ trở về Trung Hoa. Tin tức về
sự thành công của khóa đào tạo này gây nhiều quan tâm ở Trung Hoa. Kết quả
là khi khóa thứ hai được thông báo, số người ghi tên tham dự nhiều hơn con
số dự định. Pháp Sư Tịnh Không và ông Lý Mộc
Nguyên (Bock-Guan Lee), Chủ tịch Hội Phật Ðà ở Singapore đồng ý
tăng thêm số chỗ và thông báo rằng sẽ dành ưu tiên cho những người ghi tên
trước. Như vậy vào năm 1996, khóa thứ hai tăng lên 30 Tăng sinh đến từ các
tỉnh và thành phố khác nhau khắp Trung Hoa. Tiếp đó là khóa thứ ba mở vào
tháng chín năm 1997 và khóa thứ tư mở tháng ba năm 1998. Tổng cộng các
khóa đào tạo cho hơn 70 đại đức và cư sĩ từ Trung Hoa, Hoa Kỳ, Thái Lan,
Phillipine và Mã Lai. Họ trở về tự viện của mình hoặc được mời đi thuyết
giảng ở những nơi khác. Sự thành công trong công việc đào tạo người thuyết
giảng mới hữu ích cho công cuộc truyền bá Phật Pháp, và chắc chắn hỗ trợ
việc đưa tinh thần đổi mới vào PG Trung Hoa.
Mở Khóa Dạy Kinh Hoa Nghiêm:
Năm 1998, Ông Lý Mộc Nguyên cung thỉnh Pháp Sư Tịnh Không giảng Kinh Hoa
Nghiêm cho Hội PG Singapore. Khi Pháp Sư Tịnh Không nhận lời mời, các hành
giả khắp nơi trên thế giới đều hân hoan. Hội PG đã ủy nhiệm cho Khoa Kiến
Trúc Ðại học Tong-Ji tại Thượng Hải vẽ
hai tòa tháp bằng đồng, đúc ở Trung Hoa rồi chuyển tới Hội ở Singapore,
nơi tôn trí hai bảo tháp này. Hai tòa tháp này được đúc bằng đồng, được
xem là tháp đồng cao nhất thế giới, được làm để kỷ niệm cho những bài
thuyết giảng về Kinh Hoa Nghiêm, một bộ Kinh được coi là có tư tưởng bao
quát nhất trong tất cả những kinh điển PG, một giáo lý viên mãn. Chương
trình thuyết pháp này sẽ chiếm một thời gian từ một năm tới mười năm. Việc
giảng sâu rộng này đã chưa được hoàn thành trong hai trăm năm qua.
Hiện tại có mười hai đại đức trong khóa nghiên cứu Hoa Nghiêm. Ða số họ
đã tham dự những khóa đào tạo thuyết trình viên trước đây. Bây giờ họ nghe
thuyết giảng, thảo luận và ghi chú về cuốn kinh, soạn bài và thuyết pháp,
viết bài cho tạp chí Giáo dục PG, học tiếng Anh và học vi tính.
Thiết Lập Trường Giáo Dục Phật Giáo:
Cuối năm 1998, Pháp Sư Tịnh Không và ông Lý Mộc Nguyên chính thức lập kế
hoạch thành lập Trường Giáo Dục PG, là trường đầu tiên thuộc loại này ở
Singapore. Trong thời gian này, tất cả những văn bản công trình đã được
hoàn thành và được trình cho Bộ Giáo Dục để được chấp thuận. Nhiệm vụ của
trường là “học làm giáo viên tốt và làm gương cho mọi người”. Nơi đó sẽ có
ba lớp: lớp thứ nhất là các lớp dự bị, ba năm kế tiếp là các lớp cao cấp
và ba năm cuối là các lớp hậu tốt nghiệp. Nguyên tắc, nội dung và phương
pháp giảng dạy của chương trình sẽ rất khác với trường Phật học thông
thường. Sinh viên sẽ học một cuốn Kinh, từng phần một. Sau khi học xong
một bài với sự chấp thuận của giáo sư, sinh viên sẽ học tiếp bài kinh kế
đó.
Phương pháp này tập trung vào một cuốn kinh, tạo điều kiện cho sinh viên
học và nghiên cứu sâu cuốn kinh chính của họ. Sinh viên có thể dự thính
các lớp dạy những kinh khác nhưng khi họ đã chọn kinh chính thức thì không
được thay đổi. Không giống như những lớp khác các giáo sư sẽ giảng giải
tất cả; với chương trình này, sinh viên tự nghiên cứu tài liệu học, soạn
bài, thuyết trình, nghe các bạn học nhận xét và sửa chữa bài soạn của
mình.
Lúc đầu bài thuyết trình chỉ dành riêng cho các bạn học. Một khi bài
soạn đã được sửa chữa theo lời bình của các bạn cùng lớp, sinh viên sẽ
thuyết trình chính thức với thính giả công chúng. Khi học xong mỗi học
phần, giáo sư sẽ cho điểm kết quả nghiên cứu của sinh viên để quyết định
họ có thể tiếp tục với học phần kế tiếp hay không.
Pháp Sư Tịnh Không hy vọng rằng phương pháp dạy theo truyền thống Trung
Hoa này sẽ đào tạo một thế hệ mới những giảng viên Phật học với trình độ
cao, thông thạo giáo lý, thông hiểu ý nghĩa của giáo lý, và là khuôn mẫu
cho các trường Phật học khác. Cách tốt nhất để thành tựu mục tiêu ngày hôm
nay là học các ngôn ngữ và các nền văn hóa khác và có khả năng ứng dụng kỹ
thuật hiện đại để mang nền giáo dục PG tới mọi người trên khắp thế giới.
Phát huy sự hiểu biết nhau qua lòng chân thành
Ða tín ngưỡng, đa
văn hóa :
“Thế giới có nhiều dân tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau”. Pháp
Sư Tịnh Không đã đồng tình về sự quan trọng của việc liên hiệp những đoàn
thể khác nhau trong nhiều năm. Ngài giải thích “chỉ bằng cách mở rộng tâm
trí, với mỗi ý nghĩ dành cho người khác và cho chúng sinh khắp vũ trụ, và
luôn tâm niệm rằng chúng ta là những nhà giáo dục xã hội tự nguyện có
trách nhiệm, chỉ bằng cách đó quan kiến của chúng ta mới thực sự chân
thành và đúng đắn.
Với chỉ một chút ý nghĩ vị kỷ hay phân biệt, chúng ta sẽ xa cách với
giáo lý của Ðức Phật rồi, ý nguyện về đa văn hóa, đa chủng tộc và đa tôn
giáo của chúng ta sẽ không thành sự thật. Thêm nữa, một người thực sự giác
ngộ hiểu rằng tất cả là một, toàn vũ trụ là quê hương của mình, vũ trụ và
mình là một thực thể trọn vẹn”. Hiểu được như vậy, những người giác ngộ đã
phát tâm từ bi vô điều kiện. Ðó là cốt tủy giáo lý của Ðức Phật. Ðó là
những gì Pháp Sư Tịnh Không trong mong ở những người học trò của Ngài.
Chân thành là khởi điểm
của sự giao hảo:
Với sự phát triển xã hội, những tiến bộ về kỹ thuật mới đây, và sự cải
thiện liên tục về mức sống, chắc chắn chúng ta giao hảo và cộng tác với
những dân tộc, những đoàn thể, những tôn giáo và những quốc gia khác. Ðối
đầu và võ lực không phải là cách giải quyết những vấn đề của chúng ta. Vậy
chúng ta có thể tương tác một cách tốt nhất với người khác như thế nào?
Pháp Sư Tịnh Không đã nhận xét vấn đề này trong nhiều năm, một vấn đề có
vẻ rất phức tạp và đòi hỏi nhiều suy tư. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, Pháp
Sư Tịnh Không đã đưa ra lời giải đáp rất đơn giản và thẳng thắn: “sự chân
thành” (True sincerity). Chúng ta có thể dùng sự chân thành và tâm bình
đẳng để tương tác một cách thành công với mọi người “Hãy làm cho người
khác những gì họ làm cho mình”. Như vậy mọi vấn đề sẽ có thể được giải
quyết một cách dễ dàng. Cách thức này nghe có vẻ rất đơn giản và dễ làm,
nhưng khi thử ứng dụng chúng ta sẽ thấy là không dễ như mình đã nghĩ. Giải
pháp của Pháp Sư Tịnh Không là “giáo dục”. Khi sử dụng giáo dục chúng ta
sẽ có thể giải quyết được mọi khác biệt.
Tìm kiếm nền tảng chung
trong khi vẫn tôn trọng những điểm khác biệt
Tại tiểu bang Queensland, ông Uri Themal, Giám đốc điều hành của Ða Văn
Hóa Sự Vụ thuộc tiểu bang Queensland, chủ tọa những cuộc họp hàng tháng
của diễn đàn đa tín ngưỡng. Các nhà lãnh đạo của những nhóm sắc tộc, những
tôn giáo, và các học viện gặp nhau để trao đổi ý kiến về cách kiến tạo một
xã hội hòa hợp, thịnh vượng và như ý. Pháp Sư Tịnh Không được mời nói
chuyện tại hội nghị để chia xẻ ý kiến và nguyện vọng của Ngài về đề tài
thảo luận. Mọi người thảo luận đề tài đi tới giải pháp khả thi và trình
những điều đề nghị cho chính phủ.
Như Pháp Sư Tịnh Không đã nói, mỗi nền văn hóa, mỗi tôn giáo, mỗi chủng
tộc đều có những phẩm chất đáng biểu dương. Dù phát xuất từ các nền văn
hóa khác nhau, chúng ta vẫn có nhiều điểm tương đồng. Nếu dùng những điểm
tương đồng này làm điểm khởi hành đi tìm nền tảng chung và dẹp sang một
bên mọi sự khác biệt thì chúng ta sẽ có thể cảm nhận những điểm tốt của
nhau. Như vậy chúng sẽ chân thành tôn trọng nhau và không còn muốn can
thiệp vào công việc nội bộ của người khác hay giải quyết những vấn đề bằng
võ lực. Như vậy, mọi tranh chấp sẽ tự nhiên tiêu tan, sẽ không còn chiến
tranh nữa, và xã hội sẽ hòa bình, thịnh vượng.
Với những ý tưởng này, Pháp Sư Tịnh Không nhiệt thành mong ước thiết lập
một viện đại học đa văn hóa, hay ít nhất cũng là một ban đa văn hóa ở mỗi
trường đại học để bảo trợ và huấn luyện những chuyên viên truyền bá giáo
lý đa văn hóa và do đó phát triển sự ổn định xã hội và hòa bình thế giới
Tôn trọng và nêu cao các truyền thống
Pháp Sư Tịnh Không thường nói rằng những phẩm
chất đặc thù của các nền văn hóa, chủng tộc và tôn giáo giống như
những bộ phận của cơ thể chúng ta, mỗi bộ phận đều có đặc tính và chức
năng riêng. Thí dụ đầu và tay có tính chất và chức năng riêng của chúng.
Chúng ta không thể dùng tay để nghĩ, hay dùng đầu để làm những công việc
của tay.
Các tôn giáo và các nền văn hóa khác nhau có những phẩm tính và giá trị
và độc đáo về chân, thiện, mỹ của riêng mình. Chân, thiện, mỹ của bên này
không làm giảm thiểu chân, thiện, mỹ của bên kia. Chúng ta không thể cưỡng
bách một người nào khác chấp nhận văn hóa của mình, lối sống hay nguyên
tắc của mình. Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng cái gì của mình
cũng hơn những cái của người khác, người khác nên bỏ lối sống của họ, để
theo lối sống của chúng ta. Mỗi chủng tộc đều có phẩm chất tốt của riêng
mình, truyền thống của riêng mình. Tính ưu việt và những đặc trưng riêng
của một dân tộc chỉ có thể có được thể hiện qua văn hóa truyền thống của
họ. Vì vậy, mỗi người chúng ta cần phải bảo tồn, tôn vinh và truyền lại
cho những thế hệ sau những truyền thống tốt đẹp của mình.
Mục tiêu của chúng ta là đạt được lòng thành thực, thanh tịnh, bình
đẳng, từ bi và tỉnh thức. Chúng ta chỉ có thể giải quyết mọi vấn đề với
tâm trí của mình, chứ không thể giải quyết bằng võ lực, bằng chiến tranh.
Mọi vấn đề được giải quyết bằng từ bi đối với chúng sinh, hữu tình cũng
như vô tình. Chúng ta phải biết buông bỏ ý muốn kiểm soát người khác, vì
như vậy chỉ gây thêm tranh chấp, gia tăng nghiệp xấu của mình.
Không ai có thể thực sự kiểm soát người khác. Lịch sử cho chúng ta thấy
nhiều thí dụ về những quốc gia cố gắng dùng võ lực kiểm soát nước khác.
Khi quan sát lịch sử, chúng ta thấy nhiều chính quyền cố gắng áp đặt chế
độ, giá trị, hình thức cai trị của mình lên xứ khác mà không xét gì tới
lịch sử, văn hóa và truyền thống của họ, chỉ cứ muốn kiểm soát đất nước
của họ. “Chính quyền theo đuổi lý tưởng công chính thì đạt được sự hỗ trợ
lớn, còn chính phủ không công chính thì chỉ đạt được hỗ trợ nhỏ, nếu mục
đích không công chính thì dù người dân có theo, họ cũng không thể duy trì
sự kiểm soát nước khác lâu dài. Họ sẽ phải thất bại. Không ai có thể thực
sự kiểm soát người khác. Những người làm như vậy sẽ phải trả giá đắt cho
hành vi của mình.
Trong thế gian này có hai hạng người. Những người không biết tới truyền
thống và nguốn gốc của mình. Chỉ tìm cách kiểm soát người khác, không biết
rằng mình sẽ tiêu vong. Hạng người thứ hai làbiết truyền thống, gốc rễ và
lịch sử của mình và biết rằng hạng người kia sẽ thất bại. Họ hiểu rằng bỏ
đi những bản sắc của riêng mình hoặc áp đặt cái khác vào là những việc làm
không lâu bền.
Pháp Sư Tịnh Không nói rằng “Dân tộc Trung Hoa đã trải qua năm ngàn năm
lịch sử. Người ngoại quốc không hiểu được những đặc điểm của văn hóa Trung
Hoa, không hiểu được sự minh triết Trung Hoa vốn đã được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Truyền thống và văn hóa của chúng ta cũng độc đáo
như truyền thống và văn hóa của những quốc gia khác. Chúng ta cần phải tôn
trọng những nét khác biệt. Chúng ta cần phải bảo vệ văn hóa của mình cũng
như tôn trọng văn hóa của các xứ khác, và ca tụng chân, thiện, mỹ của tất
cả các dân tộc và các nền văn hóa. Như vậy chúng ta sẽ hiểu rằng sự đa
dạng của tất cả nền văn hóa là sự kỳ diệu và hoàn mỹ.
Viếng thăm Hội Truyền bá
Hồi Giáo ở Singapore:
Vào cuối năm 2000, lần đầu tiên Pháp Sư Tịnh Không, ông Lý Mộc Nguyên và
hơn sáu mươi Tăng sĩ và cư sĩ thuộc Hội PG Singapore và Hội Phật Ðà thăm
viếng tổ chức từ thiện của Hội Truyền Bá Hồi Giáo Singapore. Những tịnh
tài và tịnh vật được trao cho những người cư trú trong viện dưỡng lão và
viện mồ côi của Hội và có 30 học bổng được cấp cho 30 sinh viên Mã lai
đang sống ở Singapore. Các tờ báo địa phương như
Liên Hợp Tảo báo (Lain He Zao Bao), và Tân Dân nhật báo (Xin Min Daily) và
Straits Time đều đưa tin về cuộc viếng thăm này. Mấy tuần sau khi báo chí
đưa tin và phỏng vấn, cuộc viếng thăm vẫn hiện hữu trong tâm trí
của người dân Singapore và chính phủ của họ đánh giá cao sự giao hảo giữa
hai nhóm sắc tộc khác nhau. Sau đó Pháp Sư Tịnh Không và ông Lý Mộc Nguyên
Lập kế hoạch thăm viếng các nhóm Gia Tô Giáo, Aán giáo và các tôn giáo
khác, với hy vọng củng cố mối giao hảo liên tôn giáo, giúp cho sự ổn định
và hòa hợp xã hội, cũng như làm gương cho người khác noi theo.
Làm Lợi ích cho xã hội với
lòng từ
Từ bi: giáo lý căn bản của
PG:
PG đích thực là một nền giáo dục, với mỗi ý nghĩ về phát tâm từ bi và
biểu dương hòa bình. Pháp Sư Tịnh Không khuyên mọi người hãy gia tăng lòng
khoan dung, mở rộng tâm trí để thương yêu mọi chúng sinh, không phải riêng
gia đình và bạn bè mà còn với người xa lạ và kẻ thù, thú vật, cây cỏ cùng
tất cả những loài vô tình. Lòng từ bi vô lượng này là trung tâm của niềm
tin, sự hiểu biết và pháp thực hành của hành giả. Từ bi là động lực dựa
trên sự hiểu biết rằng tất cả chúng ta có cùng nguồn cội và tất cả là một
thực thể.
Ðức Phật giải thích Luật Nhân Quả (Law of Cause and Effect) rằng
mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta đều mang lại một hệ quả.
Hoàn cảnh hiện tại và mọi sự việc xảy ra cho chúng ta đều có nguyên nhân
mà chúng ra đã gieo trồng trong những kiếp trước. Khi hiểu biết như vậy
chúng ta sẽ đối xử với ngườikhác một cách từ bi và thành thực, vì chúng ta
biết rằng, ý nghĩa và lời nói và hành vi hiện tại của mình là nguyên nhân
tạo ra những hệ quả ở tương lai. Vì vậy chúng ta nên quý trọng mọi mối
quan hệ mà mình gặp hàng ngày.
Theo PG thì để hai người cùng đi chung một chuyến xe bus, họ phải đã có
một liên hệ nào đó với nhau trong nhiều kiếp trước. Với người thân và bạn
bè, chúng ta từng có liên hệ với nhau trong hàng ngàn năm để có thể thân
cận như vậy trong kiếp này. Ðiều này dạy cho chúng ta một chân lý là đừng
nghĩ tới điều lợi hay bất lợi cho riêng mình và đừng quan tâm tới những
chuyện nhỏ mọn. Tất cả các sinh linh đã có lần là cha mẹ của chúng ta
trong quá khứ và sẽ là những vị Phật tương lai. Hiểu như vậy, chúng ta cư
xử với người khác một cách hiền hòa và vui vẻ, vì chúng ta đã biết họ đã
yêu họ trong những kiếp trước. Ðược gặp lại họ trong kiếp này là cơ may
hiếm có. Chúng ta cần phải quý trọng những liên hệ hiện tại, và không bận
tâm với những chuyện nhỏ, vốn thực sự không có gì quan trọng.
Khi đạt được sự hiểu biết như vậy, chúng ta sẽ có thể giải trừ tính vị
kỷ của mình và đạt được cấp độ “ tất cả là một, một là tất cả”. Ðây là
bước đầu tiên tiến tới từ bi và là điều mà Ðức Phật đã dạy cho chúng ta
làm. Có ba bước căn bản mà chúng ta phải thực hiện để phát tâm từ bi đối
với người khác. Thứ nhất là chúng ta có thể dùng tài sản hay sức lực của
mình để giúp người khác vượt qua những lúc khó khăn của họ. Thứ hai, chúng
ta có thể giới thiệu những lời Phật dạy cho người khác và giúp họ đạt được
lợi ích từ PG. Thứ ba, chúng ta có thể giảng giải cho họ biết nguyên nhân
nỗi khổ hiện tại của họ và họ có thể làm gì để vượt qua sự đau khổ ấy, và
do đó tạo dựng đời sống hạnh phúc. Ðây là cách chúng ta phát triển lòng từ
bi đích thực. Ðây là việc mà Pháp Sư Tịnh Không đã làm bao nhiêu năm nay,
để tạo lợi ích cho chúng sinh và làm gương cho tất cả chúng ta.
Bốn mươi năm giảng dạy: Từ
bi để làm lợi ích chúng sanh:
Trong 40 năm, Pháp Sư Tịnh Không đã truyền bá Phật Pháp, khuyến khích
mọi người đối diện với cuộc đời bằng thái độ tích cực và đón chào tương
lai với niềm tin và hy vọng. Hầu như tất cả mọi người thành công đều đã
phải đối diện với những chướng ngại và những nghịch cảnh mà ít có người
nào khác biết tới. Ngày nay người ta trông thấy những thành công và thành
tựu của Ngài, rất ít người biết đến sự cô đơn và khó nhọc mà Ngài đã chịu
đựng trong những năm đầu tu luyện bằng cách đi theo con đường ít ai đã
trải qua. Ngài tin tưởng vững chắc rằng nhiệm vụ căn bản của các Tăng Ni
là truyền bá giáo lý chân chính của Ðức Phật chứ không chỉ làm những lễ
nghi tôn giáo. Ðó là thời gian Ngài
rèn luyện mình, để chứng ngộ chân lý, để buông bỏ mọi tham dục và đạt được
sự giải thoát tri kiến và giác ngộ.
Ngày nay chúng ta thấy Pháp Sư Tịnh Không được chào đón với những bó
hoa, những tràng pháo tay và sự hỗ trợ ở bất cứ nơi nào Ngài tới. Thính
giả mong mỏi chờ đợi Ngài xuất hiện, biểu bộ sự thành kính khi Ngài bước
lên pháp tòa để thuyết giảng. Có ai biết rằng phía sau những nụ cười và
gương mặt bình thản của Ngài là một gánh nặng trách nhiệm, khối lượng của
sự quan tâm tới chúng sinh khi Ngài ra sức truyền bá giáo lý của Ðức Phật.
Pháp Sư Tịnh Không luôn ý thức về những khổ đau của chúng sinh và luôn có
ý nghĩ làm sao để giúp họ thoát khỏi sinh tử luân hồi. Ngài cảm thấy có
một nỗi buồn lớn cho tình trạng của thế gian và cảm thông với những đau
khổ của muôn loài.
Sau khi di cư tới Ðài Bắc do hoàn cảnh thay đổi, Ngài
hoang mang không biết sau này mình sẽ đi tới đâu. Trong thời gian khó khăn
này. Ông Bà Cư Sĩ Hàn Anh (Yin Han) đã cung thỉnh Ngài tới cư ngụ tạm nơi
nhà của họ. Sự cống hiến này không dành cho bản thân của Pháp Sư mà
phát xuất từ sự hiểu biết và hộ trì Phật Pháp của ông bà .
Mục tiêu chính yếu của bà Hàn Anh là bảo vệ những giáo lý chân chính và
bảo đảm sự liên tục của những giáo lý đó cho các thế hệ tương lai. Bà dùng
mọi phương tiện có thể để tìm chỗ cho Pháp Sư Tịnh Không thuyết pháp. Bà
mượn hay thuê chỗ, bất kể rộng hay hẹp, rồi khuyến khích mọi người đến
nghe Ngài diễn giảng.
Pháp Sư Tịnh Không nói rằng Ngài cũng như một hạt giống, đã được Giáo sư
Phương Ðông Mỹ lựa chọn, Ðại sư Trương Gia gieo trồng và được Pháp Sư Lý
Bỉnh Nam vun xới và ông bà cư sĩ Hàn Anh
chăm sóc. Sau khi đã làm tròn vai trò hộ pháp cho Ngài Tịnh Không đạt đến
thành tựu, bà Hàn Anh được Phật A Di Ðà tiếp dẫn về Tây Phương Tịnh Ðộ vào
ngày 5 tháng 3 năm 1997. Qua tấm gương của bà, chúng ta đã thấy rõ công
đức và lợi ích bất khả tư nghì tích lũy từ việc hộ trì Chánh pháp. Ðiều
này đã tăng thêm niềm tin của chúng ta vào tín ngưỡng, tri kiến và pháp
môn tu tập của mình đồng thời tái củng cố niềm tin vào pháp môn Tịnh Ðộ
của chúng ta.
Trên thế gian này thiện và ác xen lẫn với nhau. Ðiều thiện là bảo vệ
Chánh pháp, điều ác là phá hoại Chánh pháp. Bà Hàn Anh là người suốt đời
tranh đấu chống lại bất công, nhận ra được cái tốt đó khi bà gặp nó và bà
đã vượt qua được những chướng ngại trong đời bà. Vì vậy Pháp Sư Tịnh Không
sẽ mãi mãi ghi nhớ lòng tử tế của những người hộ trì cho Ngài đạt thành
tựu trên bước đương hoằng Pháp. Ðể đền đáp sự tử tế này, Ngài tha thiết
kêu gọi hành giả tinh tấn tu tập, kiên trì không lùi bước và làm tất cả
những gì có thể để được vào được Tây Phương Tịnh Ðộ, thành Phật ngay trong
kiếp này.
Thông thường khi đã có tuổi, người ta về hưu để củng cố và hưởng thú vui
gia đình, hoặc xa lìa cuộc sống, nằm đợi phút giây cuối cùng. Nhưng Pháp
Sư Tịnh Không dù đã qua tuổi bẩy mươi, Ngài vẫn khỏe mạnh và tiếp tục công
việc của suốt đời mình, đó là gánh vác trách nhiệm giúp đỡ chúng sinh giác
ngộ và giải thoát sinh tử luân hồi. Pháp Sư đã suốt đời xuất sắc nêu gương
tốt ấy cho mọi người.
Tháng 11 năm 1998, Pháp Sư Tịnh Không bị cảm lạnh nặng và được khuyên
nên nghỉ ngơi. Ngài sửa soạn sớm hơn thường lệ cho việc diễn thuyết và đợi
những người thị giả tới đưa Ngài tới giảng đường. Trong thời gian này,
Ngài tiếp tục chương trình nói chuyện hàng ngày vào buổi sáng và thường
những bài thuyết pháp kéo dài hai giờ. Bất kể mắt bị sưng và những cơn ho
nghiêm trọng, Ðại Sư Tịnh Không vẫn thuyết giảng với phong thái như thường
thấy, nâng cao tinh thần và thu hút thính giả. Trong những bài giảng dài
khi bệnh ho nặng hơn, Ngài vẫn tỏa ra dáng điệu vui vẻ. Mọi người đều cảm
động và một sự im lặng kính cẩn tràn ngập giảng đường. Từ lúc đó, các đệ
tử của Ngài không muốn cáo bệnh nữa và đã cố gắng nhiều hơn để noi gương
bậc Pháp Sư này. Những bộ băng giảng chính của Pháp Sư Tịnh Không hiện có
:
1.
Kinh A Di Ðà Sớ Sao Diễn Nghĩa (350 VCD)
2.
Kinh Vô Lượng Thọ (12 băng cassettes)
3.
Kinh Hoa Nghiêm (180 băng cassettes)
4.
Kinh Ðịa Tạng (80 VCD)
5.
Kim Kim Cang Bát Nhã (203 VCD)
6.
Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác
(29 VCD)
Những băng giảng của Pháp Sư Tịnh Không đã được
Ðạo Hữu Thanh Trí (hiện ở Sydney, Úc châu) chuyển ngữ sang tiếng Việt:
7.
Kinh Kim Cang Yếu Nghĩa (5 băng video)
8.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (chương Tứ Tịnh Minh Hối) 5 băng video
9.
Kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo (2 băng video)
10.
Phật Pháp Bất ly sinh hoạt (1 băng video)
11.
Mục tiêu chung cục của sự học Phật (yếu nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm)
(1 băng video)
12.
Tịnh Ảnh Lục (lời vàng của HT Tịnh Không) (3 băng video)
13.
Liễu phàm từ huấn (Cải tạo vận mạng) (4 băng video)
Quý Phật tử muốn thỉnh các băng trên, xin liên lạc về Tu Viện Quảng Ðức,
Melbourne, Úc Châu để thỉnh.
|

Kinh A Di Ðà Sớ Sao Diễn
Nghĩa ( 350 VCD)
do Pháp Sư Tịnh Không
giảng

Kinh Hoa Nghiêm ( 180 băng cassettes)
do
Pháp Sư Tịnh Không giảng

Kinh Kim Cang Bát Nhã (203
VCD)
do
Pháp Sư Tịnh Không giảng

Kinh Ðại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh ( 29 VCD)
do
Pháp Sư Tịnh Không giảng

Kinh Vô Lượng Thọ (12
băng cassettes)
do Pháp Sư Tịnh Không
giảng


Bộ
Càn Long Đại Tạng Kinh, gồm 156 tập,
mỗi quyển khoảng 1000 trang, chứa đựng toàn bộ Kinh, Luật, Luận,
Truyện, Sử
Phật giáo, do HT Tịnh Không ấn tống để cúng dường cho các Phật
học viện
trên khắp thế giới
Tất cả những
tài liệu trên và hàng ngàn kinh sách khác
do Hội Giáo Dục Phật Đà (Taiwan)
gởi tặng Tu Viện Quảng Đức
|
Cứu trợ nạn nhân thiên tai
bằng tiền và tài vật:
Vào tháng 7 năm 1998, mọi người trên thế giới đều theo dõi tin tức về
cơn lụt lớn ở sông Trường Giang và sông Nộn
(Nen). Hàng ngàn người dân và binh sĩ Trung Hoa đã vai sát vai đứng trong
nước cao tới ngực, dùng thân mình làm những bức tường người để cứu những
nạn nhân thiên tai và tài sản của họ thoát khỏi trận bão lụt lớn nhất
trong một trăm năm qua. Pháp Sư Tịnh Không tràn ngập lo buồn khi Ngài được
biết về số phận của các nạn nhân, vì Ngài cảm thấy sự đau khổ của họ là sự
đau khổ của mình. Nếu những người dân Trung Quốc với mọi tầng lớp có thể
đoàn kết để đối diện với đại họa này, tại sao Ngài cũng là người Trung hoa
lại không giúp đỡ?
Vào giữa tháng 8, Pháp Sư Tịnh Không, Cư sĩ Lý Mộc Nguyên, Hội Phật Giáo
Singapore và Hội Phật Ðà bảo trợ cuộc vận động quyên tiền giúp cho nạn
thiên tai ở Trung Quốc. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, số tiền quyên góp đã
lên tới 150.000 đồng Singapore. Số tiền này được trao cho Sứ quán Trung
quốc tại Singapore và được phân phối ngay cho các nạn nhân. Tuy nhiên mọi
người tiếp tục đóng góp cứu trợ và trong vài tuần đã
có thêm 500.000 đồng Singapore nữa.
Trong những tuần lễ kế tiếp, Pháp Sư Tịnh Không và ông Lý
Mộc Nguyên đã gởi tặng số tiền cứu trợ này cho Ðại Sứ Ðặc Mệnh Toàn Quyền,
bà Trần Bảo Lưu (Bao Liu Chen) và Ðệ nhất Bí Thư ông Bành An Hải (An
Hai Peng) cũng như các nhân viên của Ðại sứ Trung Quốc đích thân thăm
viếng Hội Phật Giáo Singapore để nhận số tiền cứu trợ. Ðệ nhất bí thư cũng
viếng thăm Hội Phật Ðà để ngỏ lời cảm tạ, nhân danh đại sứ và các nạn
nhân.
Rồi vào tháng 10, Pháp Sư Tịnh Không lại nhận tin cho biết hầu hết những
vùng thiên tai đang bước vào mùa đông khắc nghiệt mà các nạn nhân đã mất
nhà, y phục, tất cả trong trận lụt bây giờ lại không có y phục mùa đông do
khan hiếm. Vì vậy, Pháp Sư lại kêu gọi mọi người thực hành tâm từ bi và
hạnh bố thí, giúp đỡ các nạn nhân vượt qua cảnh thiếu thốn dường như bất
tận này. Với lời kêu gọi khẩn cấp này, tiền cứu trợ được đóng góp mau
chóng để làm một trăm ngàn bộ y phục mùa đông. Pháp Sư đã giao cho
cô Thôi Ngọc Tinh (Yu-Ling-Cui), một doanh
gia Trung Hoa - chủ nhân một xưởng chế tạo dụng cụ nặng - nhiệm vụ may và
phân phối số y phục này. Cô Thôi Ngọc Tinh
không những đã làm công tác này mà còn tặng thêm cho mỗi nạn nhân 100 yuan
(tiền Trung Quốc) và một bao bột mì. Pháp Sư Tịnh Không rất vui mừng khi
được biết rằng một số nhu cầu cấp thiết của các nạn nhân đã được đáp ứng.
Những hoạt động từ bi này của Pháp Sư Tịnh Không không chỉ giải quyết một
số nhu cầu vật chất của các nạn nhân mà còn gây cho họ niềm hy vọng xây
dựng lại tất cả những gì đã mất.
Tái thiết các trường học
và tạo niềm hy vọng trong vùng thiên tai:
Trận lụt ở sông Tùng Hoa (Songhuajiang) và
sông Nộn (Nen) đã nhấn chìm hoa mầu và những vùng nông nghiệp lớn,
nhiều nhà cửa và trường học bị hư hại nặng và một số bị phá hủy hoàn toàn
. Pháp Sư Tịnh Không cảm thấy chính phủ Trung Hoa đã làm rất nhiều để giúp
hai trăm triệu người chịu ảnh hưởng của trận lụt. Về việc tái thiết các
trường học, Ngài sẽ hết sức giúp đỡ bằng bất cứ cách nào có thể. Ngài biết
rằng trường học là nơi tốt nhất để gây hy vọng; là cái nôi tri thức của
nền văn minh hiện đại và sự phát triển xã hội. Trong số những kiến trúc
thì trường học phải được tái thiết trước nhất, vì vậy công tác xây dựng
lại trường tiểu học và trung học là điều cực kỳ quan trọng đối với Pháp Sư
Tịnh Không.
Dưới sự hướng dẫn của chính Ngài, kế hoạch gây quỹ cho mười trường học
Ánh sáng Từ Bi và 20 trường Hiếu Kính Thành đã được tiến hành mau chóng.
Chẳng bao lâu nữa, nhờ lòng từ vô hạn của Ngài, chúng ta sẽ thấy được
những ngôi trường mới xây mở cửa, từng trường một, trong vùng đất đông bắc
rộng lớn của Trung Hoa.
Giúp đỡ dài hạn dành cho
Trung Hoa, quê hương của Pháp Sư Tịnh Không:
Pháp Sư Tịnh Không dành sự giúp đỡ cho Trung Hoa từ năm 1980, thường
dưới hình thức quyên tặng tiền, sách, từ điển... Từ năm 1989 tới 1995,
Pháp Sư Tịnh Không đã tặng 800 bộ Ðại Tạng Kinh cho các tự viện, Phật học
viện và các Hội Phật giáo dành cho các cư sĩ. Năm 1991, miền đông Trung
quốc bị lụt lớn. Pháp Sư đã làm hết sức để giúp đỡ; và noi gương Ngài, Thư
viện PG Hoa Tạng, Cơ quan giáo dục Phật Ðà đã tặng 250.000 Mỹ kim để giúp
các nạn nhân. Năm 1992, Cơ quan giáo dục Văn Hóa PG ở Trung Quốc được
thành lập và Pháp Sư Tịnh Không đã tặng 40.000 Mỹ kim cho họ.
Năm 1993, Pháp Sư Tịnh Không bảo trợ cho nhà xuất
bản Nam Kinh (Nanjing) và Thư quán PG
Thượng Hải để in và ấn tống miễn phí mười ngàn bộ tự điển Phật học cho tất
cả các trường Phật học khắp Trung quốc. Cũng trong năm đó, Ngài cũng tặng
35 bộ, 500 cuốn E C L F D cho thư viện Bắc Kinh, và Thư viện Thượng Hải và
một số trường Ðại học.
Năm 1994, Ngài tặng 60.000 đồng Singapore để giúp một dự án lập các thư
viện trong hàng ngàn ngôi làng ở Trung quốc. Năm 1997, Pháp Sư Tịnh Không
viếng thăm thành phố quê hương của Ngài, Nơi ngài đã ra đi 50 năm trước.
Ngài gởi một trăm máy vi tính 586 cho trường Trung học
Lô Giang (Lujang). Trong năm sau đó, Ngài
tặng 600.000 yuan cho thư viện mới thiết lập ở trường trung học Lô Giang
(Lujiang)
|

Tổ Ấn Quang,
vị Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông
( Pháp sư Tịnh Không tu theo pháp môn niệm Phật
của vị Tổ này)
|
Siêu sinh Tịnh Ðộ bằng pháp
môn Nhất Quán
Thực hành hiếu kính và báo
đáp công ơn: Nền móng của pháp tu Tịnh Ðộ:
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Ðức Phật dạy chúng ta ba điều căn
bản, ba điều kiện để vãng sinh về Tây Phương Tịnh Ðộ. Ðiều thứ nhất là
hiếu kính với cha mẹ, các vị Thầy, các bậc trưởng thượng, có lòng từ bi
không sát hại sinh linh nào, và thực hành mười điều thiện. Pháp Sư luôn
luôn dạy rằng, PG là một nền giáo dục, dựa trên nền móng hiếu kính. Làm
sao chúng ta có thể tin là người khác thành thực, nếu họ không hiếu kính
với cha mẹ? Làm sao họ có thể tôn trọng chúng sinh nếu họ không kính trọng
Thầy của mình?
Hiếu kính không phải là quan tâm tới nhu cầu vật chất của cha mẹ, mà còn
thực hiện ý nguyện của song thân nữa. Hiếu kính cũng là căn bản của truyền
thống Trung Hoa. Chúng ta cần phải mở rộng từ căn bản này bằng sự hiếu
kính không chỉ với cha mẹ của mình mà còn với tất cả các bậc cha mẹ khác.
Nếu chúng ta có thể kính trọng chúng sinh khắp pháp giới vì họ là cha mẹ
quá khứ của mình, bảo vệ môi trường và quý trọng mọi liên hệ và hoàn cảnh
thì như vậy là chúng ta đã thực hành hiếu kính tới chỗ thành tựu viên mãn.
Trong Khổng Giáo, hiếu kính được giới hạn trong gia đình, chủng tộc hay
tổ quốc của chúng ta. Trong PG hiếu kính được mở rộng bao gồm tất cả vạn
vật trong vũ trụ. Lý do mỗi Phật tử phát bốn đại nguyện hàng ngày chính là
tâm quảng đại vô lượng này. Nguyện thứ nhất là “chúng sanh không số lượng,
con nguyện đều độ khắp”, là mở rộng không giới hạn lòng hiếu kính. Ðiều
này cho thấy rằng sự báo đáp công ơn của PG chính là phát triển sự hiếu
kính của Khổng Giáo.
Trong pháp môn Tịnh Ðộ chúng ta thực hành hiếu kính với cha mẹ và các vị
thầy của mình và báo đền bốn ơn cha mẹ, thầy tổ, tổ quốc, chúng sinh và
chư Phật, cũng giống như tất cả những pháp môn PG khác. Ðó là lý do PG
được chấp nhận một cách mau chóng và nhiệt thành ngay khi tôn giáo này vừa
mới truyền vào Trung Hoa lần đầu tiên. PG hoàn hảo trong những luật tắc
và giáo lý. Sự minh triết của PG dành cho hết thảy chúng sinh, kính trọng
các bậc thầy và giáo lý của các Ngài, biết ơn và báo ơn của người khác, đó
là những nhân tố chính yếu làm cho PG đã thịnh vượng ở Trung Hoa.
Pháp môn Nhất Quán: Con
đường đơn giản và trực tiếp để thành tựu:
Khi mới nghiên cứu PG, Ðạo sư Tịnh Không đọc những cuốn sách viết về
những nguyên lý và giáo lý cốt tủy của Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông,
Duy Thức Tông, Tam Luận Tông, v.v.... Ngài đã rất may mắn được gặp những
vị Thầy giỏi, uyên thâm, đạo đức và nổi tiếng, vì vậy Ngài đã mau chóng
xây dựng nền móng vững chắc về giáo lý. Ngài giải thích: “dưới sự hướng
dẫn của Giáo sư Phương Ðông Mỹ (Dong Mei Fang), tôi được biết rằng nghiên
cứu và thực hành PG là niềm vui lớn nhất cho loài người. Với Ðạo sư Trương
Gia (Zhang Jia), tôi nhận ra ý nghĩa thực sự của minh triết và xả ly”.
Sau đó, Pháp Sư Tịnh Không học với ông Pháp sư Lý Bỉnh Nam (Bing Nan
Lee). Khi Pháp sư Lý bảo Ngài hãy buông bỏ tất cả những gì ông đã dạy
trước đây và bắt đầu làm lại từ đầu, Ngài đã nghe lời. Sau mười năm học
giáo lý của Thầy Lý Bỉnh Nam. Pháp Sư Tịnh Không hiểu rằng người ta có thể
đạt giác ngộ viên mãn bằng cách học bất cứ cuốn kinh nào, thực hành bất cứ
pháp môn nào trong tám mươi tư ngàn pháp môn. Tuy nhiên điều quan trọng là
sơ cơ nên chọn cuốn kinh nào và pháp môn nào thích hợp với mình nhất và
tập trung riêng vào cuốn kinh đó liên tục trong nhiều năm. Chỉ bằng cách
tập trung này mà chúng ta có thể đạt được định tâm sâu xa và chứng ngộ trí
tuệ nội tại của mình. Với sự nhẫn nhục và tinh tấn như vậy, chúng ta sẽ
thành tựu trong sự học ngoại điển lẫn nội điển.
Khi sáng lập Trường Giáo Dục PG thì chương trình giảng dạy được soạn
theo ý nguyện của Pháp Sư Tịnh Không cũng thành hình. Pháp Sư tin chắc
rằng trong xã hội hiện đại của chúng ta chỉ có phương pháp giảng dạy theo
truyền thống Trung Hoa mà Pháp sư Lý Bỉnh Nam đã dùng mới thích hợp với
việc giáo dục của những người kế thừa PG. Vì vậy, từ lúc bắt đầu dự án,
nhà trường, nguyên tắc của trường, mục tiêu và soạn chương trình, tất cả
đều theo triết lý của Pháp Sư Tịnh Không.
Phương pháp dạy theo truyền thống Trung Hoa là tập trung và nghiên cứu
một đề tài. Pháp Sư cảm thấy rằng phương pháp truyền thống này có hiệu quả
hơn là phương pháp mà các trường Phật học và các đại học ngày nay đang
dùng. Ngài nói: “mục tiêu của một trường Phật học hoàn toàn khác với
các trường đại học hiện đại. Thí dụ, mục tiêu của một trường y khoa là đào
tạo bác sĩ, mục tiêu của một trường luật là đào tạo luật sư, còn mục tiêu
của một trường Phật học là học thành Phật và Bồ Tát. Chế độ quản trị và
chương trình giảng dạy của nền giáo dục hiện đại không thích hợp với nền
giáo dục PG”.
Nếu chấp nhận chế độ giáo dục hiện đại, chúng ta sẽ không chỉ lãng phí
tiền bạc và nhân lực, mà còn có điều quan trọng hơn nữa là chúng ta sẽ làm
cho người ta mất cơ hội đạt đến giác ngộ, và như vậy là một sự sai lầm
lớn. Vì vậy, Pháp Sư Tịnh Không cho rằng các trường Phật học nên dùng
phương pháp này, như các thầy tổ đã dùng, chúng ta mới đạt được thành tựu.
Tại sao chế độ giáo dục PG ngày nay không có hiệu quả ? vì chúng ta đã từ
bỏ quá khứ của mình để thu nhận những gì phổ thông ngày nay. Phương pháp
truyền thống dạy sinh viên cách tập trung tâm trí còn phương pháp hiện đại
chỉ dạy sinh viên tích lũy thông tin mà hầu như không dạy gì về thiền. Tóm
lại, chúng ta bị kẹt trong những tiểu tiết mà quên mục tiêu, thấy rừng mà
không thấy cây. Làm sao chúng ta có thể hy vọng đạt thành tựu?

Hội Phật Ðà tại Queensland, Úc Châu
|
Áp dụng
Pháp
môn Tịnh Ðộ:
pháp tu thích hợp nhất cho xã hội hiện đại
Ðức Phật nói rằng trong thời Chánh Pháp người ta thành tựu pháp thiền
quán, trong thời tượng pháp, người ta thành tựu pháp thiền định và trong
thời mạt pháp, người ta thành tựu pháp môn Tịnh Ðộ. Vì vậy Pháp sư
Lý Bỉnh Nam cống hiến cuộc đời của mình
cho việc thực hành và giảng dạy pháp tu Tịnh Ðộ.
Ở đỉnh cao sự nghiệp dạy đạo của Pháp sư Lý
Bỉnh Nam, có khoảng hai trăm ngàn hành giả Tịnh Ðộ tu theo giáo lý
này. Lối dạy của ông rất mềm dẻo và sáng tạo, vì ông hướng dẫn người học
theo trình độ hiểu biết của mỗi người. Ông là
một người đáng kính, là khuôn mẫu cho tất cả mọi người, cuộc đời của ông
phản chiếu những gì ông dạy cho người khác.
Dưới sự hướng dẫn của Ngài Lý Bỉnh Nam, Pháp
Sư Tịnh Không thấu triệt rằng Tịnh Ðộ là pháp môn thích hợp nhất cho thời
đại này và do đó Ngài đã dành cuộc đời của mình cho việc truyền dạy pháp
môn Tịnh Ðộ này. Ngài nhận thấy rằng một học giả PG có thể đọc nhiều về
giáo lý và có vẻ biết đủ thứ, nhưng lại không thể giải quyết những vấn đề
căn bản sinh, lão, bệnh và tử, không thể giúp chúng sinh giải thoát luân
hồi. Bây giờ chúng ta đang ở trong một Thời Mạt Pháp, vì vậy pháp môn Tịnh
Ðộ là phương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là
cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
Các cơ sở hoằng pháp của Hội Phật
Đà trên khắp thế giới :
Australia
Amitabha Buddhist Association of New South Wales, Inc.
Shop 1, 150 Woodburn Rd., Berala, NSW 2141
Tel: 2-9643-7588 Fax: 2-9643-7599
Amitabha Buddhist Association of Perth, Inc.
154 Elliot Rd. Wanneroo, W.A., 6065
Tel: 8-9306-1447
Amitabha Buddhist Association of Queensland
11 Toona Pl., Calamvale, QLD 4116
Tel: 7-3273-1693 Fax: 7-3272-0677
Amitabha Buddhist Retreat Centre Assoc. Inc.
Box 216, 160 Greenwood Creek Rd, Nanango, QLD 4615
Tel: 7-4171-0316 Fax: 7-4163-1367 Email:
amitabhacentre@hotmail.com
The Pure Land Learning Center of the Northern Territory Inc.
Tel: 8-8927-4988 Fax: 8-8981-3516
Email:
leonel.tchia@palantir.com.au
The Pure Land Learning Center of Victoria, Inc.
Tel: 3-9891-7093 Fax: 3-9891-7093
Email:
purelandvic@yahoo.com
The Pure Land Learning College Association Inc.
57 West St., Toowoomba, QLD 4350
Tel: 7-4637-8765 Fax: 7-4637-8764
Email:
purelandcollege@yahoo.com.au
Canada
Amitabha (Six Harmony) Buddhist Organization of Canada
Box 150, Unit F101, 2/F., 4350 Steeles Avenue E.,
Market Village, Markham, ONT. L3R9V4
Tel: 416-265-9838 Fax: 905-947-1870
Email:
amtb6can@yahoo.com
AMTB Buddhist Library of Montreal
Phone: 514-331-5103 Fax: 514-331-5103
Email:
zping@hotmail.com
England
Buddhist Education Foundation (UK)
BCM 9459, London WC1N 3XX
Tel: 171-586.6923 Fax: 44-171-7948594
Website: buddhisteducation.co.uk
Hong Kong
Hong Kong Buddhist Education Foundation Ltd.
11th Floor Eader Centre, 39-41 Hankow Rd.
Tsim Sha Tsui, Kowloon, Hong Kong
Tel: 2314-7099 Fax: 2314-1929
Email:
amtbhk1@budaedu.org.hk
Malaysia
Amitabha Buddhist Society (Sungai Petani)
4,Tingkat 2, Kompleks Seri Temin, Jalan Ibrahim,
08000 Sungai Petani, Kedah Darul Aman
Tel: 04-422-5853, 04-422-4152 Fax: 04-423-7295
Lean Hwa Kok Activity Center
Amita Sama Budaya Multimedia
12 EUPE Food Court, Jalan Kuda Kepang, Taman Ria Jaya,
08000 Sungai Petani, Kedah Darul Aman
Tel: 04-4259476, H/P: 012-5674859
Amitabha Buddhist Society (Penang)
82 A, Penang St., 10200 Penang
Tel: 04-261-6722 Fax: 04-261-9655
Amitabha Buddhist Society (Penang)
31, Tingkat Satu, Jalan Kelisa Emas,
13700 Seberang Jaya, Butterworth, Penang
Amitabha Buddhist Society (Taiping)
272A, Tingkat 1, Jalan Pacik Ahmad, Taman Bersatu,
34000 Taiping, Perak Darul Ridzuan
Tel. & Fax: 05-807-1718/808-8023
Amitabha Buddhist Society (Perak)
88-89, Jalan Pasar, Jelapang,
30020 Ipoh, Perak Darul Ridzuan
Tel: 05-528-3648 Fax: 05-527-9628
Amitabha Buddhist Society (Kuala Kangsar)
38, Jalan Daeng Selili,
33000 Kuala Kangsar, Perak Darul Ridzuan
Tel: 05-7777879
Amitabha Buddhist Society (Malaysia)
16-A, 1st Floor, Jalan Pahang,
53000 Kuala Lumpur, Wilayah Perseketuan
Tel: 03-4041-4101, 03-4045-2630 Fax: 03-4041-2172
Email:
amtbmy@amtb-m.org.my
Website:
http://www.amtb-m.org.my
Amitabha Buddhist Society (Amitabha)
51A & 52A, Jalan Pandan Indah 4/6B,
55100 Kuala Lumpur, Wilayah Perseketuan
Tel: 03-4293-5251 Fax: 03-4293-3520
Email:
rdv@tm.net.my
Amitabha Buddhist Society (Kajang,)
96,Taman Hijau, Jalan Reko, 43000 Kajang,
Selangor Darul Ehsan
Tel: 03-8733-9173 Fax: 03-8737-7730
Email:
amitabha_kajang@hotmail.com
Amitabha Buddhist Society (Petaling Jaya)
13A, Jalan 21/17, Sea Park 46300,
Petaling Jaya, Selangor Darul Ehsan
Tel: 03-78774506, Tel/Fax: 78766712
Amitabha Buddhist Society (Kelang)
15, Jalan Tapah, Off Jalan Goh Hock Huat,
41400 Kelang, Selangor Darul Eshan
Email:amtb_klg@tm.net.my
Tel: 03-3341-1386 Fax: 03-3344-6914
Amitabha Buddhist Society (Seremban)
26-1, Jalan 52 B1, Lake New Square,
Seremban 2, 70300 Seremban,
Negeri Sembilan Darul Khusus
Tel: 06-763-8660
Amitabha Buddhist Society (Tampin)
3625 Pulau Sebang, 73000 Tampin,
Negeri Sembilan Darul Khusus
Email:
tan_bs@email.com
Tel: 06-4417487, 012-2653318
Amitabha Buddhist Society (Melaka)
275D, Jalan Puteri Hang Li Poh,
Bukit Cina / 75100, Melaka
Email:
absmalacca@hotmail.com
Tel/Fax: 06-283-9830
Website:
www.geocities.com/absmelaka
Amitabha Buddhist Society (Famosa)
2-20 Jalan PM9, Plaza Mahkota,
Bandar Hilir, 75000 Melaka
Tel: 06-334-2052, 06-292-6426 Fax: 06-286-0046
Amitabha Pure Land Learning Centre Melaka
15-G, Jalan Melaka Raya 14,
75000 Melaka
Tel. & Fax: 06-226-6722
Amitabha Buddhist Society (Johor)
1704, Jalan Senai Utama 1, Taman Senai Utama,
81400 Senai, Johor Bahru, Johor Darul Takzim
Tel: 07- 598-1642
Amitabha Buddhist Society (JB)
112A, Jalan Meranti, Taman Melodies,
80250 Johor Bahru, Johor Darul Takzim
Email:
amtb@time.net.my
Tel: 07-332-4958 Fax: 07-334-9694
Amitabha Buddhist Society (Johor Jaya)
24A Jalan Dedap 17, Taman Johor Jaya,
81100 Johor Bahru, Johor Darul Takzim
Tel: 07-354-6386 Fax: 07-354-6817
Pertubuhan Penganut Buddha Amitabha
47-3, Jalan Permas 10/1,
Bandar Baru Permas Jaya, 81750, Masai,
Johor, Darul Taksim
Tel: 388-4888 Fax: 388-4848
Amitabha Buddhist Society (Segamat)
29, Tingkat Atas, Jalan Emas 6, Taman Bukit Baru,
85020 Segamat, Johor Darul Taksim
Tel: 07-943-7958, 07-943-7719 Fax: 07-931-0958
Amitabha Buddhist Society (Muar)
100-3, Tkt 2, Jalan Hashim,
84000 Muar, Johor, Darul Taksim
Tel: 06-954-2207
Amitabha Buddhist Society (Batu Pahat)
7, Jalan Hijau, Taman Bukit Pasir,
83000 Batu Pahat, Johor Darual Taksim
Tel: 07-4349137, 019-7741092
Amitabha Buddhist Society (Karak)
15, Taman Hijau,
28600 Karak, Pahang Darul Makmur
Tel: 09-231-2625
Amitabha Buddhist Society (Kuantan)
15A, Jalan Sg. Banching, Bt 10 Kem,
26070 Kuantan, Pahang Darul Makmur
Tel: 09-538-1249 Fax:09-538-2498
Amitabha Buddhist Society (Kuching)
207, Lorong 5, Jalan Laksamana Cheng Ho,
93350 Kuching, Sarawak
Tel/Fax: 082-450-960
Persatuan Penganut Agama Buddha Amitabha Daerah Siburan
No. 46, Lot 755, 1st Floor,
Siburan New Commercial Centre,
17th miles, K/S Road, 94200 Ku, Sarawak
Amitabha Buddhist Society (Bau)
73, Pasar Bau,
94000 Sarawak,
Tel/Fax: 082-764-677
Amitabha Pureland Learning Centre (Kuching)
41, Ground Floor, Block E, King"s Centre,
Jalan Simpang Tiga, 93350 Kuching, Sarawak
Tel/Fax: 082-464773
Amitabha Buddhist Society (Miri)
16, 2nd Floor, Hock Lee Bldg.,
Main Town Area,
Jalan Bendahari,
98000 Miri, Sarawak
Tel/Fax: 085-417-844
Amitabha Buddhist Society (Sabah)
Block C, Lot 33 & 34, 1st Floor,
Indah Jaya Shophouse, Lorong Indah Jaya,
Taman Indah Jaya, Jalan Cecily Utara,
Mile 4, Post Office Box 1566,
90717 Sandakan, Sabah
Tel: 089-237-048 Fax: 089-211-048
Amitabha Buddhist Research Centre Sabah
467, Leila Road,
90000 Sandakan, Sabah
Tel: 089-611-622 Fax: 089-611-611
Lian De Tang
65 D, Sg. Korok Hijau Kuning,
05400 Alor Setar, Kedah Darulaman
Tel: 04-772-1172 Fax: 04-730-7044
Persatuan Buddhist Yuen Jong Melaka
7, Jalan Zahir 20, Taman Malim Jaya,
Jalan Malim, 75250 Melaka
Tel/Fax: 06-335-4944
Spain
Amitabha Buddhist Society (Spain)
C/Valcerde 5, 28004-Madrid
Tel: 341-522-3603 Fax: 341-522-7151
Singapore
Amitabha Buddhist Society (Singapore)
2 Lorong 35 Geylang, Singapore 387934
Tel: 744.7444 Fax: 744.4774
Email:
abss@amtb.org.sg
Website:
www.amtb.org.sg
Singapore Buddhist Lodge
17-19, Kim Yam Road, Singapore 329239
Tel: 737-2630 Fax: 737-0877
Email:
sblodge@pacific.net.sg
Website:
www.amtb1.org.sg
Taiwan
The Corporate Body of the Buddha Educational
Foundation
11 F., 55 Hang Chow South Road Sec I,
Taipei, Taiwan, R.O.C
Tel: 886. 2. 23951198
Fax: 886. 2. 23913415
Email: overseas@budaedu.org.tw
Website: http://www.budaedu.org.tw
The Corp. of Hwa Dzan Amitabha Society
2F #333-1 Shin Yi Rd. Sec. 4, Da An Dist., Taipei
Tel: 02-2754.7178 Fax: 02-2754.7262
Kaohsiung Pureland Learning Center
No. 236, Chi Hsien 3th Rd., Yen Cheng District, Kaohsiung
Tel: 07-521-9988 Fax: 07-521-7355
Thailand
Amitabha Buddhist Society
701/202 Soi Pattanakarn 30
Pattanakarn Road, Bangkok 10250
Tel: 662-719-5206 Fax: 662-719-4356
USA
Amida Society
5918 Cloverly Ave. Temple City, CA 91780
Phone: 626-286-5700, 283-3700 Fax: 626-286-7988
Email:
amtbla@pacbell.net
Website:
www.amtb-la.org
Amita Buddhist Society and Meditation Center
25-27 Winter Street, Brockton, MA 02302
Phone: 508-580-4349 Fax: 508-580-4349
Email:
amita48@hotmail.com
Amitabha Buddhist Learning Center USA
3719 Humphrey St., St. Louis, MO 63116-4823
Tel: (314) 773-6062 Fax: (314) 773-6062
Amitabha Buddhist Library in Chicago
Tel: 630-416-9422 Fax: 630-416-6175
Email:
main@lisutancpas.com
Amitabha Buddhist Library of Washington D.C.
Phone: 202-257-9533 Fax: 301-927-9596
Email:
amtbmd@hotmail.com
Amitabha Buddhist Society of Hawaii
158 N. Hotel Street, Honolulu, HI 96817
Tel : (808)523-8909 Fax : (808) 523-8909
Amitabha Buddhist Society of Houston
7400 Harwin Dr. #170 Houston, TX. 77036
Tel: 713-339-1864 Fax: 713-339-2242
Amitabha Buddhist Society of Michigan
1465 Northbrook Drive, Ann Arbor, MI 48103
Phone: 734-995-5132 Fax: 734-995-5132
Amitabha Buddhist Society of New Jersey, Inc.
1197A Marlkress Road, Cherry Hill, NJ 08003
Tel : 856-751-7766 856-751-1535 Fax : 856-751-2269
Email:
njbuddha@comcast.net
Amitabha Buddhist Society of NY Inc.
41-60 Main St., Ste. 211, Flushing, NY 11355
Tel: 718-961-7299 Fax: 718-961-8039
Email: amitabha_ny @yahoo.com.tw
Website:
www.amtb-ny.org
Amitabha Buddhist Society of Philadelphia
42 Lakeview Dr., Cherry Hill, NJ 08003
Tel: 856-424-2516 Fax: 856-489-8528
Email:
amtbphila@hotmail.com
Website:
www.amtb.org
Amitabha Buddhist Society of Seattle
701 ½ S. King St., Seattle, WA 98104
Tel: (206) 624-9378
Amitabha Buddhist Society at UK
Lawrence, KA
Email:
amtb_at_ku@yahoo.com
Website:
www.ku.edu/~amtb
Amitabha Buddhist Society of USA
650 S. Bernardo Ave., Sunnyvale, CA, 94087
Tel: 408-736-3386 Fax: 408-736-3389
Email:
info@amtb-usa.org
Website:
www.amtb-usa.org
Amitabha House of the United States, Inc.
3101 South Manchester Street,
#810, Falls Church, VA 22044-2720
Phone: 703-845-0186 Fax: 703-757-0139
Email:
Ltan@NIAID.NIH.GOV
Dallas Buddhist Association
515 Apollo Rd, Richardson, TX 75081
Tel: 972-234.4401 Fax: 972-234.8342
Email:
amtbdba@yahoo.com
Mietoville Academy, Inc.
4450 Business Park Ct., Lilburn, GA 30047
Phone: 770-923-8955 Fax: 770-925-0618
Email:
mietoville@bellsouth.net
Lời kết:
Ngày nay nhiều người đang tìm lời giải đáp cho câu hỏi tại sao chúng ta
sinh ra, tại sao chúng ta sống và chết. Dù ở Ðông Phương hay Tây Phương,
đời sống của chúng ta trở nên loạn động hơn, vì vậy chúng ta dễ bị căng
thẳng và thất vọng. Ðức Phật dạy chúng ta dùng sự thành thực, thanh tịnh,
bình đẳng, tỉnh thức và từ bi để giải quyết những vấn đề tâm linh của mình
vốn do nhiều phiền não gây ra. Ngài dạy rằng cốt yếu không có gì khác biệt
giữa Phật và phàm phu và tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tất cả đều
bình đẳng, nếu tinh tấn tu tập chúng ta sẽ đạt được giác ngộ và giải
thoát.
Phật giáo có nhiều pháp môn thâm diệu và khó thấu triệt, do đó khó thực
hành. Ở Tây Phương hiện nay, pháp môn Thiền và Phật Giáo Tây Tạng đã được
chấp nhận rộng rãi, nhưng khó đạt thành tựu viên mãn, vì do thiếu những vị
Thầy có khả năng, và có nhiều chướng ngại mà hành giả có thể gặp phải.
Trong khi, Pháp môn Tịnh Ðộ thì vừa dễ vừa an toàn để thực hành. Người
ta có thể thực hành pháp môn này ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Hành
giả tu theo Tịnh Ðộ chỉ cần có niềm tin vững chắc, có ý nguyện thành thực
và siêng năng tu tập. Chúng ta có thể niệm thầm hay niệm lớn tiếng bốn chữ
“A Di Ðà Phật” (Amituofo/ Amitabha) hay sáu chữ “ Nam
Mô A Di Ðà Phật” trong khi đi, đứng, nằm, hay ngồi.
Trong thời đại luôn biến chuyển này, nếu chúng ta giữ lòng thành thực,
từ bi, ý nguyện kiên cố giải thoát luân hồi sinh tử, nhẫn nhục thực hành
nhiều năm, và tinh tấn nhìn thấu chân lý cũng như buông bỏ mọi ái dục thì
chắn chắn chúng ta sẽ thành tựu.
Mặc dù hiện nay, tuổi đời đã gần tám mươi, nhưng Pháp Sư Tịnh Không vẫn
không cảm thấy mệt mõi trên bước đường hoằng truyền Chánh Pháp, Ngài vẫn
tiếp tục công việc của mình, du hóa khắp nơi trên thế giới, từ Châu Á sang
Âu rồi châu Mỹ để thuyết giảng Kinh Ðiển Ðại Thừa và truyền bá Pháp Môn
Tịnh Ðộ. Những hoa trái tu tập của Ngài đã và đang nở rộ, cho thấy ngài đã
có một phần nào chứng ngộ trong pháp môn này, và chính điều này đã gây cảm
hứng và thu hút hàng vạn Phật tử theo tu pháp môn này.
Thật vậy, một đời chính mình niệm Phật và khuyên người niệm Phật, Hòa
Thượng Tịnh Không đã mang lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người trên thế
gian này. cuộc đời tu tập và hành đạo của Hòa Thượng là một tấm gương
sáng ngời cho hàng hậu học noi theo. Cuộc đời của Ngài cũng là một chứng
tích cực kỳ sống động cho tiến trình trở về cội nguồn tâm linh, tự tại, an
lạc, giải thoát và giác ngộ. Bất cứ hành giả nào có dịp tiếp xúc trực tiếp
với Ngài sẽ thể nghiệm được những gì của Ngài đạt được, qua phong thái,
giọng nói và diện mạo của Ngài, hành giả có thể nhận ra được chánh báo
và y báo của Ngài đã thành tựu một cách viên mãn.
Không ai khác hơn, chính Ngài đã thúc giục chúng ta hãy siêng năng,
tinh tấn niệm Phật để cải đổi vận mạng, để xả bỏ tấm thân phàm phu
ngũ trược này để được pháp thân Phật. Chúng ta hãy nhất tâm trì
niệm hồng danh“A Di Ðà Phật”, một cách không hoài nghi, không pha
trộn với những pháp môn khác và những tạp niệm, không gián đoạn, liên
tục, quán niệm và trì niệm Phật A Di Ðà, chắc chắn chúng ta
sẽ đạt được an lạc và hạnh phúc thật sự ngay trong kiếp sống này và sẽ
vãng sanh vào thế giới Tây Phương Cực Lạc ở mai sau.
Nam Mô A Di Ðà Phật
---o0o---
---o0o---
|Danh
Nhân
Phật Giáo Thế
Giới |
Tủ sách
Phật Học |
---o0o---
Kỹ thuật vi tính: Hải
Hạnh,
Ðàm
Thanh,
Diệu
Nga,
Tâm
Chánh,
Nguyên
Tâm
Bìa sách: Nguyên Nhật An
Trình bày:
Nhị Tường
Cập nhật: 01-07-03