THERAVÀDA - PHẬT-GIÁO NGUYÊN-THỦY
LUẬT XUẤT-GIA TÓM TẮT
(PABBAJITA VINAYA SANKHEPA)
VANSARAKKHITA BHIKKHU
TỲ-KHƯU HỘ-TÔNG
PL. 2510 -
TL. 1966
TÁI BẢN PL. 2537 - TL. 1993
--- o0o ---
Uposatha, Tàu
dịch là lễ Phát lồ, nghĩa là: khai cái tội để sám hối. Ðức Phật
có dạy "Như Lai chế định phải tụng giới bổn trong ngày Uposatha"
(anujànàmi bhikkhave Uposatha Pàtimokkha addissilum).
Ngày lễ Uposatha
có 3 ngày là: 14 (càtuddasì Uposatha) [1], ngày 15 (pannaràsi
Uposatha) [2], và ngày Tăng hoà hợp (samaggi Uposatha); Tăng
chia rẽ nhau và sự cãi lẽ như chư Tỳ-khưu trong xứ Kosambi, đến
kỳ không làm lễ Uposatha không làm Pavàranà rồi trở lại hoà hảo
nhau, định giải hoà trúng ngày nào, ngày ấy gọi là hoà hợp
(samaggi Uposatha) rồi làm Uposatha trong ngày ấy.
[1] 14 nhằm
ngày 29 Việt Nam ( trong mỗi tháng thiếu).
[2] 15 nhằm ngày rằm và 30 Việt Nam, (trong mỗi tháng đủ).
Lại nữa, nói về
người hành lễ Uposatha có 3:
- Tăng
Uposatha là từ 4 vị Tỳ-khưu trở lên hội hợp tụng giới bổn.
- Nhóm (gana Uposatha) 2, 3 vị Tỳ-khưu tỏ cho nhau biết sự
trong sạch của mình.
- Người (puggala Uposatha) là 1 vị Tỳ-khưu nguyện sự trong
sạch của mình.
Tăng hành lễ
Uposatha phải tụng tuyên ngôn Sunàtu me bhante sangho...
rồi đọc giới bổn.
2, 3 vị Tỳ-khưu
hành lễ Uposatha là khi đến ngày lễ Uposatha là khi đến ngày lễ
như có 3 Tỳ-khưu hội hợp nhau, Tỳ-khưu thông hiểu nên tụng tuyên
ngôn:
Sunàtu me bhante
àyasmanto ajjuposattho catuddaso / pannaraso yadàyas
mantànam pattakallam mayam annamannam àrisuddhi uposatham
kareyyàma.
Nghĩa là:.
xin các ngài
nghe tôi trình. Nay là ngày 14 / 15 ngày là ngày lễ Uposatha,
nếu sự đã đến kỳ cho các ngài rồi, chúng ta nên làm Pàrisuddhi
Uposatha chung cùng nhau.
Rồi vị cao hạ
mặc y chừa vai mặc, ngồi chồm hổm chấp tay, đọc 3 bận tỏ sự
trong sạch của mình đến các vị khác rằng "Parisuddho aham
àvuso parisuddho ti mam dhàrethi" nghĩa là: Này các
ngài, tôi là người trong sạch, xin các ngài nhớ rằng, tôi là
người trong sạch.
Vị thấp hạ đọc
tiếp 3 bận, tỏ sự trong sạch của mình "Parisuddho aham
bhante parisuddho ti mam dhàrethi" (nghĩa như trên).
Nếu chỉ có 2 vị,
thì vị cao hạ đọc 3 bận "Parisuddho aham bhante parisuddho
ti mam dhàrehi".
Vị thấp hạ đọc
tiếp 3 bận "Parisuddho aham bhante parisuddho ti mam
dhàretha".
tỏ sự trong sạch
của mình Parisuddhi với Tỳ-khưu có 2 cách, là tò với Tỳ-khưu
hành lễ Pavàranà rồi và nói với Tỳ-khưu chưa hành lễ Pavàranà.
Tỳ-khưu nhập hạ
sau (pacchimikàvassà: nhập hạ ngày 16 tháng 6) nhưng dứt hạ, đến
ngày (parisuddhi) với Tỳ-khưu hành lễ pavaranà rồi. rằng:
Parisuddho aham
àvuso / bhante Parisuddhotimam dhàretha / dhàrehi
trong các ngày
khác, ngoài ngày Pavàranà, Tỳ-khưu trong chùa hành lễ Uposatha
dứt rồi, chưa đứng dậy hoặc đã đi ra khỏi chùa rồi, có Tỳ-khưu ở
xa lại, số Tỳ-khưu khác bằng nhau hoặc ít hơn số Tỳ-khưu trong
chùa, Tỳ-khưu ở phương xa ấy nên tỏ sự Parisuddhi với Tỳ-khưu
trong chùa đã hành lễ Uposatha rồi, như đã có giải, như thế
gọilà Parisuddhi Uposatha.
adhithàna
Uposatha là, nếu chỉ có 1 Tỳ-khưu thì nên làm pubba karana (quét
tịnh xá, trải đệm, chiếu, đèn, nước) rồi ngồi chờ Tỳ-khưu khác
phương xa đến, nếu chắc không có vị nào đến, nên adhitthàna rằng
"Ajjame Uposatha" nghĩa là "Nay là ngày Uposatha của tôi".
Trong kinh, Chú
giải dạy addhithàna theo ngày rằng:
Ajja me Uposatha
Catuddasati / Pannarasoti adhitthàmi
Nếu đến ngày
Uposatha, ngày Pavàranà, Tỳ-khưu không hành lễ Uposatha, không
hành lễ Pavàranà, ra khỏi chùa đi đến nơi không có chùa, không
có Tỳ-khưu hoặc có Tỳ-khưu mà là nơi không đồng đẳng, phạm Tác
ác, trừ ra ở chung với Tăng hoặc có điều nguy hiểm.
Sự phải làm
trước khi hội hợp (pubbakarana) đẩ hành lễ Uposatha, Pavàranà có
4:
- Quét tịnh
xá.
- Nếu tối phải đốt đèn.
- Dự trữ nước, nước uống, nước rửa.
- Lót trải chiếu, đệm.
Tỳ-khưu trẻ,
không bịnh, nếu vị trưởng lão dạy bảo mà không làm pubbakarana
ấy phạm Tác ác.
Sự phải làm
trước khi tụng giới bổn có 5:
- đem lời
(channa) của Tỳ-khưu bịnh.
- đem parisuddhi Pavàranà của Tỳ-khưu bịnh.
- tỏ thời tiết, là mùa này, tên này, ngày Uposatha trong mùa
này đã qua rồi được bao nhiêu đây, ngày Uposatha, ngày
Uposatha còn lại bao nhiêu đây.
- số Tỳ-khưu hội họp hành lễ bây nhiêu đây
- dạy bảo Tỳ-khưu ni.
Tỳ-khưu ở trong
ranh chùa có bịnh hoặc có đại sự đến hội họp tại tịnh xá không
được, đến ngày hành lễ Uposatha phải cho Channa, cho Parisuddhi,
đến ngày Pavàranà phải cho Channa, cho Pavàranà đến 1 vị
Tỳ-khưu. cách cho Channa ấy để hành lễ Uposatha được thành tựu.
Cho nên, sự cho Parisuddhi, cho Pavàranà, cho Channa, nhưng hiện
thời nếu ranh tịnh xá nhỏ, Tỳ-khưu ở trong vòng ranh,không xa
khỏi hắc (hatthapàsa) với nhau, sự đem Channa, đem Parisuddhi,
đem Pavàranà, cũng không cần làm, Tỳ-khưu ni hiện nay cũng không
có, cho nên dạy bảo (ovàda) Tỳ-khưu ni cũng không cần. hành lễ
Uposatha pavà ranà phải có đủ 4:
1) Phải là
ngày Uposatha, ngày Pavàranà (ngày 14, 15, ngày Tăng hoà hợp,
1 trong 3 ngày ấy).
2) Tỳ-khưu nên
hành lễ sangha Uposatha, gana Uposatha và sangha Pavàranà,
gana Pavàranà được. Các Tỳ-khưu ấy không ngồi xa khỏi hắc
(hatthapàsa) cùng nhau, khi hành lễ trong ranh tịnh xá.
3) Không phạm
tội giống nhau (sabhàgàpatti) (như Tăng không dùng vật thực
sái giờ).
4) Vajjanìya
puggala [*] không có trong hắc Tăng.
[*] có 21 hạng
người : 1. Người thế, 2. Tỳ-khưu ni, 3. Thất xoa ma na
(sikkhàmana), 4. Sadi, 5. Sadi ni, 6. Người đã xả giới hoàn
tục, 7. Tỳ-khưu mà Tăng đã cấm không cho ở chung vì không thấy
tội (antimavatthu), 8. Tỳ-khưu mà Tăng đã cấm không cho ở
chung vì không chịu sám hối, 9. Tỳ-khưu mà Tăng đã cấm không
cho ở chung vì không bỏ kiến thức xấu xa, 10. Bộ nấp, 11.
Người giả tu, 12. Người hành theo ngoại đạo, 13. Thú, 14. Phạm
atimavatthu, 15. Người giết mẹ, 16. Người giết cha, 17. Người
giết A la hán, 18. Người dâm Tỳ-khưu ni, 19. Người chia rẽ
Tăng, 20. Người chích máu Phật, 21. Người có 2 bộ sanh thực
khí.
Nếu có 1 trong 21 hạng này trong hắc Tăng hành sự thì phạm Ưng
đối trị.
Uposatha
Pavàranà đều đủ 4 chi ấy mới nên hành, mới nên nói: Pattakallam
được.
Hành lễ Uposatha
có 4 cách:
- theo phe mà
không đúng theo pháp
- đồng ý nhau mà không đúng theo pháp
- theo phe mà đúng theo pháp
- đồng ý nhau và đúng theo pháp
Trong 1 chùa, có
4 Tỳ-khưu, đem channa, đem parisuddhi của 1 Tỳ-khưu đi, nhưng 3
Tỳ-khưu hành parisuddhi Uposatha hoặc còn 3 Tỳ-khưu đem channa
parisuddhi, đem channa parisuddhi của 1 Tỳ-khưu đi nhưng 2 vị
tụng giới bổn như thế gọi là "theo phe mà không đúng theo pháp"
(adhammena vaggam).
Nếu 4 vị hội hợp
nhau hành Parisuddhi Uposatha hoặc 2 vị hoặc 3 vị đọc giới bổn,
như thế gọi là "đồng ý nhau mà không đúng theo pháp" (adhammena
saggam).
Nếu 4 vị Tỳ-khưu
ở chung chỗ cùng nhau hội hợp tụng giới bổn, có 3 vị hành
parisuddhi Uposatha hoặc có 2 vị tỏ parisuddhi với nhau như thế
gọi là "đồng ý nhau và đúng theo pháp" (dhammena samaggam), 3
cách trên là điều không nên hành, chỉ nên hành theo thứ 4.
Lại nữa, Tỳ-khưu
tụng giới bổn, cố ý làm cho Tăng không nghe được, phạm Tác ác.
Không cố ý, không tội. Tỳ-khưu mà vị trưởng lão chưa thỉnh, tung
giới bổn giữa Tăng, phạm Tác ác.
Nếu không có 1
trong 10 điều nguy hiểm mà tụng giới bổn tóm tắt, phạm Tác ác.
10 điều nguy
hiểm là khi chư Tỳ-khưu hội họp làm lễ Uposatha có:.
- Ðức vua đến
- Bọn cướp đến.
- Lữa cháy đến.
- Nước lụt đến.
- Nhiều người đến.
- Tinh, ma phá Tỳ-khưu.
- Thú dữ đến.
- Rắn mổ Tỳ-khưu.
- Tỳ-khưu bịnh hoặc tịch.
- Người đến níu kéo hoặc bắt Tỳ-khưu hoàn tục.
Nếu có 1 trong
10 điều nguy hiểm ấy nên tụng giới bổn tóm tắt (là Tỳ-khưu tuyên
bố tụng hết điều học Bất cộng trụ ... ). Nếu không có điều nguy
hiểm nào, nên tụng cho hết giới bổn, không hành lễ Uposatha phạm
Tác ác.
Nếu hành lễ
Uposatha ngoài ngày 14, 15 (ngày rằm và 30 hoặc 29 VN, nếu tháng
thiếu), ngày Tăng hoà hợp, phạm Tác ác. đức Phật có dạy, tụng
ngày Uposatha, vị trưởng lão phải hội trước - kinh Chú giải nói,
nếu vị trưởng lão không hội trước thì phạm Tác ác.
Vassà dịch là Hạ
hoặc Nhập hạ, nghĩa là chư vị Tỳ-khưu phải nghỉ trong 1 nơi,
không được ra khỏi chỗ ngụ trước mặt trời mọc trong 3 tháng mưa
(trừ khi hữu sự).
Ðức Phật có dạy
"Như Lai cho phép nhập hạ trong mùa mưa" (anujànàmi bhijkkhave
vassàne vassam upagantum... ). nhập hạ có 22 kỳ:
- Nhập kỳ
trước (purimikàvassupanàyikà) là nhập hạ ngày 16/6.
- Nhập hạ kỳ sau (pacchimikàvassupanàyikà) là nhập hạ ngày
16/7
Ðến kỳ nhập hạ
nên quét dọn trong ranh chùa. chứa nước uống nước rửa ... làm lễ
Tam bảo xong rồi, nên đọc 3 bận Imasmim vihàre imam
temàsam vassam upemi (ta nhập hạ trong nơi này hết 3
tháng) [nếu không có
chùa, thì đọc Àvàse thế chữ Vihàre].
Nếu Tăng đã định
(nhưng quên không đọc câu kinh nhập hạ) ở trong chỗ của Tăng mà
mình đã xin rồi cũng gọi là nhập hạ chơn chánh. Đến ngày mà
không muốn nhập hạ, cố ý đi đến chỗ này nơi kia, phạm Tác ác.
Nếu nhập hạ
không có chỗ ở hoặc chỗ ở không có dừng che lợp, không có cửa
đóng kín phạm Tác ác.
Nếu đã nhập hạ
rồi mà đi khỏi chỗ ở trước mặt trời mọc, phạm Tác ác -- Trừ ra
các hữu sự được phép đi 7 ngày thì không phạm tội.
Trong khi nhập
hạ nếu có 7 hạng người: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Sikkhamànà (Thức
xóa ma na), Sa-di, Sa-di ni, cha, mẹ hữu sự cho hay hoặc không
cho hay, Tỳ-khưu đựơc phép đi ra khỏi chỗ nhập hạ trong khoảng 7
ngày. Nếu đi quá ngày thứ 8, mặt trời mọc lên, phạm Tác ác.
Ngoài 7 hạng
người kể trên, nếu có cư sĩ hữu sự muốn làm phước cho người đến
thỉnh Tỳ-khưu cũng được phép đi 7 ngày, bằng họ không thỉnh,
không nên đi.
Cách thức đi
trong khoảng 7 ngày(sattàhakicca) ấy như vầy:.
Tỳ-khưu hoặc
Sa-di trong hạ trước khi đi ra đường xa phải nguyện: "Ta
sẽ trở về trong khoảng 7 ngày" như thế rồi đi, không cần
phải đọc Pali cũng được. Nếu muốn đọc Pali cho chắn chắn,c àng
thêm tốt, song nên đối trước 1 Tỳ-khưu hoặc 2, 3 vị hoặc giữa
Tăng mà đọc hay là đọc trước "kim thân" hoặc xá lợi Phật cũng
được. Phải đọc như vầy:
"Sace me
amtaràyyo natthi, sattàhabbhantare aham puna nivattisàmi".
"Dutiyampi... ".
"Tatiyampi...
Nghĩa là "Nếu
không có sự rủi ro đến tôi, tôi sẽ trở về trong khoảng 7 ngày";
"Lần thứ nhì..."; "Lần thứ ba... ".
Sattàhakicca ấy
có 2 cách là:
1) Nhập hạ được
1 hay 2 ngày hoặc trong ngày mới nhập hạ ấy, đã nhập từ buổi
chiều cho đến rạng đông, trtước khi mặt trời mọc, nếu có việc
thì được phép đi trong khoảng 7 ngày, khi đi rồi đã làm xong
việc của mình hết 6 ngày, cần phải trở về cho kịp trước khi mặt
trời mọc ngày thứ 7.
Phải tính ngày,
đi ra là 1 ngày, rồi trở về chỗ nhập hạ cho kịp trong buổi tối
trước mặt trời mọc, nghĩa là mặt trời mọc lên thì kể là ngảy thứ
7. Nếu mới nhập hạ trong buổi chiều rồi,nguyện đi liền thì không
nên, phải chờ đến gần sáng mới đi được như thế gọi là "việc phải
làm trong khoảng 7 ngày thứ nhất" (pathamasattàha).
2) Còn 7 ngày
nữa ra hạ, là ngày mùng 9 tháng 9 [1] hoặc mùng 9 tháng 10 [2],
nếu có việc thì được phép đi trong 7 ngày; nhưng phải nguyện trở
lại cho kịp trong khoảng 7 ngày. đi rồi có thể làm xong công
việc trong không 7 ngày, sẽ làm Pavàranà chung với Tỳ-khưu nơi
chùa khác gần đó cũng được, không cần phải trở về, cũng không
đứt hạ. Nhưng trước, không nên nguyện rằng "Ta sẽ không trở về"
như thế đứt hạ, từ khi đi ra khỏi chùa đến bước thứ 2, như thế
gọi là "Việc phải làm trong khoảng 7 ngày cuối cùng".
[1] nói về
Tỳ-khưu nhập hạ trước
[2] nói về Tỳ-khưu nhập hạ sau.
Kinh Chú giải có
nói rõ rằng "Navamito patthàya gantum vattati, àgacchatu và,
magacchatu và, anàpatti na dukkatàraho và hoti".
Nghĩa là: "Nếu
chỉ còn 7 ngày nữa sẽ ra hạ Tỳ-khưu có việc nguyện đi trong 7
ngày, nếu không cò thể được không trở về cũng không sao, không
phạm Tác ác."
Nguyên nhân đứt
hạ, nhưng không phạm tội có 4:
- Tăng chia rẽ
nhau.
- Chư Tỳ-khưu muốn chia rẽ Tăng.
- Có sự rủi ro đến sanh mạng;
- Có sự rủi ro đến phạm hạnh.
Lại nữa, nếu
nhập hạ có thú dữ, khó đi khất thực, kẻ cướp hoặc ma quỉ phá
hại, hoặc chỗ ở bị lửa cháy nước lụt, hoặc khó nuôi sanh mạng,
thiếu thuốc ngừa bịnh, thiếu người hộ độ, được phép đi ra khỏi
nơi ấy không phạm giới, nhưng đứt hạ. Nếu có phụ nữ trêu ghẹo,
có người xin gả con, có thể làm cho hư phạm hạnh, bỏ đi khỏi chỗ
ấy, không phạm tội.
Lại nữa, nếu
thấy hoặc nghe tin có Tỳ-khưu chia rẽ Tăng, cố ý chia rẽ Tăng,
mình tính đi đến có thể hoà giải được, bỏ đi như thế cũng vô
tội, nhưng đứt hạ.
Nếu có thí chủ
thỉnh nhập hạ 3 tháng, mình đã nhận chịu rồi mà lại bỏ đi, phạm
Tác ác, hoặc có Tỳ-khưu rủ nhập hạ cùng nhau để học Pali trong 1
chỗ, đã ưng thuận rồi bỏ đi, phạm Tác ác.
Lại nữa, câu
"Imasmim vihàre imam temàsam vassam upemi" để đọc nhập hạ ấy,
không phải là Phật ngôn, chỉ là lời chú giải của các A la hán.
Cho nên Tỳ-khưu nếu tâm đã quyết định nhập hạ rồi không cần đọc
câu Pali ấy cũng đươc. Phải nên phân ranh chỗ nhập hạ và nên
biết mặt trời: mặt trời đỏ đã mọc rồi, nếu phải ra khỏi chùa thì
phải vào cho kịp trước khi có ánh sáng đỏ mặt trời.
Pavàranà dịch là
Tự Tứ, là sau khi đã nhập hạ 3 tháng (từ 16 tháng 6 đến rằm
tháng 9), chư vị Tỳ-khưu nhóm lại mà tỏ tội cùng nhau.
Ðức Phật có dạy
"Như Lai cho phép Tỳ-khưu đã nhập hạ 3 mãn mùa mưa rồi phải hành
lễ Pavàranà theo 3 điều:
- Vì được
thấy;
- Vì được nghe;
- Vì được nghi."
Pavàranà là sự
tỏ cho nhau, thức tỉnh cho nhau, cho khỏi phạm tội để làm gương
cho nhau và cho kẻ hậu lai noi theo.
Chư Tỳ-khưu nên
hành lễ Pavàranà như vầy: cho Tỳ-khưu thông hiểu tuyên bố cho
Tăng biết rằng:
Sunatume
bhante sangho ajja pavàranà.
Pannarasì / Catuddasì yadi sanghassa pattakallam sangho
pavàreyya.
(Bạch đại đức
Tăng, xin Tăng nghe tôi trình, ngày nay là ngày Pavàranà 15 /
14 nếu lễ Pavàranà đến kỳ cho chư Tăng, chư Tăng nên hành lễ
Pavàranà.).
Rồi vị trưởng
lão nên mặc y chừa vai một bên ngồi chồm hổm chấp tay đọc:
Sangham
àvuso pavàremi ditthena và sutena và parisankàya và vadantu
mamàyasmanto anukampam upadàya passanto patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Nghiã:
Này Ngài, tôi
xin Pavàranà với Tăng nếu có thấy, nghe hoặc nghi, xin các
ngài đem lòng tiếp độ thức tỉnh tôi, khi được biết tôi sẽ hành
theo. lần thứ nhì... lần thứ ba...
Rồi vị thấp hạ
đọc:
Sangham
bhante pavàremi ditthena và sutena và parisankàya và vadantu
mamàyasmanto anukampam upadàya passanto patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Như thế gọi là
lễ Pavàranà.
Ngày Pavàranà có
3: ngày rằm, 30 hoặc 29 tháng thiếu, và ngày chư Tăng hòa hợp
(samaggi).
Nếu nhập hạ kỳ
trước phải hành lễ Pavàranà trong ngày rằm tháng 9, nhập hạ kỳ
sau phải hành lễ Pavàranà trong ngày rằm tháng 10, như đã có
giải trong lễ Uposatha.
Lại nữa Pavàranà
nói về người hành có 3:
- Tăng
Pavàranà.
- Gana Pavàranà.
- Puggala Pavàranà.
Tỳ-khưu từ 5 vị
trở lên gọi là Sangha (Tăng) Pavàranà, nêu hành trì như đã có
giải trước. Tỳ-khưu 2, 3, 4 vị gọi là Gana Pavàranà. Nếu có 3
hay 4 vị, nên cho vị thông hiểu tụng tuyên ngôn:
Sunàtume
ayasmamto ajja pavàranà pannarasì / catuddasì yadàyasmantànam
pattakallam mayam annamannam pavàreyyàma,.
Rồi vị cao hạ
nên mặc y chừa vai 1 bên ngồi chồm hổm chấp tay trước mặt các vị
khác đọc:
Aham àvuso
àyasmanto pavàremi ... patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Rồi vị thấp hạ
đọc:
Aham bhante
(àyasmanto) pavàremi ... patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Nếu chỉ có 2 vị,
không nên đọc tụng tuyên ngôn, hội họp nhau rồi vị cao hạ nên
mặc y chừa vai 1 bên ngồi chồm hổm chấp tay trước mặt các vị
thấp hạ đọc:
Aham àvuso
àyasmantam pavàremi vadamtumam ayasmà... patikarissàmi.
Dutiyampi...
Tatiyampi...
Vị thấp hạ đọc:
Aham
bhante...
Như thế gọi là
Gana Uposatha.
Nếu có 1 vị, khi
đến ngày Pavàranà nên hành Adhitthàna rằng:
Ajja me
pavàranà.
Trong kinh Chú
giải dạy rằng: phải để thêm ngày như vầy:
Ajja me
avàranà catuddasì / pannarasì adhitthàmi.
Như thế gọi là
Puggala Pavàranà.
Trong kỳ lễ
Pavàranà có nhiều vị, không nên đọc Pavàranà chung cùng nhau,
phải đọc mỗi vị 3 bận, trừ ra có duyên cớ như: thí chủ đương bố
thí, Tỳ-khưu đương nghe pháp, đêm gần tàn hành Pavàranà, mỗi vị
3 bận không kịp, hoặc 10 điều nguy hiểm, không thể hành
Pavàranà, mỗi vị đọc 3 bận không kịp, thì đọc mỗi vị 2 bận, nếu
mỗi vị đọc 2 bận không kịp, thì đọc mỗi vị 1 bận, nếu mỗi vị đọc
1 bận không kịp, thì đọc chung cùng nhau với những vị đã nhập hạ
chung một kỳ, nhưng phải tụng tuyên ngôn trước như vầy:
Sunàtu me
bhante sanghoayam brahma cariyantaràyo sace sangho tevàcikam
pavàressati appavàrito và sangho bhavissati yadi sanghassa
pattakallam sangho (devàcikam) ekavàcikam (samà navassikam)
pavàreyya.
Ðọc xong rồi nên
Pavàranà như trước.
Nghĩa là:
Bạch đại đức
Tăng, xin Tăng nghe tôi trình, ấy là điều nguy hiểm đến phạm
hạnh, nếu Tăng pavàranà 3 bận chắc không kịp, điều nguy hiểm
đến phạm hạnh ấy ắt sẽ phát sanh lên không sai. Nếu Tăng sự
vừa đến Tăng rồi, Tăng nên Pavàranà (2 bận), (1 bận) cho
Tỳ-khưu nhập hạ chung 1 kỳ nhau đều Pavàranà chung cùng nhau
(samànavassikà Pavàranà).
VẬT DÙNG THEO
THỜI (Kàlika).
Vật dùng theo
thời có 4:
- Vật để dùng
trong buổi sáng (yàvakàlika).
- Vật để dùng trong 1 ngày, 1 đêm (yàmakàlika).
- Vật để dùng trong 7 ngày (sattàhakàlika).
- Vật để dùng cho đến hết (yàvajìvika).
I. YÀVAJIVÌKA
Giải về
yàvajìvika trước cho dễ bề phâm biệt.
Ðức Phật cho
phép dùng 5 thứ thuốc.
- Rễ cây
- Nước cốt cây.
- Lá cây
- Trái cây
- Nước nhựa cây, trái, múi, và bông, vỏ cây.
Các món ấy đều
là vật để dùng cho đến hết. đã thọ các vật ấy, khi có bịnh đem
ra dùng, được phép cất giữ cho đến hết. không bịnh mà dùng, phạm
Tác ác.
(Tanipatiggahetvà yàvajìvam pariharitum satipaccaye
paribhunnitum asatipaccaye paribhunnatassa àpatti dukkatassa).
II. YÀVAKÀLIKA
5 món ăn: cơm,
bánh sốt, bánh nguội, cá, thịt gọi là bhojana (vật thực).
Ngoài bhojana,
yàvajìvika, sattàhakalika và yàvajìvika ra, các món ăn khác gọi
là vật nhai ăn (khàdanìya) các thứ bánh làm bằng gạo, nếp, đậu,
mè không cần phải kể, dầu là rễ cây, khoai, củ, cộng, đọt lá,
vỏ, bông, trái... cũng đều gọi là khàdanìya
Tóm lại, vật để
làm thuốc gọi là yàvajìvika, vật ăn không gọi là yàvajìvika
được.
Vỏ mía còn vị
ngọt gọi là món ăn, ngòai ra các thứ vỏ cây khác đều thuộc về
yàvajìvika cả.
Các thứ lá như
lá khoai, lá đậu, lá cải, lá xoài không gọi là thuốc được. Các
thứ bông cũng vậy.
Các thứ trái
như: mít, sa kê, thốt nốt, dừa, xoài và những trái khác dùng để
làm món ăn không gọi là yàvajìvika được, các thứ hột cũng vậy.
Bột làm bằng 7
thứ mể, đậu, mè, mít, sa kê đều là vật vật thực. Các thứ nước
nhựa, chỉ nước mía là vật sattàhakàlika, ngoài ra đều là món
thuốc, được phép để dùng cho đến hết.
5 thứ bhojana và
các món khàdaniya là vật chỉ được phép để dùng, từ khi mặt trời
mọc cho đến đúng ngọ, dùng ngoài giờ ấy phạm Ưng xả đối trị. Thọ
lãnh để dành qua ngày sau cũng phạm Ưng xả đối trị.
III. YÀMAKÀLIKA
Có 8 thứ nước:
- nước làm
bằng xoài sống hoặc chín (ambapànam).
- nước làm bằng trái diêm phù (jambupànam).
- nước làm bằng chuối có hột (pocapànam).
- nước làm bằng chuối không hột (mocapànam).
- nước làm bằng trái cà na (madhupànam).
- nước làm bằng trái thị hoặc trái nho (muddikàpànam).
- nước làm bằng rễ cây hoặc ngó sen (sàlukapànam).
- nước làm bằng trái nhãn, chôm chôm (phàtùsa kapànam).
8 thứ nước làm
bằng trái cây ấy gọi là vật chỉ được phép chỉ dùng trong 1 ngày
1 đêm.
Giải về các làm
nước bằng trái xoài: Nên
để xoài vào trong nước rồi đâm, xong đem ra phơi nắng cho chín,
lược lấy nước, thêm mật ong hoặc đường vào rồi dùng. Nếu tự mình
làm thì chỉ được dùng trong buổi sáng. Người chưa tu lên bậc
trên làm, được phép để đến 1 ngày 1 đêm, nếu đem dùng chung với
cơm cũng được nhưng không nên để quá ngọ.
Các thứ nước
trái cây khác cũng làm như thế. Không nên nấu (phơi nắng cho
chìn thì được). Ðức Phật có dạy "Như Lai cho phép dùng vị các
thứ trái cây trừ ra 7 thứ mể. Như Lai cho phép dùng vị của các
thứ lá cây, trừ ra các lá để ăn và luộc chín. Như Lai cho phép
dùng vị của các thứ bông cây, trừ ra bông cà na. Như Lai cho
phép dùng vị của nước mía ròng (anu... sabbam phalarasam
thapetvà dhannaha lasaram - anu... sabbam pattarasam thapetvà
dàkarasam - anu... sabbam puppharasam thapetvà madhuka
puppharasam - anu... ucchurasam).
Các thứ lá cây
đều để thuốc về vật để dùng cho đến hết. Nếu làm cho chín, chung
lộn với vật nào, chỉ được phép để dùng theo vật ấy (vật ăn buổi
sáng, vật dùng, 1 ngày, 1 đêm, hoặc vật dùng trong 7 ngày). Nấu
với nước lã thì thuộc về vị thuốc. Các thứ lá sống hoặc luộc
chín là vật ăn chung trong bữa cơm. Lá vò với nước mát, hoặc
phơi nắng cho chín để làm thuốc cũng nên. Các thứ bông, trừ ra
bông cà na, nên làm thuốc được cả.
Các yàmakàlika,
nếu thọ rồi để dùng quá 1 ngày 1 đêm, đến mặt trời mọc, phạm Tác
ác.
IV.
SATTÀHAKÀLIKA
Sữa lỏng
(sappi), sữa đặc (navanitam), dầu (telam), mật ong (madhu), nước
mía (phànitam) đều là vật để dùng đến 7 ngày. Ðến ngày thứ 8 mặt
trời mọc lên, phạm Ưng xả đối trị, ăn vào, phạm Tác ác.
Sữa bò, sữa dê,
sữa trâu, các thứ thịt của loài thú mà đức Phật không cấm [*],
sữa của loài thú ấy gọi là sữa; về phần mỡ cũng vậy.
[*] 10 thứ
thịt cấm: thịt người, voi, ngựa, sư tử, cọp, beo, gấu, chó,
rắn, chó sói.
Sữa bò, sữa dê,
sữa trâu,... gọi là sữa tươi (khìram). Sữa ấy để lâu, đến chua
gọi là sữa chua (dadhi) [cũng gọi là sữa đặc, sữa lỏng].
Bơ đặc ấy họ thắng lại nữa gọi là bơ lỏng (sappi).
Sữa tươi, chua,
dầu thuộc về yàmakàlika, là vật dùng trong buổi sáng. Sữa đặc,
bơ lỏng là món để dùng đến 7 ngày (sattàhalika).
Dầu, mật ong,
nước mía, sữa đặc, sữa lỏng mà Tỳ-khưu đã thọ trong buổi sáng
dùng làm vật ăn được, nhưng quá ngọ rồi, không nên. Nếu để dùng
ngoài buổi ăn sáng, được cất đến 7 ngày, quá 7 ngày thì phạm Ưng
xả đối trị, kể theo mỗi vật và đồ đựng.
Dầu mè, dầu đu
đủ, dầu cà na là vật ăn buổi sáng. Các thứ dầu khác như dầu hột
cải đều thuộc về yàmakàlika.
Thọ lãnh dầu mè,
buổi sáng, ăn chung trong buổi cơm cũng được, nhưng quá ngọ rồi,
không nên dùng ngoài bữa ăn, được cất đến 7 ngày, để làm thuốc
được phép dùng cho đến hết. Dầu có lộn chút ít nước, hoặc hâm
nóng, chỉ nên dùng trong buổi sáng. Thọ dầu chung với vật thực
cũng vậy, dùng để ngoài da, được phép thoa cho đến hết.
Thọ hột mè, hột
đu đủ, làm dầu trong ngày. Nếu qua ngày thứ 2 mới thắng dầu,
được dùng đến 6 ngày, thắng trong ngày thứ 3, thứ 4 hoặc thứ 6,
nên để đến 5, 4 hoặc 2 ngày. Làm trong ngày thứ 7 chỉ được dùng
trong ngày ấy thôi.
Thọ hột mè, hột
đu đủ để quá 7 ngày, phạm Tác ác.
Thọ dầu dừa, dầu
hột cải và các thứ dầu khác, thứ dầu không có kể trong Pali, để
quá 7 ngày, phạm Tác ác; khác nhau với dầu có nói trong Pali.
Thọ mỡ trong
buổi sáng, thắng trong buổi sáng, dùng ngoài bữa ăn, được phép
để đến 7 ngày. Thọ sái giờ thắng lược sái giờ, đem dùng, phạm 3
tội Tác ác. Thọ trong giờ, thắng lược sái giờ, đem dùng, phạm 3
tội Tác ác. thọ trong giờ, thắng trong giờ, lược ngoài giờ, đem
dùng, phạm 1 tội Tác ác. Thọ trong giờ, thắng trong giờ, lược
trong giờ, không phạm tội.
Thọ trong giờ
đem dùng với cơm cũng nên (không được để quá ngọ). Thọ sái giờ
chỉ nên dùng ngoài bữa cơm và được phép để đến 7 ngày. Quá 7
ngày, phạm Ưng xả đối trị.
Thọ nước mía
(sống hoặc chín) không lộn với xát (cái) được phép dùng như mật
ong.
Thọ đường thẻ,
đường tán, đường phèn làm bằng nước mía, mà họ dâng trong buổi
sáng đem dùng với cơm cũng nên. tự mình là chỉ dùng được ngoài
buổi sáng. các thứ đường ấy là vật sattàhakàlika, dầu có bịnh
hoặc không cũng dùng được đến 7 ngày.
Ðức Phật cho
phép:
- đối với
người bịnh.
- đối với người.
- đối với thì giờ.
- đối với dịp.
- đối với xứ.
- đối với mỡ.
- đối với vị thuốc.
Ðối với người có
bịnh như: Ngài đã cho phép Tỳ-khưu ni ma nhập được ăn thịt tươi,
máu tươi (trừ ra thịt người), ăn trong buổi sáng hoặc buổi chiều
cũng được.
Cho phép đối với
người, như: người ăn hay ợ cơm trở ra khỏi cổ, rồi nuốt vào
không phạm tội.
Cho phép đối với
thì giờ, như: Tỳ-khưu bị rắn cắn được phép dùng 4 thứ thuốc:
nước tiểu, phẩn, tro, đất, nếu không có ai dâng, tự mình lấy
dùng cũng nên.
Cho phép đối với
dịp, như: cho phép Tỳ-khưu dùng vật thực nhiều vị trong khi có
dịp, ngoài ra không nên dùng.
Cho phép đối với
xứ, như: cho Tỳ-khưu ngoài xứ Trung Ấn độ, từ 5 vị trở lên được
phép truyền Tỳ-khưu giới.
Cho phép Tỳ-khưu
thọ mỡ: thắng, lược trong giờ, chỉ nên dùng mỡ lỏng. cho phép
cần dùng mỡ lỏng làm bằng các thứ mỡ của loài thú.
Cho phép đối với
thuốc, như: sữa lỏng, sữa đặc, dầu, mật ong, nước mía, mà
Tỳ-khưu đã thọ rồi được phép dùng tuỳ thích trong buổi sáng ngày
ấy. Quá ngọ, nếu có bịnh nên dùng đến 7 ngày, nhưng các thứ
đường cứng (đường thẻ, đường sắc, đường om, đường tán, đường
phèn) nếu có bịnh thì được phép nhai, không bịnh nên dùng chung
với nước. Cả 5 thứ thuốc ấy, dùng đến 7 ngày, còn dư nên cho đến
người khác hoặc để thoa bó cũng được.
Giải về:
Yavakàlika, yàmakàlika; sattahakàlika và yàvajìvika, để lộn
chung cùng nhau rằng.
"Yàvakàlikena
bhikkhave yàmakàlikam tadahu patiggahitam... sattàhàkàli
kantenakappati".
nghĩa là: "Này
các Tỳ-khưu! Yàmakàlika sattàhakàlika, yàvajivika, 1 trong 3 vật
ấy mà Tỳ-khưu thọ kãnh chung với yàvakàlika, chỉ nên dùng trong
buổi sáng ấy, quá ngọ rồi thôi". Thọ 1 trong 2 vật sattàhakàlika
và yavajivika, chung với yàmakàlika, chỉ nên dùng trong 1 ngày,
1 đêm thôi. Thọ "yàvejivika" chung với "sattàhakàlika", chỉ nên
để đến 7 ngày; qua ngày thứ 8 cho đế người khác ấy là nói về vật
có lộn chung cùng nhau.
Nếu thọ 1 trong
8 thứ nước yàmakàlika chung lộn với dừa, lấy dừa ra 8 thứ nước
yàmakàlika dùng ngoài giờ được. Thọ sữa cục với cơm nguội, lkấy
sữa ra cất dùng đến 7 ngày cũng nên; mật ong đườngcũng vậy.
Vật yàmakàlika,
sattàhakàlika và yàvajivika trộn lộn với vật thực, nếu có thể
lấy ra làm cho thật sạch để dùng theo thời đều được cả. không
sạch, không nên cất giữ.
Tỳ-khưu không
nên nấu nướng vật thực mà được phép hâm nóng những vật đã chín
sẳn. Thí chủ họ dâng cháo nóng, có bỏ hành tỏi, gừng... Tỳ-khưu
không nên đem khuấy cho chín, tính làm cho nguội được, dầu cơm
còn ngòi không nên tính đậy cho chín, đậy cho nóng được, nếu vật
đã chín sẵm đem hâm lại không sao.