Bangladesh,
một
quốc
gia
nằm
ở
mạn
Nam
châu
Á
với
120
triệu
dân.
Đó
là
một
trong
những
quốc
gia
đông
dân
nhất
thế
giới
(mật
độ
cư
dân:
802,7
người/km2)
và
tín
đồ
Hồi
giáo
chiếm
đa
số.
Chittagong
Hill
Tracts
(CHT,
vùng
đồi
núi
Chittagong)
là
một
vùng
nằm
ở
miền
Đông
Nam
quốc
gia
này
nằm
cạnh
phía
Tây
Nam
nước
Miến
Điện.
Vùng
này
trải
dài
khoảng
năm
ngàn
dặm
vuông,
là
nơi
cư
ngụ
của
500.000
tín
đồ
Phật
giáo.
Họ
phần
lớn
là
cộng
đồng
người
Chakma,
Marma,
Tonchangy
và
Ma-rungs
thuộc
sắc
tộc
Mông
Cổ.
Thêm
vào
đó,
có
khoảng
200.000
Phật
tử
người
Bengali
ở
rải
rác
khắp
các
tỉnh
thành
của
đất
nước
này.
Theo
truyền
thuyết
dân
gian
từ
xa
xưa
của
cộng
đồng
Chakma
thì
dân
chúng
Chakma
phát
xuất
từ
bộ
tộc
Shakya
(Thích-ca),
nơi
đức
Phật
Thích-ca-mâu-ni
đản
sinh.
Sau
khi
Phật
nhập
diệt,
vua
Birurhab
nước
Kaushala,
Ấn
Độ
đã
đem
quân
đội
chống
lại
bộ
tộc
Shakya.
Bộ
tộc
Shakya
nhỏ
nhoi
đó
đã
bất
lực
không
đương
đầu
nổi
với
đội
quân
hùng
mạnh
này
và
hầu
như
bị
tiêu
diệt.
Phần
lớn
đã
chạy
thoát
thân
về
hướng
núi
Himalaya,
trong
khi
một
số
nhỏ
khác
bỏ
chạy
về
phía
Đông
Ấn
Độ.
Về
sau,
số
đông
Phật
tử
gốc
Chakmas
này
băng
qua
Miến
Điện
và
đến
định
cư
ở
Chittagong,
Bangladesh.
Người
Miến
Điện
xưa
thường
gọi
bộ
tộc
Shakya
là
tsak,
một
danh
xưng
mà
có
lẽ
về
sau
đã
biến
đổi
dần
thành
Chakma.
Cộng
đồng
Chakma
là
một
dân
tộc
bản
địa.
Giáo
điển
chính
yếu
của
họ,
bộ
kinh
Agartara,
là
một
phần
căn
bản
trong
Tam
Tạng
Thánh
điển
Phật
giáo.
Các
tăng
sĩ
(Roulees)
theo
truyền
thống
Bắc
tông
ngày
trước
đã
đảm
nhận
những
chức
vụ
trong
Giáo
hội,
cũng
như
ngoài
xã
hội.
Một
trong
những
cổ
truyền
của
họ
là
Bhaddha,
lễ
hội
họp
toàn
gia
tộc
để
dâng
cúng
lễ
Pinda
Dana
cho
thân
bằng
quyến
thuộc
đã
khuất,
và
cầu
nguyện
các
vong
linh
được
vĩnh
viễn
siêu
thoát
mọi
khổ
đau.
Những
di
chỉ
của
vùng
Mohasthan
Garh
thuộc
miền
Bắc
Bengal
và
ngôi
chùa
Phật
giáo
Comilla
Shalban
chứng
minh
rằng
Phật
giáo
đã
được
truyền
bá
khắp
vùng
này.
Hòa
thượng
Shilabhadra
người
Bangladesh
từng
là
Viện
trưởng
của
Đại
học
nổi
tiếng
Nalanda
ở
Ấn
Độ.
Học
giả
Phật
giáo
Atish
Dipankar
từ
Bangladesh
đã
đi
đến
tận
Tây
Tạng
để
truyền
bá
Phật
giáo
Đại
thừa.
Tuy
nhiên,
qua
thời
gian,
Phật
giáo
đã
biến
mất
khỏi
đất
nước
này
ngoại
trừ
vùng
CHT.
Song
ở
vùng
tiểu
lục
địa
Ấn
Độ
vẫn
còn
một
Thánh
địa
danh
tiếng
tên
là
Chitmaram,
nằm
ở
trung
tâm
CHT
bên
bờ
sông
Karnaphulli.
Mãi
cho
đến
giai
đoạn
cải
cách
tôn
giáo
do
Hoàng
hậu
người
Chakma
là
Kalindi
khởi
xướng
cùng
với
sự
giúp
đỡ
của
Tăng
sĩ
Saramedha
Mohasthabira,
dân
Chakma
vẫn
chịu
ảnh
hưởng
của
Đại
thừa
Mật
giáo
(Tây
Tạng).
Một
Tăng
sĩ
khác
đóng
vai
trò
chính
trong
phong
trào
chấn
hưng
Phật
giáo
giữa
dân
chúng
miền
sơn
cước
này
là
ngài
Karmabir
Priya
Ratha
Mohasthabira.
Ngài
đã
sống
đời
tu
sĩ
ba
mươi
lăm
năm
trong
tu
viện,
và
ngài
nghĩ
rằng,
nếu
không
có
giáo
dục
thì
không
thể
cải
thiện
đời
sống,
đạo
giáo
và
gia
đình
được.
Vì
thế,
ngài
đã
từng
cung
cấp
nơi
ăn
ở
cho
học
sinh
và
dạy
giáo
lý
cho
họ,
trong
một
nỗ
lực
đương
đầu
với
những
hoạt
động
chống
phá
xã
hội
và
mê
tín
dị
đoan.
Khi
các
Tăng
sĩ
Mật
tông,
các
vị
Lourees,
bắt
đầu
bị
Ba-la-môn
giáo
và
các
tôn
giáo
Tây
phương
lôi
cuốn,
thì
việc
cải
cách
xã
hội
đã
bị
quên
lãng.
Chính
Tỷ-kheo
Priya
và
các
đồ
đệ
của
ngài
đã
có
thể
che
chở
cộng
đồng
Chakma
dưới
chiếc
dù
Phật
giáo.
Trong
số
những
đệ
tử
của
ngài
có
công
này
là
Ananda
Mitra,
Bimalananda,
Dharma
Ratma,
Sattya
Priya
và
nhiều
Tăng
sĩ
khác.
Và
cuối
thập
niên
50,
một
học
giả
Tam
Tạng,
Hòa
thượng
Agrabangsha
Mohasthabira
hồi
hương
từ
Miến
Điện
và
ngài
đã
trở
thành
người
lãnh
đạo
Phật
giáo
ỡ
Rangamati.
Lúc
đó
ngài
bắt
đầu
phát
triển
Phật
giáo
ở
vùng
đồi.
Năm
1958,
ngài
đã
thành
lập
tổ
chức
Phật
giáo
phi
chính
trị
với
danh
xưng
là
Parbattya
Bhikkhu
Samity
(Hội
Tăng-già
vùng
núi
Bangladesh).
Tổ
chức
về
sau
được
Hòa
thượng
Prajnananda
Mohathera
cải
tổ,
ngài
là
chủ
tịch
Hội
Phật
giáo
Bangladesh.
Vào
năm
1982,
Hội
này
đổi
thành
"Hội
Tăng-già
Parbattya".
Tất
cả
chư
Tăng
và
cư
sĩ
tại
gia
đều
là
thành
viên
của
Hội
này.
Năm
1971,
sau
cuộc
chiến
tàn
sát
đẫm
máu
và
đất
nước
giải
phóng,
Bangladesh
xất
hiện
trên
bản
đồ
của
thế
giới
như
một
quốc
gia
thực
thụ.
Trong
thời
chiến,
nhiều
người
cơ
cực
mất
hết
thân
nhân
đều
tìm
đến
nhiều
tổ
chức
khác
nhau
để
tìm
nơi
nương
tựa.
Nhằm
mục
đích
tạo
nhà
ở
cho
người
vô
gia
cư
lạc
lõng
bơ
vơ
này,
Hòa
thượng
Jnanasri
Mohathera
và
các
đệ
tử
của
ngài,
ĐĐ
Bimaltishya,
ĐĐ
Prajnananda,
ĐĐ
Priyatishya,
ĐĐ
Jinapal
và
tôi
(ngưới
viết
bài
này)
đã
tìm
kiếm
một
miếng
đất
ở
làng
Kangapani,
gần
Ủy
ban
quận
Rangamati.
Ngài
đã
xây
dựng
một
Cô
Nhi
Viện
Phật
giáo
CHT,
để
phục
vụ
cho
dân
nghèo
khổ
bần
cùng
ở
trong
vùng
núi.
Chủ
tịch
Hội
Tăng-già
Phật
giáo
Bangladesh,
ngài
Prajnananda
Mohathera,
hiện
nay
là
Tổng
thư
ký
của
tổ
chức
này,
và
tôi
là
Hiệu
trưởng
của
Viện.
Có
ba
trại
mồ
côi
đang
được
Hội
Phật
giáo
Bangladesh
điều
hành.
Qua
các
trại
mồ
côi
này,
khoảng
2000
trẻ
em
được
giáo
dục
phổ
thông,
giáo
lý
và
kỹ
thuật.
Vào
năm
1986,
Hội
Phật
giáo
Bangladesh
đã
gia
nhập
Hội
Liên
hữu
Phật
giáo
Quốc
tế
(World
Fellowship
of
Buddhism).
Đó
là
tổ
chức
Phật
giáo
duy
nhất
ở
Bangladesh
nhằm
xây
dựng
đời
sống
thiếu
niên
con
em
của
những
người
bần
cùng
ở
xứ
sở
này.
Hiện
nay,
tổ
chức
Phật
giáo
này
đang
quan
tâm
thành
lập
một
trường
Đại
học
Phật
giáo,
một
trường
kỹ
thuật,
một
trường
phổ
thông,
một
bệnh
viện,
một
trung
tâm
báo
chí
và
Thiền
học.
Những
dự
án
khác
là
sẽ
tiến
hành
thành
lập
một
trung
tâm
Thiền,
một
Tu
viện,
một
Viện
nghiên
cứu,
Thư
viện,
Quỹ
bảo
trợ
của
Phật
tử,
Ban
Giáo
dục
Phật
giáo,
Hội
Pali
text,
Viện
bảo
tàng
Phật
giáo,
Trạm
xá...
Là
đại
diện
của
Hội
Tăng-già
và
Hội
Phật
giáo
Bangladesh,
tôi
xin
kêu
gọi
sự
giúp
đỡ
và
hợp
tác
của
tất
cả
các
quốc
gia
Phật
giáo
trên
thế
giới,
cùng
chúng
tôi
hoạt
động
nhằm
phát
triển
Phật
giáo
và
văn
hóa
trong
các
cộng
đồng
chưa
phát
triển
ở
đất
nước
này.
(
Theo
tài
liệu"Seeds
of
Peace",
Thailand,
6/1995)