---o0o---
Cuốn 16
GIẢI THÍCH: TINH TẤN
BA-LA-MẬT
Hỏi:
Thế
nào là tướng
của tinh tấn?
Ðáp:
Có
khả năng đối với việc làm, phát khởi không khó, ý chí kiên cường,
tâm không mệt mỏi, làm việc rốt ráo, như
vậy là tướng
của tinh tấn.
Lại
nữa, như
Phật dạy: “Tướng
của tinh tấn là thân tâm không ngừng nghỉ”. Ví như
Thích-ca Văn Phật, kiếp trước
từng làm chủ khách buôn, đem các người
buôn đi vào chỗ hiểm nạn, ở đó có quỷ La-sát
đưa
tay ngăn lại nói rằng: “Ngươi
đứng yên đừng nhúc nhích, không cho ngươi
đi”. Chủ khách buôn liền lấy nắm tay phải đánh nó, nắm tay
liền dính không kéo ra
được,
lại lấy nắm tay trái đánh nó, cũng không kéo ra được,
lại lấy chân phải đạp nó, chân bị dính luôn, lại lấy chân trái
đạp nó, cũng dính như
thế, lại lấy đầu húc tới, đầu cũng dính luôn. Quỷ hỏi: “Ngươi
nay đã như
vậy, còn muốn làm gì nữa, tâm ngươi
đã chịu ngừng chưa?”
Ðáp: “Tuy cả năm vóc bị trói dính, nhưng
tâm ta không bao giờ để cho ngươi
dẹp, ta sẽ dùng sức tinh tấn đánh lộn với ngươi,
quyết định không giải đãi thối lui”. Quỷ liền hoan hỷ nghĩ
rằng: “Người
này đởm lực rất lớn”. Liền nói với người
ấy rằng: ”Sức tinh tấn của ngươi
rất lớn, quyết chắc không ngừng nghỉ, ta để cho ngươi
đi”. Người
tu hành như
vậy, đối với thiện pháp, đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm tụng
kinh, tọa thiền, cầu chứng thật tướng
các pháp, không để bị các kiết sử che lấp, thâm tâm không giải
đãi. Ấy là tướng
của tinh tấn.
Tinh
tấn là một tâm sở pháp, siêng làm không trụ tướng,
theo tâm hành, cùng tâm sanh, có giác có quán (tầm tứ), hoặc
không giác có quán, hoặc không giác không quán, như
trong sách A-tỳ-đàm nói rộng.
Ðối
hết thảy
thiện pháp, siêng tu không giải
đãi, ấy là tướng
của tinh tấn. Ở trong năm căn, gọi là Tinh tấn căn, căn tăng
trưởng
thì gọi là Tinh tấn lực, tâm
được
khai ngộ thì gọi là Tinh tấn giác chi, có thể
đưa
đến thành Niết-bàn của Phật đạo, thì gọi là Chánh tinh tấn.
Trong bốn Niệm xứ, siệng năng buộc tâm là Tinh tấn phần. Bốn
Chánh cần là Tinh tấn môn. Trong bốn Như
ý túc, dục và tinh tấn là Tinh tấn như
ý túc. Trong sáu Ba-la-mật gọi là Tinh tấn Ba-la-mật.
Hỏi:
Ông
trước
kia đã nói khen ngợi tinh tấn, nay nói tướng
của tinh tấn, ấy là tinh tấn gì ?
Ðáp:
Ấy là
tướng
tinh tấn đối với
hết thảy thiện
pháp.
Hỏi:
Nay
đang luận nghị về Ðại Bát-nhã Ba-la-mật, thì chỉ nên nói Tinh
tấn Ba-la-mật, chứ sao lại nói tinh tấn đối
hết thảy thiện pháp?
Ðáp:
Bồ-tát
mới phát tâm, phải tinh tấn đối
hết thảy thiện
pháp, dần dần mới
được
Tinh tấn Ba-la-mật.
Hỏi:
Tinh
tấn đối với
hết thảy thiện pháp thì có nhiều, nay chỉ nói
Tinh tấn Ba-la-mật là đã nhiếp vào trong sự tinh tấn đối với
hết thảy thiện pháp rồi?
Ðáp:
Tinh
tấn vì Phật đạo gọi là Ba-la-mật, còn tinh tấn vì các
thiện pháp khác thì chỉ gọi là tinh
tấn mà không gọi là
Ba-la-mật.
Hỏi:
Siêng năng đối với
hết thảy thiện
pháp, sao không gọi là Tinh tấn
Ba-la-mật, mà chỉ gọi Bồ-tát
tinh tấn mới Ba-la-mật?
Ðáp:
Ba-la-mật
gọi là đến bờ kia, người
thế gian và Thanh-văn, Bích-chi Phật không thể hành tinh tấn
một các đầy đủ, cho nên không gọi là Ba-la-mật. Lại nữa, người
ấy không có tâm đại từ, đại bi, bỏ rơi
chúng sanh, không cầu các thiện pháp như
mười
Lực, bốn Vô sở úy, Mười
tám pháp bất cọng, Nhất thiết trí và Vô ngại giải thoát, Vô lượng
thân, Vô biên quang minh, Vô lượng
âm thanh, Vô lượng
trì giới, Thiền định, Trí tuệ, do vậy người
ấy tinh tấn mà không
gọi là Ba-la-mật.
Lại
nữa, Bồ-tát
tinh tấn không ngừng không nghỉ,
nhất tâm cầu Phật đạo. Tu hành như
vậy gọi là Tinh tấn Ba-la-mật. Như
Bồ-tát Hảo
Thí vì cầu ngọc Như
ý mà tháo cho chảy cạn biển lớn, dầu gân xương
bị khô kiệt, trọn không giải đãi
phế bỏ, để
được
ngọc Như
ý, cấp thí cho chúng sanh, cứu vớt sự khổ nơi
thân họ. Bồ-tát làm
được
việc khó làm như
vậy; ấy
là Bồ-tát Tinh tấn Ba-la-mật.
Lại
nữa, Bồ-tát
lấy lực tinh tấn làm đầu để thực
hành năm Ba-la-mật kia, khi ấy gọi là Bồ-tát Tinh tấn
Ba-la-mật. Ví như
hòa hợp đủ các thứ thuốc mới trị lành trọng bệnh, Bồ-tát
tinh tấn cũng như
vậy, chỉ thực hành tinh tấn mà không thực hành năm Ba-la-mật
kia, thời không gọi là Bồ-tát Tinh tấn Ba-la-mật.
Lại
nữa, Bồ-tát
tinh tấn không phải vì tài lợi,
giàu sang, thế lực; cũng không vì thân, không vì sanh lên
trời, làm Chuyển luân Thánh vương,
Phạm-thiên, Ðế-Thích, Thiên-vương,
cũng không vì cầu Niết-bàn cho riêng mình, mà chỉ vì Phật đạo,
lợi ích chúng sanh. Các tướng
như
vậy, gọi là Bồ-tát Tinh tấn Ba-la-mật.
Lại
nữa, Bồ-tát
tinh tấn, tu hành hết thảy
thiện pháp đều lấy tâm đại bi làm
đầu, như
cha mẹ lành, chỉ có một đứa con, mà nó bị bệnh nặng, thì nhất
tâm tìm thuốc, để cứu bệnh cho con. Bồ-tát
tinh tấn, lấy tâm từ làm đầu cũng
như
vậy, cứu vớt cho hết thảy tâm không tạm rời bỏ.
Lại
nữa, Bồ-tát
tinh tấn, lấy trí tuệ biết rõ thật
tướng
làm đầu, để thực hành sáu Ba-la-mật; ấy gọi là Bồ-tát Tinh tấn
Ba-la-mật.
Hỏi:
Thật
tướng
của các pháp là vô vi vô tác, còn
tinh tấn là hữu vi hữu tác, làm sao
lấy thật tướng
làm đầu?
Ðáp:
Tuy
biết thật tướng
các pháp là vô vi vô tác, nhưng
vì bản nguyện đại bi muốn độ chúng sanh nên ở trong vô tác mà
dùng lực tinh tấn độ thoát hết thảy.
Lại
nữa, nếu thật tướng
các pháp đã là vô vi như
tướng
Niết-bàn, không một không hai thì ông làm sao nói thật tướng
khác với tướng
tinh tấn
ư?
Chính là ông không hiểu rõ thật tướng
các pháp thế nào cả!
Lại
nữa, Bồ-tát
được
lực thần thông, dùng Thiên nhãn thấy chúng sanh trong ba cõi,
năm
đường
vì mất vui nên khổ, thấy chư
thiên ở cõi Vô sắc vì ham vui trong thiền định, tâm mê đắm
không giác tỉnh, khi mạng tận phải rơi
trở lại trong cõi Dục, thọ thân hình cầm thú.
Thấy
chư
thiên ở cõi Sắc cũng như
vậy, từ chỗ thanh tịnh bị đọa trở lại chịu sự dâm dục ở trong
bất tịnh.
Thấy
sáu tầng trời ở cõi Dục
ưa
đắm ngũ dục, nên trở lại đọa vào địa ngục, chịu các khổ thống.
Thấy
trong nhân đạo, nhờ phước
của mười
điều thiện đổi
được
thân người,
thân người
thì nhiều khổ ít vui, mệnh tận phần nhiều bị đoạ vào
đường
ác.
Thấy
các súc sanh chịu các khổ não, roi gậy đuổi chạy, chở nặng đi
xa, cổ họng bị đâm thủng, sắt nóng thiêu đốt, đó là những người
vì hạnh nghiệp đời trước,
trói buộc chúng sanh, roi gậy đánh đập khổ não. Vì các nhân
duyên như
vậy cho nên phải chịu mang thân hình cầm thú voi ngựa, trâu
dê, hưu
nai.
Thấy
người
có tính dâm dục nặng, vô minh nhiều thì chịu làm loài ngỗng
ngang, chim sẻ, uyên
ương,
tu hú, bồ câu, gà, vịt, anh võ, chim trăm lưỡi.
Làm các thứ chim trăm ngàn chủng loại, do tội dâm dục mà thân
mọc lông vũ, bị cách bức với các thứ xúc trơn
mịn, mỏ cựa thô cứng, không phân biệt
được
sự xúc chạm.
Thấy
người
sân giận nhiều, thì chịu làm loài trùng như
rắn độc, rết, bò cạp, sâu bò, ong. làm trăm chân ngậm độc.
Thấy
người
ngu si nhiều, thì chịu làm loài giun, con ngãi, bọ hung, kiến
hôi, cú mèo, loài chim mạnh tợn, những thứ trùng chim lẫn
thẫn.
Thấy
người
kiêu mạn sân giận nhiều, thì chịu mang thân mãnh thú như
sư
tử, hổ báo. Do tà mạn mà chịu sanh trong loài lừa, heo, lạc
đà. Người
xan tham, tật đố, khinh khi, nóng nảy, ngắt ngặt thì chịu mang
hình con khỉ, khỉ đột, gấu. Do nghiệp nhân tà tham ghen ghét
thì chịu mang hình các loại thú mèo, chồn, cọp đất. Do nghiệp
nhân không biết hổ thẹn, tham ăn tham uống nên chịu mang hình
hài các loài chim quạ, chim khách, kên kên. Do khinh mạn người
lành nên chịu mang thân gà, chó, chồn. Làm việc bố thí lớn mà
tâm sân giận quanh co, do nhân duyên ấy nên chịu mang thân
loài rồng. Làm việc bố thí lớn mà tâm cao ngạo lăng ngược,
làm khổ não chúng sanh nên chịu mang thân chim Kim-sí. Do các
kiết sử hành nghiệp nhân duyên như
vậy nên chịu các thống khổ của loài cầm thú súc sanh.
Bồ-tát
được
thiên nhãn quán thấy chúng sanh luân chuyển năm
đường,
cứ quanh quẩn trong đó. Chết ở cõi trời sanh vào cõi người,
chết ở cõi người
sanh lên cõi trời; chết ở cõi trời sanh vào địa ngục, chết ở
địa ngục sanh lên cõi trời; chết ở cõi trời sanh vào ngạ quỷ,
chết ở ngạ quỷ lại sanh lên cõi trời; chết ở cõi trời sanh vào
súc sanh, chết ở súc sanh lại sanh lên cõi trời; chết trên cõi
trời trở sanh lại trên cõi trời. Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
cũng như
vậy.
Chết
trong cõi Dục sanh trong cõi Sắc, chết trong cõi Sắc sanh
trong cõi Dục;
chết
trong cõi Dục sanh trong cõi Vô sắc; chết trong cõi Vô sắc
sanh trong cõi Dục; chết trong cõi Dục lại sanh trong cõi
Dục. Cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng như
vậy.
Chết
trong Hoạt địa ngục sanh trong Hắc-thằng địa ngục, chết trong
Hắc-thằng địa ngục sanh trong Hoạt địa ngục; chết trong Hoạt
địa ngục sanh lại trong Hoạt địa ngục. Hợp hội địa ngục cho
đến A-tỳ địa ngục cũng như
vậy. Chết trong Thán-khanh địa ngục sanh trong Phất-xí địa
ngục, chết trong Phất-xí địa ngục sanh trong Thán-khanh địa
ngục; chết trong Thán-khanh địa ngục sanh lại trong Thán-khanh
địa ngục. Thiêu-lâm địa ngục cho đến Ðại Ba-đầu-ma địa ngục
cũng như
vậy. Triển chuyển sanh vào trong đó.
Chết
trong loài noãn sanh lại sanh trong loài thai sanh; chết trong
loài thai sanh lại sanh trong loài noãn sanh; chết trong loài
noãn sanh lại sanh trong loài noãn sanh. Thai sanh, thấp
sanh, hóa sanh cũng như
vậy.
Chết
trong châu Diêm-phù-đề sanh trong châu Phất-bà-đề; chết trong
châu Phất-bà-đề sanh trong châu Diêm-phù-đề; chết trong châu
Diêm-phù-đề sanh lại trong châu Diêm-phù-đề. Châu Cù-đà-ni
Uất-đơn-la-việt
cũng như
vậy.
Chết
ở chỗ Tứ-thiên-vương
sanh trong Ðao-lợi thiên; chết trong Ðao-lợi thiên sanh ở chỗ
Tứ-thiên-vương;
chết ở chỗ Tứ-thiên-vương
lại trở sanh ở chỗ Tứ-thiên-vương.
Ðao-lợi thiên cho đến Tha-hóa-tự-tại thiên cũng như
vậy.
Chết
trong cõi trời Phạm-chúng, sanh trong cõi trời Phạm-phụ; chết
trong cõi trời Phạm-phụ sanh trong cõi trời Phạm-chúng; chết
trong cõi trời Phạm-chúng sanh trở lại trong cõi trời
Phạm-chúng. Trời Phạm-phụ, trời Thiểu-quang, Vô-lượng-quang,
Quang-âm, Thiểu-tịnh, Vô-lượng-tịnh,
Biến-tịnh, A-na-bạt-la-già, Ðắc-sanh, Ðại-quả, Hư-không-xứ,
Thức-vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng
cũng như
vậy. Chết trong cõi trời Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng
sanh trong địa ngục A-tỳ. Như
vậy triển chuyển sanh trong năm
đường.
Bồ-tát quán thấy như
vậy rồi, sanh tâm đại bi: “Ta đối với chúng sanh không có lợi
ích gì, tuy giúp cho cái vui thế gian, khi vui cùng tột thời
khổ. Vậy ta hãy lấy cái vui chơn
thường
của Niết-bàn Phật đạo giúp ích cho tất cả. Làm sao giúp ích?
Phải siêng năng đại tinh tấn, mới
được
trí tuệ chơn
thật,
được
trí tuệ chơn
thật biết
được
thật tướng
của các pháp, lấy các Ba-la-mật khác giúp thành để làm lợi ích
cho chúng sanh”, ấy là Bồ-tát Tinh tấn Ba-la-mật.
Bồ-tát quán thấy trong loài Ngạ quỷ bị đói khát, hai mắt bị
hăm sâu, lông tóc dài, chạy đông chạy tây; nếu muốn chạy đến
chỗ nước
thì bị các con quỷ giữ nước
lấy gậy sắt đánh đuổi lui; nếu không có quỷ giữ gìn thì nước
tự nhiên khô; hoặc trời có mưa,
nước
mưa
hóa thành than. Hoặc có loài Ngạ quỷ thường
bị lửa đốt, như
lúc kiếp tận, các núi đều tuôn lửa. Hoặc có loài Ngạ quỷ gầy
guộc chạy cuồng, lông tóc rối loạn phủ khắp thân mình. Hoặc
có loài Ngạ quỷ thường
ăn phân, nước
giải, nước
mắt, đồ nhơ,
mũi, nước
cặn bã rửa ráy, có khi đi đến đứng bên cầu xí rình chờ đồ bất
tịnh. Hoặc có loài Ngạ quỷ thường
tìm tàng huyết của sản phụ để uống, thân hình như
cây cháy, cổ như
lỗ kim; nếu cho nó nước
uống ngàn năm không đủ. Hoặc có loài Ngạ quỷ tự phá đầu mình,
lấy tay móc não mà liếm. Hoặc có loài Ngạ quỷ thân hình như
núi đen, bị móc sắt móc cổ, dập đầu cầu thương
xót, lạy lục lính ngục. Hoặc có loài Ngạ quỷ, đời trước
ác khẩu,
ưa
lấy lời thô ác gia hại chúng sanh, thấy chúng sanh rất oán
ghét, trông thấy như
kẻ thù. Vì tội ấy mà bị đọa vào
đường
ngạ quỷ chịu vô lượng
thống khổ.
Bồ-tát quán thấy tám đại địa ngục, khổ độc muôn mối: Thấy
trong đại địa ngục “Hoạt” các tội nhân đấu tránh nhau, ác tâm
sân giận tranh giành, tay cầm dao bén chặt chém lẫn nhau, lấy
giáo dài đâm nhau, lấy chĩa sắt thọc nhau; lấy gậy đánh nhau,
lấy đùi sắt đả nhau, dây sắt quấn nhau; lấy dao bén vằm nát
nhau, lấy móng tay sắt cào xé nhau, lấy máu nơi
thân bôi trét nhau. Khổ độc bức thiết mê man không biết gì.
Do nhân duyên của nghiệp trước
mà có ngọn gió lạnh thổi đến, lính ngục kêu lên: “Ôi chao!
Tội nhân sống lại!” Liền sống lại. Sống lại lại tiếp chịu
khổ độc. Do vậy nên gọi là địa ngục Hoạt (sống). Những chúng
sanh ở trong đây do nhân duyên hành nghiệp đời trước,
ham giết sanh vật như
trâu, dê, cầm thú. Vì ruộng vườn
nhà cửa, nô tỳ vợ con, quốc thổ tiền tài mà giết hại lẫn
nhau. Do các thứ nghiệp báo giết hại như
vậy, mà phải chịu tội quá lắm như
vậy.
Thấy
tội nhân trong đại địa ngục “Hắc-thằng” bị quỷ La-sát hung ác,
ngục tốt, thợ quỷ, thường
lấy dây sắt cháy đen đo đạt tội nhân, lấy búa sắt trong ngục
sai người
đẵn chém dài làm cho ngắn, ngắn làm cho dài; vuông làm cho
tròn; tròn làm cho vuông; chém đứt tứ chi, xẻo bỏ tai mũi, cắt
rớt chân tay, lấy cưa
sắt cưa
xẻ chặt đứt, phá phần máu huyết, thái thịt từng miếng đem cân.
Những
tội nhân này do hành nghiệp nhân duyên đời trước
hay dèm pha kẻ trung lương,
nói dối, ác khẩu, nói hai lưỡi,
nói thêu dệt, giết oan kẻ vô tội, hoặc làm sứ gian, hung bạo
xâm lăng sát hại quá lắm. Do các thứ ác khẩu dèm pha như
vậy, nên phải chịu tội ấy.
Thấy
trong địa ngục “Hợp-hội” loài ác La-sát, lính ngục làm ra các
hình thù trâu, ngựa, heo, dê, hươu,
nai, chồn, chó, cọp, sói, sư
tử, loài lục bác, voi lớn, kên kên, chim cắt, chim nhỏ. Làm
ra các thứ đầu chim, đầu thú đi đến nuốt cắn, mổ xé, nghiến
ngấu tội nhân. Hai núi ép lại (hợp hội), vành sắt nóng lớn ép
nghiến làm cho thân tội nhân tan nát, ở trong cối sắt giã làm
cho nát; như
ép dầu, ép nho; ví như
bãi chiến trường
bị dày xéo, thịt chứa thành đống, đầu chất như
núi, huyết chảy thành ao; kên kên, chim cắt, cọp sói lạit
tranh nhau cấu xé. Những tội nhân này do nhân duyên hành
nghiệp đời trước,
hay giết trâu, ngựa, heo, dê, hươu,
nai, chồn, thỏù, cọp, sói, sư
tử, loài lục bác, voi lớn, tàn hại rất nhiều điểu thú như
vậây, cho nên bị các loài điểu thú đến làm hại lại. Lại lấy
thế lực lấn áp, ép uổng kẻ hèn kém, nên phải chịu tội hai núi
ép lại. Tham xẻn, giận tức, ngu si, sợ hãi, sử đoán việc
khinh trọng không theo chánh lý. Hoặc phá chánh đạo,thay đổi
chánh pháp, nên phải chịu vòng sắt nóng nghiến nát, cối sắt
nóng giã tan.
Thứ tư,
thứ năm là địa ngục “Khiếu-hoán, Ðại-khiếu-hoán”. Tội nhân ở
trong địa ngục này bị quỷ La-sát, Ngục tốt đầu vàng như
kim, trong mắt tuôn lửa, mặc áo sắt đỏ, thân thịt cứng rắn,
chạy nhanh như
gió, tay chân dài to, miệng buông lời ác, dùng chĩa ba mũi,
tên bay như
mưa,
đâm bắn tội nhân, tội nhân cuồng chạy, cúi đầu cầu xin Ðại tướng
quân buông tha một chút, tức thời bị
đưa
vào địa ngục sắt nóng, ngang dọc một trăm do tuần, đuổi đánh
rong chạy, chân đều bị cháy, mỡ tủy chảy ra; như
ép sữa dầu, gậy sắt đánh đầu, đầu vỡ não chảy như
bình sữa; lại chém đâm cắt lóc, thân thể nát tan, rồi lại
đưa
vào nhàsắt, trong nhà khói đen xông lên, xô đè lẫn nhau; lại
oán hại lẫn nhau, đều nói: “Sao lại đè ép ta?” Vừa muốn tìm
ra thì cửa dã đóng, cất to tiếng gào khóc, âm vang không ngớt.
Những
người
này do hành nghiệp nhân duyên đời trước
đều bởi đo lường
gian cân dối, đoán sự phi pháp, nhận gởi không trả, lấn hiếp
kẻ thấp kém, não hại kẻ nghèo cùng, làm cho kêu khóc, phá
thành quách người,
phá xóm làng người,
làm tổn hại cướp
bóc, nhà nhà oán ghét, cả thành kêu la, có khi lừa bịp dối trá
dụ dỗ cho đi ra rồi lại hại tiếp. Do các nhân duyên như
vậy, nên phải chịu tội thế ấy.
Những
người
trong địa ngục “Ðại-khiếu-hoán”, đều là loài người
bắt kẻ khác ở trong hang mà hun khói giết, đây là nhà giam
đóng kín u tối. Hoặc bắt ở trong hang hun khói tối tăm, hun
khói giết chết, hoặc quăng kẻ khác xuống giếng mà cướp
đoạt tài sản người.
Do các nhân duyên như
vậy, nên phải chịu tội ở địa ngục Ðại-khiếu-hoán (kêu la to).
Thứ
sáu, thứ bảy là địa ngục “Nhiệt, Ðại nhiệt”. Trong hai địa
ngục này có hai cái vạc đồng lớn, là Nan-đà và Bạt-nan-đà,
chứa đầy nước
mặn sôi, quỷ La-sát, ngục tốt bắt tội nhân quăng vào trong đó,
như
người
đầu bếp nấu thịt. Người
ở trong vạc, đầu chúc xuống chân chõng ngược
lên; giống như
nấu đậu nhừ nát, xương
tiếc rã rời, da thịt ly tán, biết đã nát rồi, lấy đĩa vớt
ra. Do hành nghiệp nhân duyên nên có ngọn gió lạnh thoåi đến
liền sống lại; lại tiếp quăng vào hầm than, hoặc quăng trong
tro nóng, giống như
cá ra khỏi nước;
lại để trên cát nóng; lại lấy máu mủ mà tự nấu nung.
Từ
trong hầm than lại bỏ trên giuờng lửa, cưỡng
ép bắt ngồi; mắt, tai, mũi, miệng và các lỗ chân lông, tất cả
đều bốc lửa. Người
này đời trước
làm não hại cha mẹ, sư
trưởng,
Sa-môn, đối trước
các phước
điền, người
tốt bức não làm cho họ nóng bức. Do tội ấy phải chịu tội ở
địa ngục “Nhiệt” nóng. Hoặc có người
lấy cây xâu người
nướng
sống, hoặc thiêu đốt núi rừng, đồng nội, làng xóm, tượng
Phật, tinh xá v.v...; hoặc xô chúng sanh rớt trong hầm lửa.
Do các nhân duyên như
vậy, phải sanh trong địa ngục “Nhiệt, Ðại nhiệt” này.
Thấy
trong A-tỳ địa ngục, dọc ngang bốn ngàn dặm, tường
sắt bao quanh, so với bảy địa ngục trên thì chỗ này rất sâu.
Ngục tốt, quỷ La-sát lấy chùy sắt lớn đánh đập tội nhân, như
thợ rèn đập sắt, lột da từ đầu đến chân, lấy năm trăm cái đinh
đóng vào thân, như
xẻ da trâu, giằng kéo lẫn nhau bị phá nát theo tay kéo. Xe
lửa sắt nóng nghiền thân xác, đuổi vào hố lửa bắt ôm than ra
lại đuổi vào trong sông phân sôi nóng, có trùng độc mỏ sắt,
chui vào từ đằng mũi ra đằng chân, hoặc chui từ bàn chân ra
đằng mồm. Hoặc đuổi vào
đường
dựng kiếm, bàn chân rách nát như
nhà bếp nấu thịt; đao, kiếm, giáo bén nhọn bay đâm vào thân như
sương
xuống lá tụng, theo gió rơi
xuống. Tay, chân, tai, mũi các chi tiết đều bị róc lột chặt
đứt rơi
xuống đất, máu chảy thành ao. Hai con chó dữ lớn là Xa-ma vaø
Xa-bà-la mồm sắt cứng mạnh, phá nát gân xương
người,
sức hơn
hổ báo, mạnh như
sư
tử. Có rừng gai lớn, khua đuổi tội nhân, bắt trèo lên cây;
khi tội nhân leo lên thì gai chỉa xuống, khi tội nhân trụt
xuống thì gai chọc lên. Rắn độc lớn, rết, bò cạp, ác trùng
tranh nhau lại cắn cấu. Chim to mỏ dài, mổ đầu ăn óc. Vào
sông nước
mặn, theo nước
chảy lên xuống; khi ra khỏi phải đạp trên đất sắt nóng, đi
trên gai sắt; hoặc ngồi trên mác sắt, mác từ dưới
đâm lên, rồi lấy kềm vạch miệng rót đồng sôi vào. Nuốt hòn
sắt nóng, vào miệng miệng tiêu, vào cổ cổ tan, vào bụng bụng
cháy, năm tạng đều tiêu, rơi
thẳng uống đất, chỉ thấy cảnh xấu ác, thường
nghe hơi
hôi thối, thường
chạm xúc thô rít, gặp toàn các thống khổ, mê man ủ rũ. Hoặc
chạy cuồng loạn xông xáo, hoặc lẩn trốn quăng vất, hoặc ngã
ngiêng toạ lạc.
Người
này đời trước
thường
tạo trọng tội ngũ nghịch đại ác, dứt hết thiện căn, pháp nói
là phi pháp, phi pháp nói là pháp; thật nói là không thật,
không thật nói là thật; phá nhân phá quả, ganh ghét người
lành. Vì các tội ấy, nên vào địa ngục A-tỳ này chịu tội rất
kịch liệt.
Có
tám địa ngục lớn như
vậy. Lại có mười
sáu địa ngục nhỏ làm quyến thuộc, đó là ngục băng lạnh, tám
ngục lửa nóng, trong đó tội độc, không thể thấy nghe.
Tám
địa ngục hỏa nóng là hầm than, phân nóng, rừng cháy, rừng gươm,
đường
đao, rừng gai sắt, sông mặn, cọc sắt ấy là tám. Tám địa ngục
băng lạnh là Án-phù-đà, Ni-la-phù-đà, A-la-ca, A-bà-bà,
Hầu-hầu, Âu-ba-la, Ba-đầu-ma, Ðại Ba-đầu-ma, ấy là tám. Nếu
phá giới hạnh thanh tịnh của phép xuất gia để kẻ cư
sĩ khinh rẻ Phật đạo. Hoặc xô chúng sanh rớt trong hố lửa,
hoặc khi mạng chúng sanh chưa
hết mà đem nướng
trên lửa. Do các nhân duyên như
thế, nên bị đọa vào địa ngục hầm than, lửa cháy than nóng đến
gối, thiêu đốt thân tội nhân.
Nếu
món ăn của ruộng phước
tức là Sa-môn,
Bà-la-môn mà lấy
tay bẩn sờ mó vào, hoặc ăn trước,
hoặc lấy vật bất tịnh bỏ vào, hoặc lấy nước
phân nóng đổ vào thân người
ta, phá tịnh mạng lấy tà mạng nuôi sống.
Do các nhân duyên như
thế, phải đọa trong ngục phân sôi. Ðịa ngục phân sôi rộng sâu
như
nước
biển cả trong đó có loài trùng nhỏ, mõ sắt phá đầu tội nhân ăn
óc, phá xương
ăn tủy.
Nếu
thiêu đốt cỏ cây, làm thương
hại các loài trùng, hoặc đốt rừng săn bắn gây hại rất nhiều.
Do các nhân duyên như
thế, phải đọa trong địa ngục rừng cháy, lửa cháy cỏ cây để đốt
tội nhân.
Nếu
cầm dao kiếm tranh đấu, giết hại, hoặc chặt cây để báo oán cũ,
hoặc người
đem lòng trung tín thành thật khuyến cáo, lại bí mật cùng nhau
hãm hại. Do các nhân duyên như
thế, phải đọa trong địa ngục rừng gươm.
Tội nhân vào trong địa ngục này gió thổi là gươm
chém, chặt tay chân, tai mũi đều bị rơi
rụng, Khi ấy trong rừng có chim cắt, chó dữ tranh nhau ăn
thịt.
Nếu
lấy dao bén đâm người,
hoặc cọc gỗ, hay lấy thương
đao đánh giết người,
hoặc cắt đứt
đường
sá, phá đổ cầu cống, phá chánh pháp chánh đạo, chỉ bày phi
pháp phi đạo. Do các nhân duyên như
thế, phải đọa trong địa ngục
đường
đao, ở chỗ
đường
hẹp vách cao, dựng đao bén bắt tội nhân đi trên ấy mà qua.
Hoặc phạm tà dâm, xâm phạm phụ nữ người
ta, ham hưởng
thú vui xúc phạm. Do các nhân duyên như
thế, phải đọa trong địa ngục rừng gai sắt, cây gai cao một do
tuần, trên có rắn độc lớn hóa thành thân gái đẹp, gọi tội nhân
trèo lên cùng hưởng
vui. Ngục tốt đuổi bắt trèo lên, gai đều chĩa xuống đâm suốt
tội nhân vào xương
thấu tủy. Khi đã đến trên cây, hóa nữ liền trở lại thân rắn,
phá đầu rúc vào bụng tội nhân nơi
nơi
moi thành hang lỗ đều bị phá nát, bỗng trở lại thành thân thể
bính phục, hoá nữ lại ở dưới
cây gọi xuống, ngục tốt lấy cung tên bắn lên, kêu phải trụt
xuống, gai lại chọc ngược
lên. Khi đã xuống đến đất, thân hóa nữ trở lại làm Rắn độc,
phá thân tội nhân.
Như
vậy, lâu lâu từ rừng gai sắt nóng đi ra, xa thấy nước
sông trong mát khoái lạc chạy đến bơi
lội vào thì biến thành nước
mặn sôi nóng, tội nhân ở trong đó chốc lát da thịt rã rời, xương
dựng đứng trong nước,
quỷ La-sát laáy xoa móc ra đem bỏ trên bờ.
Người
này do nhân duyên hành nghiệp đời trước
tàn sát loài thủy tánh, hoặc xô người,
các chúng sanh chìm vào trong nước,
hoặc ném vào nước
sôi, nước
băng. Do các nhân duyên ác nghiệp như
vậy, nên phải chịu tội ấy.
Hoặc
ở địa ngục “Cọc đồng” Ngục tốt, La-sát hỏi các tội nhân: “Ngươi
từ đâu đến?” Ðáp: “Tôi đau khổ mê man không rõ từ đâu đến,
chỉ lo đói khát”. Khi ấy nếu nói khát, thì ngục đồng liền
đuổi tội nhân bắt ngồi trên cọc đồng nóng, lấy kềm sắt vạch
miệng, rót nước
đồng sôi vào. Nếu nói dối thì bắt ngồi trên cọc đồng nuốt
hoàn sắt nóng, vào miệng miệng tiêu, vào cổ cổ tan, vào bụng
bụng cháy, năm tạng tiêu hoại, rơi
thẳng xuống đất. Người
này vì nhân duyên của các hành nghiệp đời trước,
hay trộm cướp
tài sản của người
khác để cung cấp cho miệng mình. Có người
xuất gia đôi khi giả bệnh để cầu tìm dầu, sữa,
đường
phèn cho nhiều, hoặc không trì giới, không tham thiền, không
có trí tuệ mà lãnh thọ nhiều vật thí của người.
Hoặc ác khẩu làm tổn thương
người.
Do các nhân duyên hành nghiệp đời trước
như
vậy, phải đọa vào địa ngục Cọc đồng.
Nếu
người
đoạ vào địa ngục “Át-phù-đà”, chỗ này chứa băng lạnh, gió độc
thổi đến làm cho các tội nhân da lông xé rụng, gân thịt đứt
mất, xương
phá tủy lòi, liền cứng trở lại chịu tội như
lúc đầu.
Người
này vì nhân duyên của hành nghiệp đời trước,
tháng rét lột da người,
hoặc trộm cướp
củi lửa của người
đang lạnh cóng, hoặc làm ác long sân độc tức giận đổ mưa
đá lớn, băng rét hại người,
hoặc khinh dễ Phật và đệ tử Phật, người
trì giới. Hoặc bốn nghiệp của các miệng gây các trọng tội.
Do các nhân duyên như
vậy, phải đọa vào trong địa ngục Át-phù-đà. Ðịa ngục
Ni-la-phù-đà cũng như
vậy. Ở Át-phù-đà đôi khi có gián đoạn tạm
được
nghỉ ngơi,
còn ở Ni-la-phù-đà không gián đoạn, không có lúc nghỉ ngơi.
Ba địa ngục A-bà-bà, A-la-la, Hầu-hầu gió rét run khóa miệng
không mở
được.
Nhân tiếng kêu rên ấy mà đặt tên ngục. Trong địa ngục
Âu-ba-la băng rét thấm khắp, tợ như
hoa sen xanh. Ngục Ba-đầu-ma hình trạng như
hoa sen đỏ. Ngục Ðại Ba-đầu-ma, trú xứ của Câu-già-ly ở trong
đó. Người
có trí nghe như
vậy kinh hãi nói: “Ôi cha! Vì vô minh tham ái sân nhuế mới
phải chịu khổ này!”
Ðược
ra rồi lại vào, không cùng không thôi. Bồ-tát thấy thế suy
nghĩ như
vầy: “Nhân duyên của nghiệp khổ này đều là do các phiền não
vô minh tạo tác, ta phải tinh tấn siêng tu Lục độ, nhóm các
công đức để dứt trừ các khổ của chúng sanh trong năm
đường,
hưng
phát lòng thương
lớn, tăng thêm tinh tấn, như
thấy cha mẹ mình ở trong nhà giam tối tăm bị tra khảo đánh đập
thì lo buồn muôn mối, tìm cách cầu cứu, tâm không lơi
bỏ”. Bồ-tát thấy các chúng sanh chịu khổ trong năm
đường
tưởng
đó là cha mẹ, cũng như
thế.
Lại
nữa, Bồ-tát tinh tấn, đời đời siêng tu cầu các tài bảo bố thí
cho chúng sanh, tâm không biếng nhác phế bỏ. Tự có của cải có
thể cho hết, tâm cũng không biếng nhác.
Lại
nữa, tinh tấn trì giới, hoặc giới lớn giới nhỏ, hết thảy đều
thọ, hết thảy đều trì, không hủy không phạm, lớn bằng lông
tóc, giả sử có trái phạm, liền pháp lộ sám hối ngay từ đầu,
không che dấu.
Lại nữa,
siêng tu nhẫn nhục, nếu người
dùng dao gậy đánh hại, mắng nhiếc hủy nhục, hay cung kính cúng
dường,
tất cả đều nhẫn, không thọ nhận, không dính mắc, cũng không
nghi ngờ hối hận, tâm không thối mất đối với pháp sâu xa.
Lại nữa,
chuyên tinh một lòng, tu các thiền định có thể trụ vững, có
thể học tập,
được
Bốn tâm vô lượng,
Năm thần thông, Tám thắng xứ, Tám bội xả, và Mười
Nhất thiết xứ, đủ các công đức,
được
Bốn niệm xứ và các Bồ-tát thấy Phật tam muội.
Lại
nữa, Bồ-tát tinh tấn cầu pháp, thân tâm không giải đãi, siêng
năng nỗ lực cúng dường
pháp sư
các thứ cung kính cung cấp, sai sử, không hề trái lỗi, cũng
không phế bỏ thối lui, không tiếc thân mạng, chỉ vì pháp tụng
đọc, hỏi đáp; đầu đêm, giữa đêm, cuối đeâm tư
duy ức niệm, trù lượng
phân biệt, tìm nhân duyên của nó, chọn lựa chỗ đồng, chỗ dị để
biết thật tướng.
Ðối với hết
thảy các pháp tự tướng,
dị tướng,
tổng tướng,
biệt tướng,
nhất tướng,
hữu tướng,
vô tướng
như
thật tướng
và vô lượng
trí tuệ của chư
Phật, Bồ-tát, tâm không thối không
mất; ấy gọi là Bồ-tát tinh tấn. Do các nhân duyên như
vậy, có thể làm phát sanh, có thể làm thành tựu các thiện
pháp, cho nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật. Nghĩa chữ Ba-la-mật
như
trước
đã nói.
Lại
nữa, Bồ-tát tinh tấn thì gọi là Tinh tấn Ba-la-mật, còn người
khác không tinh tấn thì không gọi là Tinh tấn Ba-la-mật.
Hỏi:
Thế
nào làtinh tấn
được
viên mãn, cụ túc?
Ðáp:
Bồ-tát
sanh thân, pháp tánh thân đều có thể đầy đủ công đức, ấy là
Tinh tấn Ba-la-mật viên mãn cụ túc. Nghĩa chữ “Mãn túc” như
trên đã nói vì thân và tâm tinh tấn không phế bỏ vậy.
Hỏi:
Tinh
tấn là một tâm số pháp, sao trong kinh gọi là thân tinh tấn?
Ðáp:
Tinh tấn tuy là một tâm số pháp, mà từ thân lực xuất hiện, nên
gọi là thân tinh tấn. Như
thọ là một tâm số pháp, mà thọ tương
ưng
với năm thức, gọi là thân thọ, thọ tương
ưng
với ý thức, gọi là tâm thọ. Tinh tấn cũng như
vậy. Do thân lực siêng tu, hoặc hay bố thí, miệng tụng lời
pháp, hoặc giảng thuyết pháp... Tinh tấn như
vậy, gọi là thân tinh tấn.
Lại
nữa, thực hành bố thí, trì giới, ấy là thân tinh tấn. Thực
hành nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ ấy là tâm tinh tấn.
Lại
nữa, siêng tu việc bên ngoài; ấy là thân tinh tấn. Tự chuyên
tinh bên trong; ấy là tâm tinh tấn. Thô tinh tấn gọi là thân,
tế tinh tấn gọi là tâm. Tinh tấn vì phước
đức gọi là thân, tinh tấn vì trí tuệ gọi là tâm. Nếu Bồ-tát
từ khi mới phát tâm cho đến khi chứng
được
vô sanh nhẫn, ở khoảng không gian ấy gọi là thân tinh tấn, vì
sanh thân chưa
xả. Khi chứng
được
vô sanh nhẫn, xả nhục sanh thân,
được
pháp tánh thân, cho đến khi thành Phật, ấy là tâm tinh tấn.
Lại
nữa, Bồ-tát khi mới phát tâm, vì công đức chưa
đủ nên gieo ba nhân duyên phước
báo là bố thí, trì giới, thiện tâm, dần dần
được
phước
báo đem thí cho chúng sanh, chúng sanh vẫn chưa
được
đầy đủ, lại rộng tu phước,
phát tâm đại bi: “Hết
thảy chúng sanh không đủ của cải,
gây nhiều tội ác, ta đem chút của không thể làm cho đầy đủ
được
ý họ, ý họ rất bất mãn, thời họ không thể siêng năng lãnh thọ
giáo hóa, không lãnh thọ đạo giáo thời không thể giải thoát
sanh, già, bệnh, chết. Vậy ta phải tạo phương
tiện lớn, cung cấp của cải cho đầy đủ!” Bèn vào biển cả, tìm
các báu lạ, đạp nguy nan leo lên núi để tìm thuốc hay, vào
hang đá sâu để tìm vật lạ, nhựa đá, trân bảo để cung cấp cho
chúng sanh.
Hoặc làm Tát-đà-bà (Sadàprarudita = Tát-đà-ba-luân: Thường-đề
Bồ-tát) siêng cầu tài bảo để bố thí
cho chúng sanh mà mạo qua đường
hiểm, giặc cướp,
Sư
tử, Hổ lang, ác thú vẫn không cho là nạn. Cỏ thuốc, chú thuật
có thể làm cho đồng biến thành vàng. Các thứ biến hóa như
vậy, làm thành tài vật và vật vô chủ từ bốn phương
đem cấp cho
chúng sanh; ấy là thân tinh tấn. Ðược
năm thần thông, có thể tự biến hóa làm các món ăn ngon, hoặc
lên trời lấy thức ăn tự nhiên, như
vậy gọi
là tâm tinh tấn. Chứa các món tài vật để bố thí;
ấy là thân tinh tấn. Do đức bố thí
ấy mà đến
được
Phật đạo;
ấy là tâm tinh tấn. Sanh thân
Bồ-tát tu sáu Ba-la-mật; là
thân tinh tấn. Phát tánh thân Bồ-tát tu sáu Ba-la-mật;
ấy là tâm tinh tấn (chưa
được
pháp thân thời tâm theo thân, đã
được
pháp thân thời tâm không theo thân, thân tâm không hai).
Lại
nữa, trong
hết thảy pháp đều
được thành
tựu, không tiếc thân mạng; ấy là
thân tinh tấn. Khi cầu hết cả thiền định, trí tuệ, tâm không
biếng nhác mỏi mệt; ấy là
tâm tinh tấn.
Lại
nữa, thân tinh tấn là chịu mọi sự siêng năng khổ nhọc, không
bao giờ biếng nhác, phế bỏ. Như
nói: Vua Phạm-ma-đạt nước
Ba-la-nại đi dạo săn trong rừng thấy hai bầy Nai, mỗi bầy đều
có chủ, mỗi chủ có bầy Nai năm trăm con. Một chủ có thân sắc
bảy báu, ấy là Thích-ca Văn Bồ-tát, một chủ là Ðề-bà-đạt-đa.
Bồ-tát Chúa nai thấy đại chúng của vua người
giết hại đồ đảng Nai, mới khởi tâm đại bi đi thẳng trước
vua người,
vua người
đua nhau bắn, tên bay như
mưa.
Vua người
thấy Nai ấy cứ đi thẳng đến mình không chút sợ sệt, húy kỵ,
liền ra lệnh cho kẻ tùy tùng thu nhiếp cung tên lại, không
được
làm dứt mất ý muốn đi đến của chúa nai kia.
Chúa
nai khi đã đến, quỳ xuống thưa
với vua người
rằng: “Vua chỉ vì dục lạc du hý là việc nhỏ mà bầy Nai trong
một lúc đều phải chịu chết khổ. Nếu vì cung cấp cỗ ăn ngon
thì chúng tôi sẽ tự chia phiên mỗi ngày
đưa
đến một con Nai để cung cấp vào nhà bếp vua”. Vua khen lời
ấy, chấp thuận theo ý Nai.
Bấy
giờ chúa của hai bầy nai họp lại chia phiên cứ tuần tự mỗi bầy
ngày nộp một con. Trong bầy nai của Ðề-bà-đạt-đa có con đang
mang thai, đến phiên phải tống nộp, đến thưa
với chúa nó rằng: “Ngày nay thân tôi phải nộp vào chỗ chết,
nhưng
tôi đang mang đứa con trong bụng, không phải đến phiên nó, xin
dũ lòng liệu lý, để cho kẻ chết
được
đúng phiên, kẻ sống không bị xâm lạm”. Chúa nai nổi giận
nói: “Ai không tiếc mạng, đến phiên chị phải đi, đâu
được
từ thác!” Nai mẹ suy nghĩ: “Chúa ta bất nhân, không lẽ tha
thứ, không chịu xét lời ta, nóng giận ngang trái, không để ta
thưa
nói gì nữa”. Liền đi đến chỗ Bồ-tát Chúa nai, đem tình thật
thưa
đủ. Chúa hỏi nai rằng: “Chúa ngươi
nói thế nào?” Nai đáp: “Chúa tôi bất nhân, không thấy liệu
lý mà chỉ thấy nóng giận. Ðại nhân là nhân từ khắp hết thảy,
cho nên tôi đến quy mạng. Như
tôi ngày nay, trời đất tuy rộng mà không biết nơi
nào để cáo mách”. Bồ-tát suy nghĩ: “Ðây rất đáng thương,
nếu ta không liệu lý thì đứa con kia sẽ bị giết oan uổng! Nếu
chẳng phải phiên mà lại sai khiến thì chưa
đến phiên làm sao sai khiến
được,
chỉ có ta phải thay thế đó thôi”. Suy nghĩ đã chắc chắn, liền
tự đi nộp mình, bảo nai mẹ trở lui: “Ta nay thay thế cho ngươi,
chớ có lo buồn”. Nai chúa đi thẳng đến cửa vua, mọi người
trông thấy, lấy làm lạ: “Sao nó tự đi đến!” Ðem chuyện thưa
lại vua, vua cũng lấy làm lạ, bảo đi đến trước
mặt hỏi rằng: “Các con nai đã tiệt hết cả hay sao mà ngươi
đến?” Chúa nai đáp: “Ðại vương
nhân từ phổ cập bầy nai, không cho ai xâm phạm, nên chỉ có
đông đúc, đâu có tiệt hết
được!
Tôi vì trong bầy nai khác có một con nai đang mang thai, sắp
sanh con mà đến phiên phải thân
đưa
đến dao thớt thì đứa con kia phải mất mạng luôn. Ðến cáo bày
với tôi, tôi nghĩ nếu sai các con nai chưa
đến phiên đi thế cũng không
được,
nếu để nó trở về mà không cứu
được
thì có khác gì cây đá! Thân này không bao lâu chắc không khỏi
chết, nếu thương
xót cứu vớt khổ ách thì công đức vô lượng.
Nếu người
không có từ tâm thì đâu khác hổ lang”. Vua nghe lời ấy liền
từ chỗ ngồi đứng dậy mà nói kệ rằng:
“Ta
thật là súc sanh,
Gọi là nai đầu người.
Ngươi
tuy là thân nai
Gọi là người
đầu nai.
Lấy lý để mà nói,
Không lấy hình làm người.
Nếu có tâm từ huệ,
Tuy thú, thật là người.
Ta
bắt đầu từ nay,
Không ăn mọi thứ thịt,
Ta
thí điều không sợ,
Và
để an ý người.”
Các
con nai
được
ở yên, vua
được
tiếng nhân từ tin tưởng.
Lại nữa,
như
Phạm-chí Ái pháp, mười
hai tuổi đi khắp cõi Diêm-phù-đề cầu biết Thánh pháp mà không
được,
vì gặp lúc không có Phật. Phật pháp cũng tận hết. Có một
Bà-la-môn
nói: “Ta có một bài kệ Thánh pháp,
nếu thật yêu pháp ta sẽ cho ngươi”.
Ðáp: “Thật yêu pháp!”
Bà-la-môn nói:
“Nếu thật yêu pháp, hãy lấy da ngươi
làm giấy, xương
ngươi
làm bút, lấy máu để chép thì ta sẽ cho ngươi”.
Liền đúng như
lời ấy, phá xương
lột da, lấy máu để chép kệ:
“Như
pháp nên tu hành,
Phi pháp không nên
thọ,
Ðời này và đời
sau,
Người hành pháp an
ổn.”
Lại nữa,
xưa
lửa đồng đốt cháy rừng, trong rừng có một con trĩ, tự lực
siêng năng bay vào trong nước,
nhúng
ướt
lông cánh đem về dập tắt lửa lớn, lửa to nước
ít, bay đi bay lại mệt nhọc không lấy làm khổ. Khi ấy thiên
Ðế-thích
đi đến hỏi rằng: “Ngươi
làm gì vậy?” Ðáp: “Tôi cứu rừng này, vì thương
xót chúng sanh, rừng này là chỗ rộng rãi có bóng rợp, nuôi
sống mát mẻ khoái lạc các chủng loại và các tôn thân của tôi
cùng các chúng sanh đều nương
nhờ nơi
đây. Tôi có thần lực, đâu
được
biếng nhác mà không cứu”.
Ðế-thích
hỏi: “Ngươi
thật tinh tấn, như
vậy phải đến bao lâu?” Trĩ đáp: “Ðến chết là kỳ hạn”.
Ðế-thích
nói: “Tâm ngươi
tuy như
vậy, lấy chi làm chứng mà biết?” Liền tự thệ nguyện: “Tâm
tôi chí thành, nếu chơn
thật không hư
dối, thì lửa liền dập tắt”. Khi ấy trời Tịnh-cư
biết thệ nguyện của Bồ-tát, liền làm cho lửa tắt, nên từ xưa
đến nay, chỉ có độc nhất rừng này tươi
tốt, không bị lửa cháy.
Các
hành sở đời trước
như
vậy, việc khó làm mà làm không tiếc thân mạng, quốc tài, vợ
con, voi ngựa, bảy báu, đầu mắt, tủy não, siêng bố thí không
biết mệt. Như
đã nói Bồ-tát vì các chúng sanh mà trong mộït ngày ngàn lần
chết ngàn lần sống. Giống như
tinh tấn bố thí, thực hành trì giới, nhẫn nhục, thiền định,
trí tuệ Ba-la-mật cũng tinh tấn như
vậy.
Các tướng
nhân duyên nói ở trong kinh Bồ-tát Bổn Sanh ấy, cũng là thân
tinh tấn. Ðối với các thiện pháp, tu hành tin vui, không sanh
nghi ngờ hối hận, không biếng nhác mỏi mệt, theo các bậc Thánh
Hiền xuống đến phàm phu, cầu pháp không nhàm chán, như
biển nuốt dòng sông, ấy là Bồ-tát tâm tinh tấn.
Hỏi:
Tâm
không biết nhàm đủ, việc ấy không đúng, vì cớ sao? Nếu việc
sở cầu đã thành tựu, sở nguyện đã viên mãn, thời nên biết nhàm
đủ, nếu biết lý không thể cầu, sự không thể thành biện, thời
cũng nên buông bỏ, chớ sao lại thường
không biết nhàm đủ? Như
người
đào giếng tìm suối; dụng công càng nhiều càng không thấy dấu
hiệu nước,
thời phải nên ngừng bỏ; cũng như
đi đường
đã đến chỗ ở rồi thời không còn đi nữa, chứ sao lại thường
không biết nhàm chán đủ?
Ðáp:
Bồ-tát
tinh tấn không thể lấy việc thế
gian ví dụ so sánh, như
đào giếng sức ít thì không thể có nước,
chứ chẳng phải không nước.
Nếu chỗ này không có, các chỗ khác ắt có, như
có chỗ đến chắc chắn là cầu đến Phật, đến không nhàm chán, dạy
người
không biết mệt mỏi, cho nên nói không nhàm chán.
Lại
nữa, Bồ-tát tinh tấn, chí nguyện rộng lớn, thệ độ
hết thảy, chúng
sanh vô cùng tận, cho nên tinh tấn
cũng không cùng tận. Ông nói việc xong rồi phải ngưng.
Việc ấy không đúng. Tuy đã
được
đến Phật, mà
chúng sanh
chưa
độ hết thì chẳng nên ngừng nghỉ. Ví như
tướng
lửa nếu không tắt thì luôn luôn cháy. Bồ-tát tinh tấn cũng như
vậy, chưa
vào diệt độ thì luôn luôn không ngừng nghỉ. Do vậy trong mười
tám pháp bất cọng, hai pháp là dục và tinh tấn thường
tu tập (là dục vô yểm và tinh tấn vô yểm).
Lại
nữa, Bồ-tát không trú pháp mà trú trong Bát-nhã Ba-la-mật,
không bỏ tinh tấn, ấy là Bồ-tát tinh tấn chứ không phải Phật
tinh tấn.
Lại
nữa, Bồ-tát khi chưa
được
Bồ-tát đạo, với thân sanh tử đem việc tốt mà thí cho chúng
sanh, chúng sanh lại đem việc không tốt gia hại Bồ-tát. Hoặc
có chúng sanh, Bồ-tát khen ngợi lại đem lời hủy nhục, Bồ-tát
cung kính lại đem tâm khinh mạn, Bồ-tát thương
tưởng
lại đi tìm lỗi Bồ-tát, mưu
toan làm thương
tổn. Các chúng sanh không có thể lực đến bức não Bồ-tát,
Bồ-tát đối với các chúng sanh ấy, phát thệ nguyện rộng lớn:
”Ta đắc Phật đạo cốt để độ các chúng sanh ác hơn
trong sự ác ấy, đối với các ác ấy, sanh tâm đại bi, không giải
đãi, ví như
từ mẫu thương
con mình bệnh, lo nghĩ không dứt. Tướng
trạng như
vậy, ấy làBồ-tát tinh tấn.
Lại
nữa, khi hành Bố thí Ba-la-mật, những kẻ đi xin từ mười
phương
đến muốn cầu xin, cái không đáng xin cứ đến xin, và những vật
hệ trọng khó xả thí, nói với Bồ-tát rằng: “Cho tôi hai mắt,
cho tôi đầu óc, xương
tủy, vợ con yêu quý và các trân bảo quý giá...” Những vật khó
xả thí như
vậy, kẻ đi xin cứ nài xin cho
được,
mà tâm Bồ-tát vẫn bất động, không khởi ý keo kiệt, sân hận,
không sanh tâm nghi ngại mà chỉ một lòng vì Phật đạo nên bố
thí. Ví như
núi Tu-di, gió bốn phương
thổi đến không làm lay động
được.
Các tướng
trạng như
vậy, gọi là Tinh tấn Ba-la-mật.
Lại
nữa, Bồ-tát tinh tấn là tu đủ cả năm Ba-la-mật kia, ấy là Tinh
tấn Ba-la-mật.
Hỏi:
Có
người
đến xin ba y, và bình bát, nếu cho thời phá giới, vì sao? Vì
Phật không cho phép, nếu cho thời phá Ðàn Ba-la-mật. Như
vậy tinh tấn làm sao mà thực hành đủ cả năm Ba-la-mật kia?
Ðáp:
Nếu
Bồ-tát mới tu thời không thể một đời một thời thực hành đủ cả
năm Ba-la-mật. Ví như
khi Bồ-tát thực hành Ðàn Ba-la-mật, thấy Cọp đói quá muốn ăn
con nó, bấy giờ Bồ-tát phát tâm đại bi, liền đem thân thí
cho. Cha mẹ Bồ-tát vì mất con mình,
ưu
sầu áo não, hai mắt bị mù. Cọp giết Bồ-tát cũng phải mắc tội,
nhưng
không trù tính cha mẹ
ưu
khổ, Cọp mắc tội giết mà chỉ muốn đầy đủ Ðàn Ba-la-mật, tự
được
phước
đức.
Lại
như
Tỳ-kheo trì giới, tùy theo sự khinh trọng, đuổi các người
phạm giới, người
bị đuổi âu sầu phiền não, nhưng
chỉ muốn trì giới, không thương
sự khổ của người
kia. Hoặc có khi thực hành Bát-nhã thế tục, dứt tâm từ bi, như
Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni
Kiếp
trước
làm Thái tử của đại Quốc vương,
Vương
phụ, có người
thầy Phạm chí đến dối gạt là không ăn ngũ cốc, mọi người
tin theo cung kính cho là kỳ lạ. Thái tử suy nghĩ: ”Con người
có tứ chi, phải nhờ ăn ngũ cốc nuôi sống mà người
này không ăn, chắc là quanh co để lấy lòng người
chứ không phải thật”. Cha mẹ bảo con: ”Người
này tinh tấn nên không ăn, đó là điều hiếm có trên đời, con
sao quá ngu mà không cung kính?”. Thái tử đáp: “Xin tế nhị lưu
ý người
này, không bao lâu chứng nghiệm sẽ tự bại lộ ra”. Bấy giờ
Thái tử tìm đến chỗ người
ấy ở trong rừng, hỏi kẻ chăn trâu trong rừng: “Người
ấy ăn những thứ gì?” Kẻ chăn trâu đáp: “Người
ấy nửa đêm ăn ít nhiều váng sữa để toàn mạng”. Thái tử biết
thế rồi trở về cung muốn
đưa
ra sự chứng nghiệm ấy, liền lấy các thứ thuốc xổ
ướp
vào Hoa sen xanh, sáng ngày Phạm chí đi vào cung ngồi bên
vua, Thái tử tay cầm Hoa sen ấy đến cúng dường,
vái chào xong trao hoa cho Phạm chí. Phạm chí vui mừng nghĩ
rằng: “Vua và phu nhân lớn nhỏ trong ngoài đều phục sự ta,
chỉ có Thái tử không tin tưởng
cung kính, mà nay đem hoa đẹp cúng dường,
thật quá tốt không lường!
Ðược
hoa đẹp ấy rồi, vì kính người
đã cúng dường
cho mình, nên
đưa
hoa lên mũi ngửi, hơi
thuốc trong hoa đi vào bụng, giây lát thuốc hành trong bụng,
muốn tìm chỗ đi xổ. Thái tử nói: “Phạm chí không ăn, vì sao
đến nhà xí?” Bắt gấp đi, giây lát mửa ở bên vua, trong đó
thấy toàn là váng sữa, chứng nghiệm đã rõ ràng, vua và phu
nhân mới biết nó dối trá. Thái tử nói: “Người
này là giặc thật! Vì cầu danh mà dối gạt cả một nước”.
Như
vậy thực hành Bát-nhã thế tục, chỉ muốn cầu đầy đủ trí tuệ mà
xâm phạm đến lòng thương,
không sợ người
ta giận.
Hoặc
có khi Bồ-tát thực hành Bát-nhã xuất thế gian, đối với việc bố
thí, trì giới tâm không nhiễm trước,
vì sao? Vì đối với người
thí, người
thọ và tài vật bố thí, tội và không tội, sân và không sân,
tinh tấn và giải đãi, nhiếp tâm và tán tâm, đều là không thể
có
được
(Bất khả đắc)
Lại
nữa, Bồ-tát thực hành tinh tấn Ba-la-mật, đối với
hết thảy các pháp
vốn là bất sanh, bất diệt, chẳng phải thường,
chẳng phải vô thường,
chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải
không chẳng phải thật, chẳng
phải ngã chẳng phải vô ngã, chẳng phải nhất chẳng phải dị,
chẳng phải có chẳng phải không. Biết rõ các pháp đều
do nhân duyên hòa hợp, chỉ có tên
gọi, còn thật tướng
là không thể có
được.
Bồ-tát quán như
vậy, biết
hết thảy pháp hữu vi đều là hư
dối, tâm ngưng
đứt không tác vi, muốn diệt bỏ tâm,
chỉ lấy sự tịch diệt làm an ổn. Nhưng
bấy giờ, vì nhớ đến bổn nguyện thương
xót chúng sanh, nên trở lại thực hành Bồ-tát pháp, nhóm các
công đức. Bồ-tát tự suy nghĩ: “Ta tuy biết các pháp là hư
dối, nhưng
chúng sanh không biết việc ấy, nên phải chịu các thống khổ
trong năm
đường,
ta nay phải thực hành đầy đủ sáu Ba-la-mật” Bồ-tát
được
quả báo khi sinh ra có thần thông, cũng chứng
được
Phật đạo, đủ ba mươi
hai tướng
tốt, tám mươi
vẻ đẹp, tất cả trí tuệ, đại từ đại bi, vô ngại giải thoát, mười
lực, bốn điều không sợ, mười
tám pháp bất cọng, ba đạt minh ... và vô lượng
các Phật pháp. Khi
được
các pháp ấy, tất cả chúng sanh đều có
được
tâm tin thanh tịnh, đều lãnh thoï hành trì,
ưa
vui Phật pháp. Thành tựu
được
việc này là đều do sức của tinh tấn Ba-la-mật, ấy là tinh tấn
Ba-la-mật. Như
Phật đã nói:
Bồ-tát
tinh tấn không còn thấy thân, không
còn thấy thân, thân không tạo tác, tâm không nghĩ tưởng,
thân tâm nhất mực bình đẳng không phân biệt, cầu Phật đạo để
độ chúng sanh, nhưng
không thấy chúng sanh là bờ này. Phật đạo là bờ kia, hết thảy
sự tạo tác nơi
thân tâm đều phóng xả, như
trong mộng có tác vi, khi thức không có làm chi, ấy là tịch
diệt mọi tinh tấn, nên gọi là Ba-la-mật. Vì cớ sao? Vì biết
hết thảy mọi tinh tấn đều là tà ngụy, vì
hết thảy các pháp
đều là hư
vọng không thật, như
mộng như
huyễn, các pháp bình đẳng, mới là chơn
thật. Trong pháp bình đẳng thì không có sự cầu tín gì. Cho
nên biết hết
thảy các pháp tinh tấn đều là hư
vọng. Tuy biết tinh tấn đều là hư
vọng, mà vẫn thành tựu không thối chuyển, ấy gọi là
Bồ-tát
tinh tấn chơn
thật. Như
Phật nói: “Ta ở trong vô lượng
kiếp, thí cả đầu mắt tủy não cho chúng sanh khiến
được
mãn nguyện.
Khi
trì giới, nhẫn nhục, thiền định ở trong rừng núi, thân thể khô
khao, hoặc trì trai bớt ăn, hoặc dứt các thứ sắc vị, hoặc nhẫn
chịu sự tai họa mạ nhục, đao gậy, do vậy thân thể tiêu khô.
Lại thường
tọa thiền, siêng khổ không kể nắng sương,
để cầu trí tuệ, tụng kinh, suy nghĩ, vấn nạn, giảng thuyết các
pháp, dùng trí phân biệt tốt xấu, thô tế, hư
thật, nhiều ít, cúng dường
vô lượng
chư
Phật, ân cần tinh tấn cầu các công đức ấy, muốn đầy đủ năm
Ba-la-mật. Ta khi ấy chưa
được
gì; chẳng được
bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ
Ba-la-mật, thấy đức Phật Nhiên-đăng. Ta lấy năm cành hoa rải
trên Phật, trải tóc trên bùn (Ðể Phật đi qua) liền chứng được
Vô sanh Pháp nhẫn, tức thời cả sáu Ba-la-mật được
đầy đủ, đứng giữa hư
không ca ngợi đức Phật Nhiên-đăng, trông thấy mười
phương
vô lượng
các Phật khi ấy mới được
tinh tấn.
Thân
tinh tấn bình đẳng nên tâm được
bình đẳng, tâm bình đẳng nên được
các pháp bình đẳng. Các tướng
trạng nhân duyên như
vậy, gọi là Tinh tấn Ba-la-mật.
(Hết
cuốn 16 theo bản Hán)
--o0o --
Mục Lục
Tập 01
Cuốn 1
| 2
| 3
| 4
| 5
| 6
| 7
| 8
| 9
| 10
11
| 12
| 13
| 14
| 15
| 16
| 17
| 18
| 19
| 20
--o0o --
Mục Lục Tổng Quát Luận Đại Trí Độ
Tập 01
|
Tập 02
|
Tập 03
|
Tập 04
|
Tập 05
--o0o --
Cập nhật: 01-07-2003