LỜI GIỚI THIỆU
Ngày
vượt biên tỵ nạn từ Vũng Tàu đến Mã Lai năm 1977, trong mớ
hành lý tôi mang theo quý báu nhất là những tài liệu liên
quan đến Phật Sự trước và sau năm 1975.
Những tài liệu về hiện
tình Phật Giáo sau năm 1975 đã được tôi tập trung sắp xếp
lại thành quyển Bão Qua Cổng Chùa do Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ xuất bản
năm 1991.
Nhưng cơ duyên bất hạnh
là những tài liệu trước năm 1975 đã bị thất lạc trên hải
trình vượt thoát. Món quý nhất trong mớ tài liệu thất thoát
nầy là tập hồ sơ đúc kết một số trường hợp kỳ thị, đàn áp và
bách hại điển hình mà Phật Tử là nạn nhân tại các tỉnh Quảng
Ngãi, Phú Yên, Bình Định dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa khoảng
thời gian đầu thập niên 60 mà tôi đã có dịp chứng kiến tận
mắt.
Đã nhiều năm trôi qua ,
tôi vẫn ân hận tiếc nuối cho sự sơ xuất nầy. Nay duyên lành
đến , giúp cho tôi trút được nỗi thống tâm đó khi tìm lại
được tập hồ sơ đã lạc mất nầy.
Năm 1962, sau bao nhiêu
năm cam chịu chính sách kỳ thị và đàn áp khắc nghiệt của Đệ
Nhất Cộng Hòa, Phật Giáo quyết lên tiếng bằng một tập hồ sơ
dày 50 trang đánh máy này. Kẻ chịu trách nhiệm đúc kết hồ sơ
này chính là Hòa Thượng Thiện Minh. Ngày 20-2-1962, hồ sơ
này được gửi đến chính quyền bằng hai ngả. Chính thức qua
đường bưu điện và bán chính thức qua Đoàn Đình Dương, Dân
Biểu Quốc Hội Đệ Nhất Cộng Hòa đơn vị Bình Định.
Dân Biểu Đoàn đình
Dương trao tận tay tài liệu này cho Tổng Thống Ngô đình Điệm
và chủ tịch Quốc Hội Trần văn Lắm. Đoàn đình Dương can
trường làm việc ấy trước tiên không phải chỉ vì muốn đền ơn
trả nghĩa
cho Phật Giáo Bình Định cũng như riêng Hòa Thượng Thiện Minh
từng hết lòng tiếp tay vận động tranh cử cho mình , nhưng
trước tiên vì Dân Biểu Đoàn đình Dương là một Phật Tử và đã
ít nhiều thấy
rõ
thảm trạng mà đồng đạo đã trải qua trong chính địa phương
của mình. Gặp nhau lại nơi đất tạm dung, đạo hữu Đoàn đình
Dương có đến chùa Việt Nam thăm tôi và chúng tôi đã
cùng nhau ôn lại chuyện cũ.
Tôi vẫn còn nhớ như in
một vài kỷ niệm về những chuyến Phật Sự tôi được Phật Giáo
Trung Phần phái đến điều tra tình hình sinh hoạt của các Phật
Tử các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi đến
Phan Thiết và vùng cao nguyên Trung Phần.
Hồi đó là năm 1957,
phong trào Dinh Điền đang được xúc tiến mạnh. Theo như luật
lệ quy định, dinh điền là một quốc sách tự nguyện. Muốn được
nhận cho lên cao nguyên lập nghiệp thì đương sự phải là
nghèo, không ruộng vườn nhà cửa. Thế nhưng khi thực hiện
chính sách này thì những người nghèo xin đi không được, trái
lại có những người không xin đi, không muốn đi nhưng vẫn bị
khủng bố, bức ép ra đi. Đó là những Phật Tử có nhà cửa ruộng
vườn, những Phật Tử nhiệt thành với các Phật Sự địa phương,
những Phật Tử không chịu bỏ đạo để theo Ki-Tô giáo. Chương
trình Dinh Điền đã bị lợi dụng như một công cụ để phát triển
Ki-Tô giáo, đập tan tiềm lực Phật Giáo ở những địa phương xa
xôi. Tất cả những người có danh sách di dân đều bị thu thẻ
Kiểm Tra, nghĩa là trở thành một thứ tù giam lỏng. Cách duy
nhất để được khỏi đi dinh điền là phải bỏ đạo Phật theo
Ki-Tô giáo. Chưa hết, lên đến khu dinh điền, họ vẫn tiếp tục
bị đối xử tàn tệ nếu cứ ngoan cố giữ đạo Phật. Trên khu dinh
điền họ chỉ được trồng một thứ cây là cây đay. Mỗi người
được phát hai lon tấm hay gạo lức một ngày. Ai chịu theo
Ki-Tô giáo thì được phát ba lon gạo. Nhà nào có thiết bàn
thờ Phật thờ Ông Bà đều bị đập phá đạp đổ và cấm không được
tái thiết lại.
Trong một chuyến công
tác, tôi được chỉ định vào phái đoàn lên cao nguyên thăm
đồng bào Phật Tử tại các khu dinh điền. Phái đoàn do Hòa
Thượng Trí Thủ hướng dẩn và cụ Chánh Trí Mai thọ Truyền phụ
tá. Vì tình trạng tồi tệ như vừa kể nên phái đoàn bị cấm
không được vào các khu dinh điền. May mắn cho chúng tôi là
khu vực đó có mấy Trung Đội tân binh đang công tác. Một số
quân nhân đau lòng phẫn uất vì có bà con bị ép đi dinh điền
nên họ tình nguyện đi dẹp đường hộ tống chúng tôi đến tận
nơi thấy tận mắt, họ quyết phản ứng nếu bị ngăn cản. Chỉ huy
quân sự địa phương cao cấp thời đó chẳng ai khác hơn là
Tướng Tôn Thất Đính sau này. Thấy tình thế căng thẳng, Tướng
Đính phải can thiệp, điện thoại xin phép Phủ Tổng Thống ở
Sài Gòn. Được phép rồi phái đoàn mới được vào thăm đồng bào
Phật Tử. Sự thật đau lòng bày ra trước mắt chúng tôi. Bàn
thờ bị đạp đổ, không được thiết tượng Phật, không được đốt
hương, không được tụng kinh. Có một gia đình hai vợ chồng và
năm người con, mời phái đoàn vào nhà đóng cửa lại rồi chỉ
nhản hiệu bao hương có hình Phật Bà Quan Âm dán nơi cột nhà
làm bàn thờ, đêm đêm cả nhà xúm quanh cột nhà niệm Nam Mô
Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ
Tát. Cụ Mai Thọ Truyền đã không cầm được nước mắt. Thấy một
người khô khan nghiêm nghị như cụ Truyền mà cũng phải động
lòng nên cả phái đoàn đều khóc theo. Điều này giải thích tại
sao năm 1963, khi các cấp lãnh đạo phong trào tranh đấu Phật
Giáo chuyển từ Huế vào Sài Gòn cụ Truyền đã nồng nhiệt hưởng
ứng và hoan hỉ giao Chùa Xá Lợi cho các Thầy làm trung tâm
tranh đấu.
Năm 1962,
trong thư gởi Tổng Thống mở đầu cho tập hồ sơ này, quý Ngài
lãnh đạo Phật Giáo nói rõ: “ Vì nhận thức được tầm quan
trọng của quốc gia trong giai đoạn lịch sử hiện tại mà sự
cố kết của toàn dân là điều kiện tất yếu để thắng bại”. Hơn thế nữa, trong thư gửi Quốc Hội,
quý Ngài lại nói rõ hơn: “ Đề đạt hồ sơ này đến Quốc Hội, chúng tôi muốn
tránh cho lịch sử dân tộc một chấm đen đồng thời muốn
ngăn ngừa một tai họa quốc gia khi mà hàng Phật
Tử chúng tôi thấy cần
bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình “.
Tổng Thống làm ngơ và Quốc Hội cũng giả đui giả điếc trước
nhửng lời khẩn thiết quyết liệt đó. Hậu quả xảy ra như thế
nào mọi người đã rõ. Cuộc vận động tự do tín ngưỡng và bình
đẳng xã hội của Phật Giáo chỉ kéo dài 6 tháng và chế độ Đệ
Nhất Cộng Hòa tiêu vong. Tại sao ?
Tập hồ sơ mà Phật Giáo
gửi Tổng Thống và Quốc Hội đang có trong tay quý vị hôm nay
phần nào trả lời câu hỏi đó. Phần nào thôi, vì quả thực, đây
mới chỉ là một trong muôn vàn những nỗi khổ Phật Giáo đã
chịu dưới một chế độ nuôi cuồng vọng dùng chính quyền làm
công cụ đàn áp và bành trướng tín ngưỡng.
Điều mà quý Ngài lãnh
đạo Phật Giáo đã gọi là “muốn tránh cho lịch sử dân tộc một
chấm đen” là đây. Vì qua tập hồ sơ này, ngày giờ, nơi chốn,
tội danh còn ghi rõ. Tên tuổi quê quán các nạn nhân còn ghi
rõ. Và hôm nay một số Phật Tử nạn nhân và con cháu họ vẫn
còn đó, để cho những ai còn nghĩ rằng chuyện chế dộ đàn áp
Phật Giáo chỉ là tưởng tượng có thể kiểm chứng.
Đất nước có thể đã đi
theo một hướng khác nếu chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa đủ tinh
tấn để thấu hiểu và đủ từ ái công minh để đáp ứng những nguyện
vọng chân thành đơn sơ của Phật Giáo cô đọng trong tập hồ sơ
ngày 20-2-1962 này, cũng như trong Bản Tuyên Ngôn năm nguyện
vọng ngày 10-5-1963 và trong bản Thông Cáo Chung ngày
16-6-1963.
Ngót trăm năm, đạo
Ki-tô đã nương vào sức mạnh của ngoại nhân và sự vô minh của
một vài thành phần quần chúng để bắt rễ vào Việt Nam. Đệ Nhất
Cộng Hòa là một cơ hội quý báu, hiếm hoi – có thể nói là duy
nhất – để cho một số đồng bào Ki-tô giáo hữu trí, hữu trách
chứng tỏ cho đồng bào đồng hương thấy là mình vẫn còn nhớ
tình dân tộc, nghĩa đồng bào, còn nhớ tôn giáo của chính tổ
tiên mình. Đáng tiếc và đau khổ cho Miền Nam là họ đã bỏ qua
điều đó. Giai tầng lãnh đạo Đệ Nhị Cộng Hòa đi theo vết mòn
của Đệ Nhất Cộng Hòa lại còn quên nhanh, quên nhiều hơn nữa.
Những lãng quên này hầu như đã được lập lại y nguyên ở ngoại
quốc từ sau năm 1975 đến nay. ( Xin tìm đọc các cuốn sách
liên hệ và báo chí ).
Năm 1968, Hòa Thượng
Thiện Minh đã truy cứu tập hồ sơ này rồi cho phổ biến lại với
lời Dẫn Nhập trong hình thức một bản in ronéo và phân phối hạn
chế - mục đích là cẩn trọng gửi đi một lời nhắc nhở chính
quyền trong bối cảnh chánh trị nhiều rối ren tranh chấp thời
đó.
Như một nén hương tưởng
vọng về những oan nghiệt ngậm ngùi mà những người Phật Tử Việt
Nam đã cam lòng hứng nhận vì chỉ đơn sơ muốn được giử đạo và
sống Đạo tổ tiên và để kỷ niệm 40 năm Phật Giáo Nhập Cuộc
1963-2003, tôi hân hạnh cho tái bản tài liệu lịch sử quý báu
này với một đôi lời giới thiệu để người Phật Tử nhớ về một
thời đã qua đầy đau xót, cũng như đã cho công bố tập tài liệu
Bão Qua Cổng Chùa năm 1991.
Nguyện đem công đức này
làm nén hương kính bái anh linh tất cả những người đã hy
sinh trên đường phục vụ dân tộc và đạo pháp.
Phật lịch 2547,
Chùa Việt Nam – Hoa Kỳ
ngày 1.6.2003
Sa Môn Thích Mãn Giác
(xem
nội dung)
|