phần v
văn hóa - giáo dục phật giáo
Phật giáo với sự nghiệp giáo dục và đào tạo
tại Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh
Hòa
thượng THÍCH MINH CHÂU
Viện trưởng Học
viện PG Việt Nam
tại TP HCM
Sài
Gòn-TP Hồ Chí Minh đã có 300 năm lịch sử kể từ khi được thành lập. Trong gần 1.000 ngôi chùa
hiện diện trên mảnh đất này, chùa Giác Lâm được coi là ngôi chùa xưa nhất đã
được xây dựng trên 250 năm. Điều ấy chứng tỏ Phật giáo (PG) đã gắn bó cùng
thành phố ngay từ những năm đầu tiên khi thành phố được thành lập. Trong tất
cả các mặt sinh hoạt mà PG đã đóng góp cho đất nước và nhân dân, chúng tôi
muốn nhấn mạnh ở đây sự đóng góp vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại Sài
Gòn-TP Hồ Chí Minh, và bài này tập trung ở hai ý chính:
* PG thành phố đã
và đang đóng góp vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.
* Những nguyên lý
cơ bản về giáo dục và đào tạo đã được áp dụng và cần được tiếp tục triển khai,
thực hiện.
I.- SỰ ĐÓNG GÓP
CỦA PG THÀNH PHỐ VÀO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Việc giáo dục và
đào tạo của PG khởi sự từ những ngôi chùa. Đầu tiên, các vị cao tăng giảng
Phật pháp, khuyến dạy đạo đức, gây ý thức về nếp sống hiền thiện cho quần
chúng Phật tử. Mặt khác, chư vị còn giáo dục, đào tạo lớp tu sĩ kế thừa,
truyền bá chánh pháp. Như thế, ý nghĩa giáo dục và đào tạo đã được thực hiện
nhằm vào đối tượng tu sĩ và cư sĩ Phật giáo.
Học thuyết Tứ đế,
Duyên khởi, Nhân quả, Luân hồi... đã quá phổ biến trong quần chúng nhân dân
vùng đất mới được thành lập, bên cạnh những hình ảnh hiền hòa, đạo đức có tính
thuyết phục của chư Tăng Ni, của những ngôi chùa trang nghiêm thanh tịnh.
Từ đầu thế kỷ 20,
khi phong trào chấn hưng PG phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước, các tu sĩ và
giới trí thức PG đã nhanh chóng tham gia phong trào và có những hoạt động tích
cực: Thích học đường, Phật học thư
xã được hình thành tại Sài Gòn năm 1928, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học và tạp
chí Từ Bi Âm ra đời ngay sau đó. Suốt nhiều năm, các tạp chí Từ Bi
Âm, Pháp Âm, Tiến Hóa cũng như các ấn phẩm dịch thuật, sáng tác bằng chữ
quốc ngữ của giới PG thành phố đã góp công phổ biến giáo lý của đức Phật, kêu
gọi một nếp sống mới hiền thiện, đồng thời với việc truyền bá chữ
quốc ngữ.
đến khi cùng với các khóa Phật học ở các trường Phật học
chuyên giáo dục và đào tạo Tăng Ni, các trường Bồ Đề trung và tiểu học của
Phật giáo dạy chương trình phổ thông có kèm thêm các giờ giáo lý và một số
sinh hoạt PG cho thanh thiếu niên thành phố, thì PG đã chuyển sang giai đoạn
mới gia tăng đóng góp vào công cuộc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.
Năm 1964, Viện Đại
học Vạn Hạnh được thành lập, mới đầu có trụ sở tạm thời tại chùa Pháp Hội, rồi
chùa Xá Lợi và sau đó dời về cơ sở khang trang, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt cho
một đại học PG tại số 222 Trương Minh Giảng, Sài Gòn. Tuy là một đại học mới
thành lập, nhưng do mục đích và phương pháp đào tạo đúng đắn, phù hợp với thời
đại, lại có liên hệ chặt chẽ với nhiều đại học lớn trên thế giới, Viện đã thu
hút được nhiều sinh viên. Sau mười năm, số sinh viên tốt nghiệp gồm hơn 5.000
người chia đều ở các phân khoa Phật học, văn học, triết học, kinh tế, báo chí,
xã hội...
Sau ngày thống
nhất đất nước, do tình hình đất nước và do điều kiện chủ quan, Viện Đại học
Vạn Hạnh đã ngưng hoạt động. Đến năm 1985, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam
được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh, kế đến là Trường Cơ bản Phật học,
lớp Cao đẳng Phật học được hình thành, rồi các khóa đào tạo giảng sư Phật học
và nhiều khóa Phật học khác được tổ chức tại thành phố nhằm đào tạo Tăng Ni
đáp ứng giai đoạn phát triển mới của đất nước và của Giáo hội. Ngoài ra, các
lớp học tình thương, các nhà giữ trẻ, các nhà nuôi dạy trẻ em khuyết tật, mồ
côi, bụi đời của PG thành phố cũng góp công vào sự nghiệp giáo dục của thành
phố. Các sách báo PG in ấn và phát hành phần lớn tại thành phố Hồ Chí Minh
cũng là những công cụ hữu hiệu nhằm giáo dục và đào tạo một lối sống lành mạnh
với trí tuệ và từ bi.
II.- NHỮNG NGUYÊN
TẮC CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỦA PG ĐÃ ĐƯỢC ÁP DỤNG VÀ CẦN PHẢI ĐƯỢC PHÁT
HUY
Đối với những
người theo đạo Phật, đức Phật là vị thầy vĩ đại. Ngài giảng pháp, chỉ rõ con
đường thoát khổ. Những nguyên tắc cơ bản về giáo dục và đào tạo được tìm thấy
trong giáo lý của Ngài, và nếu được áp dụng một cách linh động theo từng hoàn
cảnh thực tế thì thành quả sẽ vô cùng tốt đẹp.
Chúng tôi may mắn
được tiếp xúc với một số nhà giáo dục PG nổi tiếng từ nhiều nơi trên thế giới,
chúng tôi cũng có thời gian nghiên cứu về các nguyên tắc giáo dục PG qua kinh
điển và chúng tôi cũng có một số kinh nghiệm về giáo dục đào tạo trong suốt
thời gian một phần tư thế kỷ giữ chức vụ Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và
Học viện PG Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, chúng tôi nhận thấy
công cuộc giáo dục và đào tạo của PG đòi hỏi một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
* Mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người lý tưởng của PG có đủ khả năng để tiến đến giải thoát
và thực hiện giải thoát. Đó là con người theo từng mức độ tu học mà biết dập
tắt những đau khổ của mình và giúp người khác dập tắt đau khổ của họ. Đó là
con người được trang bị bằng Giới-Định-Tuệ, loại bỏ được tham sân si, thực
hiện vô ngã, sống hài hòa với mọi người, với thiên nhiên, đầy tính nhân bản,
từ bi và trí tuệ.
* Nội dung của
giáo dục là Giới-Định-Tuệ. Ba vô lậu học này có thể được hiểu một cách tương
đối nhưng rất cụ thể là đạo đức, sự ổn định tâm linh và sự sáng suốt trong
kiến thức, tư duy. Theo với thời đại, nội dung này bao gồm cả sự thực hành đạo
đức đối với bản thân, với xã hội, nhân quần; sự thực hành thiền định để khơi
dậy một nếp sống thanh tịnh, một cái tâm ổn cố; sự nỗ lực tu học để có trí tuệ
sáng suốt, tri thức cao vời cả về đạo học và thế học. Kiến thức và kỹ năng
cũng đòi hỏi sự thực hành, thực dụng, hữu hiệu trong mọi lãnh vực mà PG gọi là
Ngũ minh (nội minh, ngoại minh, thanh minh, công xảo minh, y phương minh).
* Áp dụng triệt để
giáo lý Duyên khởi trong tư duy giáo dục, trong phương pháp tổ chức và thực
hiện. Đó là việc đặt giáo dục vào môi trường của thời đại, việc đánh giá đối
tượng giáo dục theo từng hoàn cảnh, điều kiện của đối tượng. Nói chung là nhìn
sự việc, đối tượng trong mối liên hệ tổng thể của tất cả các yếu tố hiện hữu.
* Phải có cơ sở
vật chất và nhân sự phù hợp cho môi trường giáo dục đào tạo. Đức Phật và chư A
la hán giáo dục, hướng dẫn môn sinh tại các đại tinh xá lớn thời
đức Phật đã đào tạo được số đông
vị nhập vào dòng Thánh; rồi các đại học lớn về sau như cổ viện Na Lan Đà do
ngài Long Thọ làm Viện trưởng và cả Ban Giảng huấn gồm rất nhiều tôn túc đạt
ngộ, đã đào tạo được nhiều Thánh tăng mà người đời vẫn mãi truyền tụng. Do đó,
một cơ sở khang trang, đầy đủ tiện nghi, phù hợp với các sinh hoạt giảng dạy,
học tập, hội họp, các ban chuyên môn v.v... là rất cần thiết. Và, cần thiết
hơn nữa là một ban lãnh đạo, một ban giảng huấn gồm những vị có tài năng, đạo
đức, có khả năng chuyên môn, có phương pháp sư phạm vững vàng.
* Và dĩ nhiên, sự
nghiệp giáo dục và đào tạo đòi hỏi một sự đồng tình ủng hộ của số đông, từ
chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan và cá nhân thân hữu. Chúng ta
hãy nghĩ đến các vua quan và quần chúng thời
đức Phật đã ủng hộ giáo đoàn Tỳ
kheo như thế nào, rồi liên hệ đến thời Lý-Trần của Việt Nam, chúng ta sẽ thấy
ngay việc giáo dục và đào tạo cần đến lực lượng của số đông theo nhiều thể
cách khác nhau để đạt đến những thành quả tốt đẹp.
Hiện nay, PG thành
phố Hồ Chí Minh đang nỗ lực tiếp tục những đóng góp của mình cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Tuy đối tượng giáo dục và đào tạo hiện nay chủ
yếu là Tăng Ni, nhưng hiển nhiên, một số hoạt động khác như các khóa giảng dạy
cho Phật tử, các cơ sở từ thiện mang tính giáo dục, các sách báo PG vẫn là
nhằm phục vụ cho việc giáo dục và đào tạo con người nói chung. Các trường Cơ
bản Phật học thành phố Hồ Chí Minh đã và đang được tu sửa cho tiện nghi hơn,
lực lượng giảng huấn ngày càng gia tăng chất lượng và số lượng. Học viện PG
Việt Nam
tại thành phố Hồ Chí Minh đang được xây cất cơ sở mới với kinh phí dự trù hơn
6 tỷ đồng Việt Nam.
Đây là những dấu hiệu của quyết tâm phục vụ vào sự phát triển không ngừng của
PG thành phố ta trong việc đóng góp vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo.«
Sự đóng góp về giáo dục Phật học của Phật giáo
Gia Định-Sài Gòn-
TP Hồ Chí Minh 300 năm
THÍCH THIỆN NHƠN
lDẫn
nhập
Đạo
Phật du nhập vào Việt Nam kể từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, nhưng
mãi cho đến hậu
bán thế kỷ XVII, đạo Phật mới được truyền đến đầu tiên trên mảnh đất Gia
Định-Sài Gòn, nay là TP. Hồ Chí Minh, do các bậc tiền bối Tổ sư, Thiền sư, cao
tăng từ Thuận-Quảng, theo bước lưu dân đến định cư lập nghiệp tại vùng đất
mới.
Qua thời gian,
công cuộc truyền bá Phật pháp, đạo Phật đã bám rễ vào lòng dân và xã hội, chan
hòa cùng dân tộc, trong suốt chiều dài lịch sử truyền thừa gần 300 năm, làm
cho chánh pháp tồn tại ở thế gian, đạo Phật mãi mãi hiện hữu trong lòng dân
tộc và nhân dân thành phố.
Sự kiện ấy bắt đầu
từ sự đào tạo, kế thừa và phát triển, chính là đầu mối của sự giáo dục Phật
học trải qua các thế hệ truyền thừa và thực hiện của Phật giáo (PG) Gia
Định-Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh. Công việc đó thực hiện như thế, kết quả ra sao,
đã đóng góp đến mức độ nào cho PG Gia Định-Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh trong gần
300 năm qua - chính là vấn đề được bàn bạc và đánh giá qua bản tham luận: SỰ
ĐÓNG GÓP VỀ GIÁO DỤC PHẬT HỌC CỦA PG GIA ĐỊNH-SÀI GÒN- TP. HỒ CHÍ MINH 300
NĂM, gồm có 5 phần như sau:
lGIAI
ĐOẠN i (1744 - 1930)
I) Các
lớp học gia giáo:
1. Chùa Từ Ân -
Khải Tường (1744-1821)
Vào buổi bình minh
của PG, những Tăng sĩ theo đoàn lưu dân từ Thuận-Quảng, đến định cư lập nghiệp
tại đất Gia Định là những dấu ấn lịch sử. Đó là Thiền sư Linh Nhạc-Phật Ý, đệ
tử Tổ Thành Đẳng-Minh Lượng cùng với một vị
tăng khác, xây dựng những am tranh để tu hành tại làng Tân Lộc
(1744), gần 10 năm sau, đến năm 1752, Tổ Linh Nhạc đã triệt hạ am tranh xây
dựng ngôi chùa mới đặt tên là chùa Từ Ân, vị Tăng khách cũng hành động tương
tự, đặt tên cho ngôi chùa mới của mình là chùa Khải Tường.
Sau khi đời sống
đã ổn định, cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng đã thiết lập, với khả năng và học Phật
sẵn có, Thiền sư Linh Nhạc đã gia tâm giảng dạy cho
tăng chúng, thuộc môn nhơn, đệ tử và chư
tăng trong vùng, để truyền trì chánh pháp. Qua đó, Tổ
linh
nhạc đã gieo những hạt nhân tốt
trên mảnh đất Gia Định-Sài Gòn để Phật pháp tỏa khắp vùng Gia Định, Đồng Nai,
Tây Ninh, Thuận Hóa (Huế) và lục tỉnh - như TS Liễu Đạt, Tế Chánh, Tế Bổn,
Tiên Tín, Viên Quang, Mật Hạnh, Trí Tâm, Mật Hoằng v.v.. trong giai đoạn đầu
xây dựng và phát triển Phật giáo Nam Kỳ.
2. Phật học xá
Giác Lâm (1772-1861)
Chùa Giác Lâm được
xây dựng tại gò Cẩm Sơn, huyện Tân Bình, năm 1744, do Phật tử Lý Thoại Long
người Minh Hương phát tâm xây dựng, nhưng không có trụ trì. Đến năm 1772, thể
theo sự thỉnh cầu của một Phật tử, Tổ Linh Nhạc đã cử đệ tử là Tổ Tông-Viên
Quang về trụ trì. Ngài đã mở rộng cơ sở chùa Giác Lâm, để thành lập Phật học
xá, đây là Phật học đường đầu tiên tại Gia Định.
Ngài tập hợp chư
tăng cả xứ Đồng Nai-Gia Định và
lục tỉnh về cùng chung tu học trong tinh thần hòa hợp và truyền thụ và đài thọ
cho mọi chi phí trong suốt thời gian theo học... Với tinh thần đạo pháp, vì sự
mở mang trí thức cho chư tăng,
kế thừa mạng mạch đạo pháp, Tổ Viên Quang đã lèo lái Phật học xá Giác Lâm ngày
càng đi vào ổn định, tiến triển theo từng thời gian và lịch sử của đất nước.
Phật học xá hoạt
động đến năm 1792 thì tạm ngưng để trùng tu cơ sở. Công cuộc trùng tu đến năm
1804 thì hoàn thành, và chương trình giáo dục của Phật học xá lại tiếp tục cho
đến năm 1827, khi Tổ Viên Quang viên tịch.
Đến năm 1844, Phật
học xá hoạt động trở lại, do Tổ Tiên Giác-Hải Tịnh điều hành chương trình
giảng dạy. Ở đây cũng nói thêm, hệ thống giáo dục ở thời điểm này gồm có 2
trường: trường Giác Viên thành lập năm 1850, chuyên dạy về khoa ứng phú đạo
tràng; trường Giác Lâm chuyên dạy về giáo lý cho chư tăng và Phật tử. Nhưng cả hai đều bổ sung và hỗ tương tác
động cho nhau trong hệ thống giáo dục Phật giáo Nam Kỳ. Phật học xá hoạt động
đến năm 1861 thì tạm ngưng khi Pháp chiếm trọn miền Đông. Chương trình giáo
dục bị xem như gián đoạn một thời gian dài. Nhưng tiềm năng Phật giáo vẫn còn
luân lưu bất tận, do các vị Tăng tài thạc đức được đào luyện từ chùa Giác Lâm,
Giác Viên truyền bá như: Thiền sư Hải Tịnh, Hoằng Ân, Hoằng Nghĩa, Như Hiển,
Như Lợi, Như Như, Như Hòa, Đạt Lý, Huệ Liêu, Hồng Hưng v.v.. tiếp tục phát huy
chánh pháp, làm cho Phật pháp mãi mãi chuyển lưu trong xã hội, trong chư Tăng
và Phật tử ở vào giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử đất nước và Phật giáo.
3. Chùa Long
Thạnh (1760-1940)
Chùa Long Thạnh
theo truyền thuyết sử được xây dựng vào năm 1760, do Ngài Tổ Đạt-Trí Tâm, đệ
tử Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc sáng lập.
Trải qua nhiều đời
trụ trì, đến năm 1878 Tổ Minh Hòa-Hoan Hỷ, đệ tử Tổ Minh Nhiên... đã mở lớp
Phật pháp giảng dạy cho chư tăng
trong xứ Gia Định, Đồng Nai và lục tỉnh. Kết quả học tập đã đào tạo được các
bậc cao tăng danh đức, những nhà sư yêu nước, nhiệt tình góp phần truyền bá
chánh pháp, xây dựng phong trào chấn hưng PGVN, tham gia các phong trào chống
Pháp cứu nước, góp phần trong cao trào Cách mạng Tháng Tám: như Tổ Long
Quang-Đạt Thanh, Tổ Như Trí-Khánh Hòa, Bửu Chung, Từ Phong, Từ Vân, Minh
Huyên, Như Bằng, Như Hào, Như Nhượng (Quảng Chơn) v.v..
4. Chùa Huệ
Nghiêm (1780-1898)
Chùa Huệ Nghiêm
được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, do Tổ sư Thiệt Thoại-Tánh Tường, đệ tử Tổ
Minh Vật-Nhất Tri kiến tạo. Bằng tinh thần đạo pháp, Phật học uyên thâm, đạo
đức đĩnh đạc, tiếp thu từ bổn sư Minh Vật, Ngài nỗ lực giáo hóa đạo chúng, quy
y Phật tử, hướng dẫn Phật pháp, nỗ lực tự học, trở thành pháp khí Đại thừa,
hoằng truyền chánh pháp. Tục Phật huệ đăng, truyền trì chánh pháp, Tổ đã đào
tạo được một số lớn chư tăng có
tài thực đức, làm mô phạm cho đời, kế vãng khai lai, phò trì Phật pháp,như
Thiền sư Tế Lý-Quảng Đức, Tế Vĩnh-Quảng Nhơn, Tế Giác-Quảng Châu (Tiên
Giác-Hải Tịnh), Liễu Xuân-Minh Chí, Đạt Lý-Huệ Lưu v.v..
5. Các lớp gia
giáo, học kinh bộ khác (1867-1930)
Sau năm 1867, khi
Pháp đã bình định xong vùng chiếm đóng, khu vực Gia Định tạm ổn định sau hơn
năm năm loạn lạc chinh chiến, chư Tăng trở lại sinh hoạt bình thường, chương
trình tu học được tiếp tục theo các mùa an cư kiết hạ, trường hương trường kỳ,
các lớp giáo lý, học kinh bộ do các Thiền sư mai danh ẩn tích, các vị Tổ sư
trụ trì tổ đình hướng dẫn tại chùa Phước Tường, Hội Sơn, Long Huê, Trường Thọ,
Giác Hải, Phụng Sơn, Long Triều v.v... nên đã tiếp tục duy trì được mạng mạch
Phật pháp làm cơ sở Phật cho phong trào chấn hưng PGVN vào những thập niên
1920-1930, như thành lập Hội Lục hòa Liên hiệp năm 1920 do Tổ Khánh Hòa đề
xướng.
lGIAI
ĐOẠN 1930 - 1950
II. Các
hệ thống Phật học viện:
1. Phật họåc
viện Linh Sơn (1933)
Trước sự thành
công của phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, Hội Nam Kỳ
nghiên cứu Phật học được thành
lập năm 1931, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn, do Hòa thượng Thiện Chiếu
hiến cúng cho Hội : Tổ Từ Phong làm Hội trưởng,
tổ Khánh Hòa là Phó Hội trưởng.
Mục đích của Hội là đào tạo tăng
tài, hoằng dương Phật pháp, bằng cách dịch kinh sách Phật giáo từ chữ Hán ra
chữ Việt để truyền bá.
Với nhu cầu cấp
thiết của phong trào chấn hưng Phật giáo, cộng với sự quyết tâm của chính
mình, Tổ Khánh Hòa đã nỗ lực vận động, tổ chức thành lập Phật học viện. Và mặc
dù gặp phải những khó khăn, nhưng Tổ vẫn quyết tâm khai giảng Phật học viện
Linh Sơn tại hội quán vào đầu năm 1933. Nhưng Phật học viện chỉ hoạt động hơn
một tháng thì ngưng hoạt động, vì chính quyền Pháp không cho phép. Tuy nhiên,
đây cũng là tiền đề phát khởi phong trào thành lập Liên đoàn Học xã, là một
dạng trường Phật học lưu động hoạt động tại các tỉnh Trà Vinh, Cần Thơ, Bến
Tre, tiến tới thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật học, hoặc Học đường Lưỡng
Xuyên-Trà Vinh.
2. Lớp Phật học
chùa Từ Hòa - Hải Ấn và Kim Sơn
Xuất phát từ cái
nôi của Ni giới, đó là chùa Từ Hòa, sau đổi thành Hải Ấn ni tự, quận Tân Bình.
Năm 1936, Ni sư Diệu Tịnh, Diệu Tấn, Diệu Tánh, Diệu Thuận, Như Thanh... đã
khai giảng lớp gia giáo giảng dạy cho Ni chúng đầu tiên, làm cơ sở cho chương
trình giáo dục Phật học cho Ni giới. Đến năm 1939, lớp học được tiếp tục khai
giảng tại chùa Kim Sơn, Phú Nhuận, quy tụ hơn 20 Ni chúng, và chính hai lớp
học Ni đầu tiên này là nền tảng cho hệ thống giáo dục Ni giới sau này. Nói
khác đi, chư Ni lãnh đạo cao cấp trong Giáo hội và mô phạm trong Ni giới, đều
xuất thân từ lớp học chùa Từ Hòa (Hải Ấn) - Tân Bình, Kim Sơn - Phú Nhuận.
3. Phật học
đường Liên Hải (1946-1950)
Thừa hưởng thành
quả của phong trào chấn hưng Phật giáo Việt
Nam, các Phật học đường được thành lập từ Bắc chí Nam: Bắc có Phật học đường
Quán sứ, Bồ Đề; Trung có Phật
học đường Tây Thiên, Tường Vân, Báo Quốc, Kim Sơn; Nam có Phật học đường Lưỡng
Xuyên - Trà Vinh.
Sau khi tốt nghiệp
Cao đẳng Phật học tại trường Báo Quốc - Huế, quý Thượng tọa Trí Tịnh, Thiện
Hoa đã trở về Nam, thành lập Phật học đường Phật Quang - Trà Ôn, Cần Thơ.
Nhưng vì ảnh hưởng chiến cuộc, Phật học đường Phật Quang bị dao động và không
thuận tiện cho việc giáo dục lâu dài nên Thượng tọa Trí Tịnh trở về Sài Gòn và
thành lập Phật học đường Liên Hải tại chùa Vạn Phước - Bình Trị Đông, Chợ Lớn.
Tiếp theo sự thành
lập Phật học đường Liên Hải là Mai Sơn, Sùng Đức do Thượng tọa Huyền Dung sáng
lập, Giác nguyên do Thượng tọa
Hành Trụ sáng lập, Ứng Quang do Thượng tọa Trí Hữu sáng lập; trung bình mỗi
lớp có gần 30 học tăng và Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây theo học
chương trình mông đẳng, sơ đẳng, trung đẳng Phật học.
Ban
giảng huấn gồm các vị Thượng tọa
tốt nghiệp Phật học đường Báo Quốc, Lưỡng Xuyên: Thượng tọa Trí Tịnh, Hành
Trụ, Quảng Liên, Huyền Quang, Trí Minh, Huệ Hưng, Trí Hữu, Nhật Liên, Quảng
Minh v.v.. phụ trách.
Nội dung môn học
là Kinh, Luật, Luận thuộc cấp mông đẳng, sơ đẳng, trung đẳng, đều là học chữ
Hán, sáng học, chiều trùng tuyên, chưa có chế độ thi cử phát bằng tốt nghiệp
và học văn hóa phổ thông.
Các Phật học đường
sơ đẳng, trung đẳng hoạt động trong một thời gian 4 năm nhằm đáp ứng nhu cầu
học vấn của chư Tăng hiện thời, là nhân tốt của đạo pháp, với tâm hồn trong
trắng, tâm linh mát dịu, trí huệ bắt đầu phát triển bằng tinh thần tu học
nghiêm túc và thăng tiến không ngừng.
4. Ni trường
Huê Lâm (1947-1975)
Trong sứ mệnh
truyền trì đạo mạch, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, đào tạo Ni tài đức cho
Giáo hội; sau quá trình học tập đã viên mãn, năm 1947, Ni sư Như Thanh thành
lập ni trường Huê Lâm - Q.11, để giảng dạy giáo lý cho Ni chúng và Phật tử.
Trong tinh thần phục vụ đạo pháp và chúng sinh không biết mỏi, Ni sư đã đào
tạo một số Ni chúng trở thành những bậc hữu ích cho đạo pháp và xã hội trong
những thập niên 1950-1970, làm cơ sở cho sự thành lập và phát triển Ni giới
miền Nam.
lGIAI
ĐOẠN 1950-1963
1. Phật học
đường
Nam
Việt (1950-1963)
Sau 14 năm du học
tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, Hòa thượng Thiện Hòa đã trở về Nam, trú tại chùa Sùng
Đức, Phú Lâm. Với tầm nhìn phổ quát và nhất quán trong hệ thống giáo dục, Hòa
thượng đã đề nghị các vị lãnh đạo Phật học đường Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức,
Ứng Quang, Giác Nguyên v.v.. nên hợp nhất để thành lập Phật học đường Nam
Việt. Kết quả được thành tựu, Phật học đường Nam Việt ra đời năm 1950, đầu
tiên đặt tại chùa Sùng Đức - Phú Lâm, Chợ Lớn, do Hòa thượng Thiện Hòa làm
Giám đốc.
Sang năm 1951,
Thượng tọa Trí hữu cúng chùa Ứng
Quang cho Hòa thượng Thiện Hòa và Hòa thượng đã đổi tên thành chùa Ấn Quang.
Trường dời toàn bộ số chúng về Ấn Quang, và Phật học đường Nam Việt bắt đầu đi
vào hoạt động với một quy mô rộng lớn, gồm 3 lớp: Sơ, Trung và Cao đẳng.
Chương trình được thống nhất, do Ban Giáo dục
GHTG NV biên soạn. Từ
đây, hệ thống giáo dục mới được hình thành có quy củ, có lãnh đạo nhất quán.
Đến năm 1953, Thượng tọa Thiện Hoa từ Trà Ôn lên hợp tác và đảm nhận chức vụ
Trưởng ban Giáo dục của Giáo hội kiêm Đốc giáo Phật học đường Nam Việt, không
những làm cho Phật học đường Nam Việt có một sinh khí mới, mà còn đẩy mạnh
chiều hướng phát triển cả ba mặt, sâu rộng và cao hơn.
Năm 1954, sau khi
lớp Cao đẳng mãn khóa, gồm có: Hòa thượng Huệ Hưng, Hòa thượng Bửu Huệ, Hòa
thượng Tắc Phước, Hòa thượng Tịnh Đức v.v.., còn lại lớp Sơ-Trung đến 1955
cùng mãn khóa gồm có: khóa 2: Thượng tọa Thanh Từ, Thượng tọa Huyền Vi, Thượng
tọa Thiền Định, Thượng tọa Từ Thông..., khóa 3 có: Thượng tọa Trí Quảng,
Thượng tọa Nguyên Ngôn, Thượng tọa Minh Thành... Chương trình Trung đẳng được
cải tiến như sau: về giáo lý giảng dạy bằng chữ Việt, nhẹ phần chữ Hán. Về văn
hóa, thêm chương trình phổ thông hệ 12 năm, của Bộ Quốc gia Giáo dục quy định.
Và có thể nói, chế độ thi cử tốt nghiệp, cũng như học văn hóa phổ thông bắt
đầu từ đây.
2. Trường Phật
học Lục hòa Tăng - chùa Giác Viên (1952-1968)
Thực hiện chương
trình giáo dục, đào tạo tăng
tài, phát huy chánh pháp, xây dựng cho Tăng Ni tinh thần yêu nước trong sáng,
nồng nàn và tích cực trong sứ mệnh hộ quốc an dân, duy trì đạo pháp, năm 1952,
GHLHTVN, thành lập trường Lục hòa Tăng tại chùa Giác Viên, do Thượng tọa Huệ
Chí làm giám đốc trường, là hậu
thân của lớp Phật học Lục Hòa đầu tiên mở tại chùa Khánh Hưng - Hòa Hưng.
Trường đặt dưới sự lãnh đạo của chư tôn đức trong Giáo hội và điều hành, giảng
dạy của quý Hòa thượng, Thượng tọa : Thiện Thuận, Bửu Ý, Minh Nguyệt, Thiện
Hào, Thiện Tòng, Phật Ấn, Huệ Chí, Pháp Lan, Minh Giác, Thiên Lý v.v..
Trường mở được 2
khóa: khóa I (1952-1957) đào tạo tăng
tài theo hệ thống PHV gồm các môn kinh,
Luật, Luận. Khóa 2 (1957-1960) chuyên về mặt bồi dưỡng nghiệp vụ trụ trì và
cán bộ xây dựng phát triển cơ sở. Qua 2 khóa học, trường đã đào tạo được những
danh tăng thạc đức, đã đóng góp nhiều công đức trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất tổ quốc và phát triển đạo pháp, xây dựng
giáo hội trong thời hiện đại.
3. Ni trường Từ
Nghiêm, Dược sư (1957-1958)
Với tư cách là Trị
sự trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt, Hòa thượng Thiện Hòa luôn luôn quan tâm
đến công tác giáo dục cho chư Ni. Thành thử, năm 1957, Hòa thượng đã thành lập
ni trường Từ Nghiêm - Chợ Lớn, và năm 1958 thành lập Phật học ni trường Dược
Sư - Gò Vấp, do Hòa thượng làm Giám đốc và chư Ni trực tiếp điều hành 2 lớp
học Sơ đẳng và Trung đẳng Phật học hơn 220 học ni một cách có hệ thống và quy
củ, tuân thủ giới luật, y chỉ với Tăng, cầu Tăng làm giáo thọ.
Và theo thời gian,
Phật học ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm tiếp tục hoạt động cho đến năm 1975
dưới sự lãnh đạo của GHPGVNTN do Ni trưởng Như Thanh, Ni trưởng Huyền Học và
Ni trưởng Như Chí lãnh đạo điều hành một cách có hiệu quả.
4. Phật học
viện Giác Sanh (1960-1975)
Trong mục đích mở
rộng phạm vi hoạt động và cơ sở Phật học đường Nam Việt,Hòa thượng Giám đốc
Thích Thiện Hòa đã thành lập Phật học viện Giác Sanh, là một bộ phận phụ thuộc
của PHĐNV, do TT. Minh Thành, TT. Liễu Minh, HT. Thiện Thành làm Giám viện, để
điều hành sinh hoạt lớp Trung đẳng Phật học hơn 54 Tăng sinh. Kết quả đã đào
tạo được số Tăng sinh có trình độ Phật pháp Trung đẳng để thi vào các PHV Cao
đẳng và Đại học Phật giáo.
lGIAI
ĐOẠN 1964-1975
Sau khi thống nhất
Phật giáo 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời, hệ thống giáo
dục ban đầu thuộc về Tổng vụ Pháp sự và Tăng sự. Nhưng đến năm 1966 thì thuộc
về Tổng vụ Giáo dục và Phật học vụ, một chương trình giáo dục được hình thành,
xuyên suốt từ thấp đến cao, có nghĩa là từ Sơ đẳng, Trung đẳng, và Cao đẳng,
Đại học Phật học - gồm cả hai hệ Nam tông và Bắc tông.
1. Các
Phật học viện Trung đẳng
a/ Phật học viện
Huê Nghiêm (1964-1971)
Được sự ủy nhiệm
của quý Hòa thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, ba Thượng tọa Thích Bửu Huệ, Thiên
Tâm, Thanh Từ đã mở lớp Trung đẳng Phật học chuyên khoa, cơ sở đặt tại An
dưỡng địa Phú Lâm, Bình Chánh, Gia Định, do Thượng tọa Bửu Huệ làm
giám đốc. Lớp học quy tụ hơn 40
Tăng sinh, học theo hệ chuyên khoa Phật học, và một số môn văn hóa phổ thông,
để làm phương tiện hoằng dương chánh pháp, lợi lạc chúng sanh, thích ứng với
nhu cầu của thời đại.
Đến năm 1965, để
đáp ứng yêu cầu tu học cho Tăng Ni, thủ đô Sài Gòn và các tỉnh, Giáo hội đã
chuyển trường Trung đẳng Phật học chuyên khoa thành Phật học viện Huệ Nghiêm
và chia làm 8 lớp, có hơn 300 tăng
sinh. Về thế pháp, từ đệ thất đến đệ nhất, hệ 12 năm, theo chương trình thống
nhất của Tổng vụ Giáo dục và Phật học vụ soạn.
Tất cả Tăng sinh
từ đệ thất đến đệ tứ học tại Viện, từ đệ tam đến đệ nhất đi học tại trường Bồ
Đề Chợ Lớn và Sài Gòn thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất quản lý.
Đặc biệt, sau biến
cố Tết Mậu Thân 1968, nhà trường bị khủng hoảng về kinh tế và cơ sở. Ban Giám
đốc đã phân tán một số lớn tăng
sinh đi các nơi - Phật học viện khác tại Sài Gòn cũng như các tỉnh. Tại Viện
chỉ còn một số nhỏ khoảng 60 Tăng sinh theo học chương trình chuyên khoa Phật
học, đến cuối năm 1971, làm lễ mãn khóa và phát bằng tốt nghiệp và theo học
chương trình Cao đẳng Phật học, khi Viện Cao đẳng Phật học được thành lập.
Ngoài ra, các Phật
học viện Phổ Quang, Hải Tràng, Huỳnh Kim, Linh Sơn giảng dạy theo chương trình
Sơ -Trung đẳng Phật học 4 năm, cũng đã tạo cơ sở cho các Tăng sinh thi tuyển
hoặc xin theo học các Phật học viện Trung đẳng tại Sài Gòn và Gia Định v.v..
một cách có hiệu quả và đáng khích lệ.
b/ Phật học viện
Nam tông (1966-1975)
Trên tinh thần
thống nhất về mặt tổ chức và lãnh đạo, nhưng về mặt giáo dục vẫn tôn trọng
tinh thần và giáo lý đặc thù của hệ phái. Do đó, Giáo hội đã cho phép Phật
giáo Nam tông thành lập hai Phật học viện là Phật Bảo tại Tân Bình, do Thượng
tọa Giới Nghiêm và Đại đức Thiện Giới lãnh đạo, Phật học viện Pháp Quang - Gia
Định, do Hòa thượng Thiện Luật và Đại đức Hộ Giác lãnh đạo và điều hành.
Nội dung, chương
trình giảng dạy Tam tạng giáo điển, và Ban
giảng huấn do Giáo hội Phật giáo Nguyên thủy chủ động, và thống nhất
trong chương trình giảng dạy do Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất quy
định, thông qua Tổng vụ Giáo dục và Phật học vụ.
c/ Phật học viện
Minh Đức - chùa Thiên Tôn (1969-1975)
Sau
tết Mậu Thân 1968, trường Phật
học Lục Hòa tại chùa Giác Viên bị thiệt hại nặng nề vật chất, nhưng để chương
trình giáo dục đào tạo tăng tài
cho đạo pháp của Giáo hội được tiếp tục, HT Thích Minh Đức, Viện trưởng Viện
Hoằng đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, đã nỗ lực thành lập Phật học
viện Minh Đức tại chùa Thiên Tôn, do HT làm Giám đốc, thành lập trường Tiểu
học Lục Hòa Tăng tại chùa Giác Lâm, Giác Viên, do Thượng tọa Huệ Chí làm Giám
đốc. Viện hoạt động một thời gian từ 1969-1975, có hơn 142
tăng sinh theo học. Qua sự giáo hóa, tài bồi của quý giảng sư
hữu danh, hữu đức, đã đào tạo được những
tăng sinh trở thành bậc hữu ích
cho đạo pháp và xã hội, góp phần giải phóng quê hương, thống nhất Tổ quốc, làm
tốt Đạo, đẹp Đời.
HỆ
THỐNG GIÁO DỤC CAO ĐẲNG
1. Viện Cao
đẳng Phật học Sài Gòn (1964-1965)
Thực hiện chương
trình giáo dục của Giáo hội, mang tính toàn diện, từ Sơ đẳng đến Cao đẳng Phật
học, sau khi thống nhất Phật giáo năm 1964, Giáo hội đã quyết định thành lập
Viện Cao đẳng Phật học, gọi là Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn, cơ sở đặt tại
chùa Pháp Hội và giảng dạy tại chùa Xá Lợi.
Viện Cao đẳng Phật
học Sài Gòn là một viện Phật học
chuyên khoa đầu tiên được thành lập sau mùa Pháp nạn 63, do Hòa thượng Trí Thủ
làm Viện trưởng, Thượng tọa Minh Châu làm Phó Viện trưởng.
Trong niên khóa
đầu, và trước mắt, Viện chỉ đào tạo và cấp phát văn bằng cử nhân cho 250 sinh
viên nam nữ và Tăng ni ghi danh
theo học.
Nội dung giảng dạy
và đào tạo, Viện có 6 chứng chỉ - Phật học đại cương, Văn học Phật giáo đại
cương, Duy thức học đại cương, Văn học Bát
nhã,
văn học A
tỳ đàm, Hán văn
và Pàli.
Muốn ghi danh vào
học hệ cử nhân, sinh viên phải có bằng tốt nghiệp tú tài 2, nếu là Tăng Ni
phải có bằng tốt nghiệp trung đẳng Phật học chuyên khoa. Muốn lấy bằng cử nhân
Phật học, sinh viên phải học và thi đậu 12/chứng chỉ/thời gian là 3 năm. Mỗi
chứng chỉ học một khóa, gồm khóa Đông và Xuân, gồm 8 tháng, 4 tháng thi học kỳ
1, 4 tháng thi học kỳ 2.
Tuy nhiên, vì yêu
cầu đòi hỏi và phát triển không ngừng của hệ thống giáo dục Phật học, Viện
cao đẳng Phật học Sài Gòn chỉ
hoạt động một thời gian ngắn 1964 - 1965, thì chuyển thành Viện Đại học Vạn
Hạnh, và dời về cơ sở mới ở đường Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sỹ, Q.3.
2. Viện Cao
đẳng Phật học Huệ Nghiêm (1971-1991)
Để đáp ứng yêu cầu
Đại học Phật giáo chuyên khoa Phật học, ngoài hệ thống giáo dục phổ thông như
Viện Đại học Vạn Hạnh, Giáo Hội cần đào tạo một số Tăng Ni có trình độ Phật
học chuyên sâu để đảm đang công tác phiên dịch Tam tạng, giáo dục và hoằng
pháp, lãnh đạo Giáo hội trên một bình diện rộng lớn và mô phạm. Do đó, năm
1971, Giáo hội đã quyết định thành lập Viện Cao đẳng Phật học, lấy tên là Viện
Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, cơ sở đặt tại chùa Huệ Nghiêm, Gia Định, do
Thượng tọa Trí Tịnh làm Viện trưởng, Thượng Tọa Bửu Huệ làm
phó Viện trưởng.
Khóa Cao đẳng Phật
học đầu tiên được khai giảng vào 17-10-1971, quy tụ khoảng 60 sinh viên
tăng của của lớp chuyên khoa
Phật học, và một số tăng sinh
được tuyển chọn từ các Phật học viện Linh Quang, Liễu Quán - Huế, Nguyên Thiều
- Bình Định, Già Lam, Giác Nguyên - Sài Gòn.
Chương trình đào
tạo và giảng dạy theo quy chế Đại học Phật giáo, gồm 3 cấp: cử nhân 4 năm, cao
học 2 năm, tiến sĩ 2 năm, tổng cộng là 8 năm. Bốn năm đầu học tổng quát hai hệ
tư tưởng văn học Nam-Bắc Tống, tư tưởng triết học Đông-Tây, và sự phát triển
của trào lưu văn học Phật giáo và thế giới. Hai năm cao học được phân ban, và
sinh viên tăng chọn một trong
bốn ban - ban Kinh, Luật, Luận và Thiền. Khi hoàn thành tiểu luận cao học mỗi
ban, sinh viên Tăng được gọi là Pháp sư, Luật sư, Luận sư và Thiền sư.
Trên thực tế, Viện
cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm chỉ
thực hiện và phát bằng cử nhân
Phật học và Cao đẳng Phật học. Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm duy trì
chương trình giảng dạy theo tinh thần nội trú và thi hành hợp nhất. Nhằm thực
hiện những điều đã học, giúp cho sinh viên Tăng có đủ tư lương và chất liệu
Phật học, và tâm linh, đạo lực trong sáng, để đảm nhận công tác hoằng dương
chánh pháp, lợi lạc chúng sanh trong mọi thời gian và không gian của lịch sử
bằng tinh thần Tâm đức, Trí đức và Tuệ đức, Viện đã đào tạo một số Tăng sinh
có khả năng thực sự đã, đang phục vụ cho các cấp Giáo hội trước năm 1975 cũng
như Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay.
lGIAI
ĐOẠN 1975-1998
1. Phật học
Viện Thiện Hòa (1979-1986)
Sau ngày 30/4/1975,
trong sự đổi thay của xã hội và lịch sử đã sang trang, các Phật học viện Sơ
đẳng, Trung đẳng tại Sài Gòn-Gia Định đều ngưng hoạt động.
Để đáp ứng yêu cầu
tu học cho một số lớn Tăng, Ni thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời trong khi chờ
Giáo hội Phật giáo Việt Nam có quy trình giáo dục cụ thể, Hòa thượng Trí Tịnh,
Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
cố vấn Hội đồng Quản trị
tổ đình Ấn Quang, đã xin phép
Viện Hóa đạo và Ủy ban Nhân dân thành phố được thành lập Phật học viện Thiện
Hòa, quý danh Hòa thượng Giám đốc Phật học đường Nam Việt, cơ sở đặt tại chùa
Giác Ngộ, Giác Sanh và Ấn Quang, do Hòa thượng cùng quý tôn đức trong Hội đồng
Quản trị tổ đình Ấn Quang làm
Giám đốc.
Chương trình học
được chia làm 3 cấp, do Ban Giáo dục Tăng Ni Giáo hội Phật giáo Việt
Nam soạn. Sơ cấp 1 hai năm, Sơ cấp 2 hai năm và Trung cấp 3 năm,, tổng cộng 7
năm. Ngoài chương trình Phật học, nhà trường còn đạo tạo thêm hệ bổ túc văn
hóa cấp 1 và 2 hệ 10 năm, do Sở Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh quy định.
Với số lượng hơn
300 Tăng Ni sinh, chia làm 3 lớp, trong quá trình hoạt động gần 6 năm, trong
tình hình thành phố vừa được giải phóng, Giáo hội, Thành hội Phật giáo thành
phố Hồ Chí Minh mới được thành lập là một vấn đề tương đối khó khăn. Tuy
nhiên, Ban Giám đốc đã vì tương lai đạo pháp, vì sự tu học của Tăng Ni thành
phố, nên đã cố gắng vượt qua tất cả những trở ngại, để hoàn thành chương
trình, công tác giáo dục đào tạo Tăng tài cho Giáo hội và đạo pháp. Và trường
chỉ hoạt động đến năm 1986 thì tạm ngưng, để
thành hội Phật giáo thành phố Hồ
Chí Minh thành lập trường Cơ bản Phật học, theo chủ trương và đường hướng giáo
dục do Giáo hội quy định, thông qua Ban Giáo dục Tăng Ni T.Ư và Ủy viên Giáo
dục TN Thành hội Phật giáo quản lý, điều hành và lãnh đạo xuyên suốt từ T.Ư
đến các Tỉnh, Thành hội trong phạm vi cả nước.
2. Trường Cơ
bản Phật học TP. Hồ Chí Minh (1988-1998)
Để đáp ứng nhu
cầu, nguỵện vọng tu học Phật pháp của Tăng Ni thuộc diện tại thành phố, đồng
thời thực hiện chương trình giáo dục Tăng Ni của Trung ương Giáo hội và Thành
hội Phật giáo, nhằm đào tạo một thế hệ Tăng Ni trẻ có năng lực và trình độ học
văn hóa và Phật học, để kế thừa đạo mạch, hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần
sinh, tốt đạo đẹp đời, ngay nhiệm kỳ đầu, 1982-1987, Thành hội Phật giáo đã có
văn thư xin phép UBND thành phố, cũng như các cơ quan chức năng lãnh đạo thành
phố. Nhưng vì lý do hành chánh, cho đến nhiệm kỳ 2 (1987-1990), UBND thành phố
mới cho phép Thành hội Phật giáo thành lập trường Cơ bản Phật học, cơ sở đặt
tại chùa Vĩnh Nghiêm - quận 3, do Thượng tọa Thích Từ Thông làm Hiệu trưởng.
Trường đã chính
thức khai giảng và hoạt động kể từ ngày 30/4/1989 với số lượng 165 Tăng Ni
sinh.
Nhằm giải quyết
dứt điểm và đáp ứng thỏa đáng nguyện vọng của Tăng Ni thành phố còn dôi ra của
khóa I, UBND thành phố đã cho phép Thành hội Phật giáo được mở thêm cơ sở 2
tại chùa Thiên Minh - Thủ Đức, cho 152 Tăng Ni sinh học.
Trường đào tạo
theo hệ chính qui và ngoại trú, tổng số Tăng Ni sinh của trường là 318 Tăng
Ni, gồm 3 hệ phái Nam tông, Bắc tông và Khất sĩ theo học.
Chương trình giáo
dục gồm có 4 năm. Năm đầu ôn tổng quát chương trình sơ cấp, 3 năm sau học
chương trình Trung cấp do Ban Giáo dục Tăng Ni T.Ư biên soạn. Trình độ từ lớp
9 đến lớp 12. Tuổi đời từ 16 đến 30. Nội dung giảng dạy: Tam tạng giáo điển
Kinh - Luật - Luận, hệ Bắc tông và
Nam tông. Nhà trường còn áp dụng chương trình hệ bổ túc văn hóa cấp 3 và một
số môn chính khóa, như công dân giáo dục và sinh hoạt Giáo hội. Tăng Ni học
riêng; Tăng học buổi sáng, Ni học buổi chiều.
Qua thời gian,
trường đã đào tạo được 2 khóa, khóa 1 - 318 Tăng Ni sinh, Khóa 2 - 365 Tăng Ni
sinh, trở thành những Tăng Ni có trình độ Phật pháp cấp trung đẳng. Một số lớn
Tăng Ni sinh trúng tuyển vào đại học tại
trường Cao cấp Phật học Việt Nam
cơ sở 2 tại TP. Hồ Chí Minh, nay là Học viện Phật giáo Việt Nam.
Hiện nay, trường
đang giảng dạy khóa 3 (1997-2001), có 457 Tăng Ni sinh, đang hoạt động có hiệu
quả, góp phần đào tạo tăng tài
cho Giáo hội PGVN và TP. Hồ Chí Minh.
3. Các lớp Sơ
cấp Phật học
Để đáp ứng yêu cầu
tu học cho các Tăng Ni mới xuất gia, tạo điều kiện thuận lợi căn bản cho các
Tăng Ni sinh theo học trường Cơ
bản Phật học thành phố, Thành hội Phật giáo đã cho phép Ban
đại diện Phật giáo Q.2, Q.4,
Q.8, Q.9, Tân Bình, Thủ Đức mở các lớp Sơ cấp Phật học thuộc phần Cơ bản Phật
học, có hơn 1.458 Tăng Ni sinh theo học và mãn khóa tốt nghiệp đang theo học
trường Cơ bản Phật học TP. Hồ
Chí Minh.
4. Lớp Cao đẳng
Phật học Tp. Hồ Chí Minh
(1995-1998)
Đáp ứng yêu cầu tu
học cho những Tăng Ni sinh đã tốt nghiệp Cơ bản Phật học muốn đi sâu vào nội
điển và nâng cao trình độ Phật pháp, do đó THPG đã xin phép Giáo hội và các cơ
quan chức năng lãnh đạo thành phố xin mở lớp Cao đẳng Phật học và lớp gối đầu,
cho hơn 650 Tăng Ni sinh theo học, lớp học đã đang hoạt động có kết quả, lạc
quan và tin tưởng theo yêu cầu của Giáo hội và THPG.
5. Trường Cao
cấp Phật học Việt
Nam cơ sở 2 (1984-1998)
Sau khi thống nhất
Phật giáo Việt Nam cả nước 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập,
một trong những công tác trọng tâm của chương trình hoạt động là giáo dục Tăng
Ni. Để đáp ứng nguyện vọng của chư tôn giáo phẩm trong Giáo hội, nhất là lời
thỉnh cầu của đức Pháp chủ, Hội đồng Bộ trưởng và Nhà nước đã cho phép Giáo
hội thành lập trường Cao cấp Phật học cơ sở 1 đặt tại chùa Quán Sứ - Hà Nội,
do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Hiệu trưởng. Khóa 1 quy tụ được 18 Tăng Ni
sinh chính thức, 28 Tăng Ni sinh dự bị.
Đến năm 1984, Nhà
nước tiếp tục đáp ứng yêu cầu của Giáo hội, nhất là Tăng Ni các tỉnh phía Nam,
Hội đồng Bộ trưởng đã cho phép Giáo hội thành lập cơ sở 2 tại TP. Hồ Chí Minh,
tọa lạc tại số 716, đường Nguyễn Kiệm - Phú Nhuận, do Hòa thượng Minh Châu
cũng làm Hiệu trưởng. Trường được phép chiêu sinh từ Bình Trị Thiên đến Minh
Hải. Đến năm 1997 đổi tên thành Học viện Phật giáo Việt
Nam.
Qua đó, hơn 10 năm
hoạt động, trường đã thực hiện chương trình giáo dục, đào tạo có hiệu quả, vô
cùng khích lệ.
Khóa 1
(1984-1987): Đào tạo 60 Tăng Ni sinh.
Khóa 2
(1987-1993): Đào tạo 125 Tăng Ni sinh.
Khóa 3
(1993-1997): Đào tạo 234 Tăng Ni sinh.
Khóa 4
(1997-2001): Đang hoạt động: có 350 Tăng Ni sinh.
Từ khóa 1 (1984)
khóa 2 (1987) khóa 3 (1993), TP. Hồ Chí Minh đã có 66 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Cao cấp Phật học, có trình độ đại học, trên đại học, đều do trường Cao cấp
Phật học Việt Nam đào tạo và thành tài đạt đức hiện đang du học tại các nước
và phục vụ tại các ban ngành Trung ương và Thành phố.
Như vậy, có thể
nói các trường Phật học, các Phật học viện đã cống hiến cho đạo pháp những đóa
hoa đạo hạnh tươi thắm, trang nghiêm, những pháp khí đại thừa, những nhân tài
Phật giáo, góp phần duy trì và phát triển đạo pháp, lợi lạc chúng sanh qua các
thời đại và lịch sử khác nhau của đất nước và xã hội, làm cho ánh sáng chánh
pháp mãi mãi soi sáng tại thế gian.
HỆ THỐNG GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG CỦA CÁC TRƯỜNG BỒ ĐỀ VÀ ĐẠI HỌC PHẬT GIÁO (1950-1975)
Thực hiện chương
trình giáo dục của Giáo hội, nhằm phát triển và nâng cao trình độ trí thức và
văn hóa cho Tăng Ni và Phật tử trong toàn Giáo hội, vì vậy, ngoài chương trình
giáo dục chuyên khoa Phật học, Giáo hội đã nỗ lực vận động xin phép
chính phủ để thành lập các
trường trung-tiểu
học tư thục Bồ đề, là hình thức, cơ sở giáo dục phổ thông tư thục cho Phật
giáo gồm: tiểu học, trung học và đại học.
GIÁO DỤC MẪU GIÁO
KIỀU ĐÀM
Mầm non của đạo
pháp, dân tộc và xã hội là các cháu, các em thiếu nhi Phật tử. Môi trường uốn
nắn, đào tạo từ buổi ban sơ trong trắng, hồn nhiên là các trường
mẫu giáo Kiều Đàm.
Vì thề, hầu hết
các trường mẫu giáo Kiều Đàm đều
được Giáo hội thành lập tại các chùa sư nữ, như Huệ Lâm - quận 11 (năm 1952).
Phước Hòa (1956), Huệ Lâm - quận 8, Kim Liên - quận 4, Kiều Đàm - quận 3, Long
Nhiễu - Thủ Đức, do chư Ni quản lý, giảng dạy.
Số lượng trung
bình mỗi trường từ 100 đến 150 em. Nội dung hướng dẫn và giảng dạy theo chương
trình của Bộ Quốc gia Giáo dục quy định.
Bằng tinh thần
trách nhiệm và lý tưởng xây dựng mầm non tuổi trẻ, quý Ni sư, Sư cô đã thành
công trong trách nhiệm giáo dục hơn 2.500 trẻ em Phật tử, làm cơ sở cho các
lớp Tiểu học Bồ đề của Giáo hội.
GIÁO DỤC TIỂU HỌC
BỒ ĐỀ
Qua quá trình uốn
nắn và xây dựång tại các trường mẫu
giáo Kiều Đàm, các em thiếu nhi tiếp tục được dạy dỗ tại các trường
tiểu học Bồ Đề, như Pháp Vân -
quận 3, Tiểu học Bồ Đề Huệ Đức - quận 11, huyện Bình Chánh, Long Nhiễu - Thủ
Đức, Bồ Đề An Khánh, Thủ Thiêm - quận 9, Phước Duyên - quận 4, Hưng Long -
quận 10... tổng số, trung bình mỗi trường có từ 150 em đến 250 em, được giảng
dạy và đào tạo theo chương trình từ lớp Năm đến lớp Nhất theo chương trình Bộ
Quốc gia Giáo dục quy định.
Bằng kinh nghiệm
sẵn có và lòng nhiệt tình của quýTăng Ni, Phật tử, lực lượng giáo viên thầy,
cô đã tận tình dạy dỗ, kết quả đã đào tạo được trên 4.500 em, thi đậu tiểu học
trên 2.560 em. Đây là một thành quả đáng khích lệ cho công tác giáo dục hệ
tiểu học Phật giáo tại các trường Bồ Đề.
GIÁO DỤC TRUNG HỌC
ĐỆ NHẤT CẤP
Thông qua hệ thống
giáo dục của Giáo hội, các trường Bồ Đề Trung học đệ nhất cấp được thành lập.
Năm 1959, Giáo hội Tăng già Nam Việt đã xin phép Chính phủ thành lập trường
trung-tiểu học Bồ Đề Giác
Ngộ - Chợ Lớn, cơ sở đặt tại chùa Giác Ngộ, số 90 đường Trần Hoàng Quân nay là
Nguyễn Chí Thanh, do Thượng tọa Quảng Liên làm Hiệu trưởng. Nhưng từ năm 1964
đến năm 1975 do Đại đức Quảng Chánh làm Hiệu trưởng.
Nội dung giảng dạy
và đào tạo gồm 2 cấp tiểu học và trung học đệ nhất cấp (ĐNC). Về tiểu học có
12 lớp, mỗi lớp trên 120 học sinh, dạy từ lớp Năm đến lớp Nhất. Chương trình
THĐNC có 16 lớp, dạy từ đệ nhất đến đệ tứ, mỗi lớp có trên 65 học sinh. Tổng
cộng tiểu học có 1.440 học sinh, trung học đệ nhất cấp có 1.040 học sinh.
GIÁO DỤC TRUNG HỌC
ĐỆ NHỊ CẤP
Để phát triển
chương trình giáo dục, mở rộng thêm cơ sở trường Bồ Đê, năm 1964, Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã xin phép Chính phủ cho thành lập Trung ương
tiểu học Bồ Đề Sài Gòn. Giáo hội đã được Bộ Quốc gia Giáo dục cho phép
thành lập trường Bồ Đề Sài Gòn. Trường do Giáo hội mua lại của trường
trung học Nguyễn Khuê, tọa lạc
tại đường Nguyễn Thái Học, quận 1.
Nội dung giảng dạy
của trường gồm 3 cấp: Tiểu học từ lớp 5 đến lớp nhất. Trung học đệ nhất cấp từ
lớp đệ thất đến đệ tứ. Trung học nhị cấp từ đệ tam đến đệ nhất, tổng cộng có
17.560 học sinh, do Thượng tọa Quảng Liên làm Hiệu trưởng.
Bằng tinh thần
giáo dục Phật giáo và chương trình giáo dục do Bộ quy định, lực lượng giáo
viên, giáo sư gồm 2 giới, cư sĩ và chư
tăng, đã tận tình dạy dỗ, phấn đấu không ngừng, hạ quyết tâm giành uy
tín cho trường về mặt giáo dục, đạo đức và đậu cao. Cụ thể cho thấy: Tiểu học
đậu 2.576 học sinh, Trung học đệ nhất cấp đậu 4.673 học sinh, Tú tài 2 đậu
6.583 học sinh trên tổng số học sinh của trường.
Đồng thời, trường
trung học Bồ Đề Hạnh Đức - Tân Bình, thành lập năm 1969 do Đại đức Thiện Trí
làm Hiệu trưởng, Thượng tọa Tâm Thanh làm Giám đốc, gồm có 3 cấp tiểu học,
trung học cấp 1, trung học cấp 2. Tổng cộng có 1.650 học sinh đều thực hiện
theo chương trình giảng dạy thống nhất do Bộ giáo dục qui định.
Qua hơn 4 năm hoạt
động, thành quả đạt được như sau: Tiểu học đậu 721 học sinh, trung học đệ nhất
cấp đậu 460 học sinh, tú tài 1 đậu 179 học sinh trên tổng số học sinh của
trường.
Bên cạnh, một số
trường trung học đệ nhất cấp cũng đã được thành lập, như Đức Trí (1968), Huệ
Đức, Huệ Quang (1970), (1969) v.v.. đã đóng góp một phần nhỏ cho chương trình
giáo dục phổ thông, đào tạo nhân tài cho xã hội, cho đạo pháp và cho đất nước.
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1. Viện
đại học Vạn Hạnh
Thực thi Nghị
quyết của Đại hội giáo dục kỳ 1, Giáo hội đã quyết định thành lập một Viện Đại
học Phật giáo, để đáp ứng nhu cầu giáo dục sau
trung học Bồ Đề. Do đó, vấn đề thành lập Đại học Vạn Hạnh là
một nhu cầu hợp lý và trình tự nhi tiến theo trào lưu của xã hội và Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Viện Đại học Vạn
Hạnh được lấy tên một vị thiền
sư có công đức lớn đối với đạo pháp và dân tộc thời Lý đặt tên cho Viện. Viện
được thành lập do quyết định số
1805/GD ngày
17-10-1964 của Bộ Giáo dục và Thanh niên, do Thượng tọa Thích Minh Châu làm
Viện trưởng. Cơ sở đặt tại số 222 Trương Minh Giảng, nay là đường Lê Văn Sỹ,
quận 3.
Hệ thống tổ chức
của Viện gồm có một Hội đồng Quản trị do Viện trưởng điều hành và lãnh đạo
toàn Viện. Viện gồm có 5 phân khoa và một trung tâm ngôn ngữ.
- Phân khoa Phật
học, do Thượng tọa Trí Tịnh làm khoa
trưởng.
- Phân khoa
văn khoa, do
giáo sư Nguyễn Đăng Thục làm
khoa trưởng.
- Phân khoa Khoa
học xã hội, do giáo sư Tôn Thất
Thiện làm khoa trưởng.
- Phân khoa Khoa
học thực nghiệm, do giáo sư Vĩnh
Chấn làm khoa trưởng.
- Phân khoa Giáo
dục, do Đại đức Nguyên Hồng làm khoa
trưởng.
- Trung tâm
ngôn ngữ, do Giáo sư Nguyễn Cẩm
Quỳnh làm Giám đốc.
Thông qua lập
trường và mục đích giáo dục, đào tạo của Viện, Viện Đại học Vạn Hạnh khẳng
định bằng 3 mục tiêu và 3 đường hướng.
Ba mục tiêu là:
- Thực hiện tinh
thần xây dựng của một nhà giáo dục, giữa những sụp đổ cá nhân, gia đình và xã
hội.
- Làm sống dậy
niềm tin cho tuổi trẻ Việt
Nam.
- Tạo ra một môi
trường thật sự đại học, giới thiệu những đường hướng giáo dục căn bản, để
trang bị cho những sinh viên những tư tưởng, kiến thức, khả năng và tác phong
cần thiết, để sinh viên chuẩn bị tiến bước vào đời. Và 3 đường hướng là:
- Đường hướng giáo
dục của Viện Đại học Vạn Hạnh là một đường hướng toàn diện, xây dựng trọn vẹn
Hạnh đức, Tâm đức và Tuệ đức cho con người.
- Đường hướng giáo
dục của Viện Đại học Vạn Hạnh là đường hướng giáo dục dân tộc, phát huy quốc
học, giúp cho sinh viên tìm hiểu cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Việt
Nam.
- Đường hướng giáo
dục của Viện Đại học Vạn Hạnh là đường hướng giáo dục nhân tính, tạo những con
người, giữ được tình người Việt nam,
tình người Vạn Hạnh, trong cộng đồng Việt Nam và Vạn Hạnh, và xây dựng tình
người nhân loại.
Trên cơ sở đó,
Viện Đại học Vạn Hạnh, trên mọi lãnh vực hoạt động, đều dựa trên tinh thần và
châm ngôn “Duy tuệ thị nghiệp”.
Với vai trò vị trí
và trình độ tương đương, Viện Đại học Vạn Hạnh, thiết lập 3 cấp giáo dục,
tương đương với một đại học quốc gia và quốc tế : cấp Cử nhân, Cao học và Tiến
sĩ. Nhưng trên thực tế, Viện chỉ mới thực hiện và cấp phát văn bằng Cao học,
là văn bằng cao nhất của Viện.
Điều kiện căn bản
là, các sinh viên Tăng Ni, Phật tử, không phải là Phật tử, muốn ghi danh theo
học tại Đại học Vạn Hạnh, phải có văn bằng tú tài 2, nếu ghi danh theo học
phân khoa Phật học, đối với Tăng
Ni, cần phải có văn bằng tốt nghiệp trung đẳng Phật học, muốn theo học
phân khoa Giáo dục, Khoa học xã
hội, sinh viên phải qua một kỳ thi tuyển. Muốn tốt nghiệp Cử nhân, sinh viên
phải hoàn tất 128 học phần, thời gian là 4 năm, tối đa là 6 năm. Muốn tốt
nghiệp cao học, sinh viên hoàn tất tối thiểu 42 học phần, với hạng bình thứ và
trình một tiểu luận Cao học.
Qua gần 10 năm
hoạt động và đào tạo, Đại học Vạn Hạnh đã cho ra trường và cấp bằng tốt nghiệp
cho 782 sinh viên. Cụ thể như sau:
* Phân khoa Phật
học có 63 sinh viên tốt nghiệp trên tổng số 340 sinh viên.
* Phân khoa Văn
Khoa có 175 sinh viên tốt nghiệp trên tổng số 531 sinh viên.
* Phân khoa Khoa
học xã hội, có 257 sinh viên tốt nghiệp trên tổng số 1.700 sinh viên.
* Phân khoa Giáo
dục có 123 sinh viên tốt nghiệp trên tổng số 630 sinh viên.
* Phân khoa Khoa
học thực nghiệm có 51 sinh viên tốt nghiệp trên tổng số 474 sinh viên.
* Trung tâm
ngôn ngữ có 119 sinh viên tốt
nghiệp trên tổng số 760 sinh viên.
Tổng cộng là 782
sinh viên. Trong đó, cao học là 214 sinh viên, cử nhân là 568 sinh viên/4.445
sinh viên của Viện.
Ngoài công tác
giáo dục đào tạo, thông qua Ban Tu thư và Ấn quán Vạn Hạnh, Viện dã cho xuất
bản trên 150 đầu sách, tổng số trên một triệu 600.000 bản đủ loại, bao gồm các
tài liệu giảng dạy, nghiên cứu bằng 4 thứ tiếng (Hán, Anh, Pàli và Việt ngữ)
cho sinh viên nghiên cứu, học tập, đóng góp một phần lớn vào kho tàng văn hóa
Phật giáo cũng như văn hóa dân tộc đất nước.
Theo đà biến thiên
của xã hội, và quy luật vô thường của đạo Phật, trước cuộc
đại thắng mùa
xuân 1975, xã hội đã đổi thay, lịch sử đã sang trang, đường
hướng giáo dục cũng đổi thay, và cơ chế quản lý cũng không còn tồn tại đối với
Viện Đại học Vạn Hạnh. Do đó, theo chủ trương của Chính phủ, Giáo hội đã bàn
giao cơ sở cho Nhà nước quản lý, thông qua Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đồng thời,
đến đây, được xem như Viện Đại học Vạn Hạnh đã hoàn thành nhiệm vụ giáo dục
của mình đối với Giáo hội cũng như đất nước và dân tộc. Trên tinh thần vô ngã,
vị tha, dù ở bất cứ cương vị, phương sở nào, con người Vạn Hạnh vẫn luôn đóng
góp công sức và khả năng trí tuệ của mình trong sự nghiệp giáo dục của toàn
dân và toàn xã hội, góp phần nâng cao dân trí, văn minh tiến bộ và khoa học
theo từng thời đại và lịch sử khác nhau.
2. Viện Đại học
Phương
Nam
(1967-1975)
Sau Đại hội kỳ I
năm 1966, vì những điều kiện khách quan và chủ quan, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất đã tách thành hai Giáo hội, Giáo Hội PG Ấn Quang và Việt Nam
Quốc tự. Giáo hội Việt Nam Quốc tự do Thượng tọa Tâm Châu, Hòa thượng Thiện
Tường, Hòa thượng Minh Thành, Thượng tọa Tâm Giác lãnh đạo, đã xin phép
chính phủ thành lập Viện Đại học
Phương Nam, năm 1967, cơ sở tọa lạc trong khuôn viên Việt Nam Quốc tự, số 16
đường Trần Quốc Toản, quận 10, nay là đường 3 tháng 2, quận 10, TP Hồ Chí
Minh.
Viện Đại học
Phương Nam
gồm có một Ban Giám đốc và do Giáo sư Lê Kim Ngân làm Viện trưởng.
Viện gồm có 3 phân
khoa - Kinh tế, Thương mãi, Văn khoa và Ngoại ngữ. Số lượng sinh viên tương
đối thấp, có khoảng 750 sinh viên, và chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn,
thì xã hội đã đổi thay, lịch sử đã sang trang, nên hiệu năng và thành quả đạt
được không có gì nổi nét và rõ ràng, kết quả chỉ là tương đối, và còn nhiều
hạn chế, cuối cùng chấm dứt vai trò của Giáo hội đối với Viện Đại học Phương
Nam cũng tương tợ như Viện Đại học Vạn Hạnh.
VI/ KẾT
LUẬN
Tổng quan vấn đề,
kể từ ngày Phật giáo có mặt trên mảnh đất Gia Định-Sài Gòn, nay là TP. Hồ Chí
Minh, do những cao tăng thạc đức, gieo hạt giống đầu tiên cho đến nay, thời
gian gần 300 năm. Về hình thức giáo dục Phật học, Phật giáo Gia Định-Sài
Gòn-TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện có thể đánh giá như sau:
1. Về mặt cơ sở
giáo dục: Có thể nói, từ buổi ban đầu, dưới dạng thức là những lớp
gia giáo, học kinh bộ, hết quyển này sang quyển khác, không hạn cuộc thời
gian. Chủ giảng là những vị Tổ sư, trụ trì cơ sở tự viện. Đến khoảng giữa thế
kỷ 20 mới hình thành các Phật học đường, Phật học viện trên một quy mô và có
hệ thống tổ chức tương đối hoàn bị và có qui củ, chia làm 4 cấp, rồi 3 cấp:
mông đẳng,
sơ đẳng, Trung đẳng và Cao đẳng Phật học.
2. Nội dung giáo
dục: Chủ yếu là Phật học, dựa trên cơ sở Tam tạng giáo điển Kinh
- Luật - luận, phần chính là chữ
Hán, đến cuối thế kỷ 20, vấn đề chuyển ngữ mới đặt ra và thực hiện ngày càng
Việt ngữ hóa, nhưng căn bản vẫn là Hán học, mặc dù đã phổ thông hóa hệ thống
giáo dục Phật giáo.
3. Đối tượng giáo
dục : phần lớn là
những Tăng Ni vùng Đồng Nai, Gia Định-Sài Gòn và lục tỉnh có nhiệt tâm vì đạo
pháp và hết lòng phục vụ chúng sinh và xã hội cũng như dân tộc; duy trì mạng
mạch Phật pháp, phát triển đạo Phật ngày càng trang nghiêm vững mạnh huy hoàng
trong lòng dân tộc.
4. Kết quả giáo
dục: Gần 300 năm giáo dục Phật giáo Gia Định-Sài Gòn-TP. Hồ Chí
Minh đã đào tạo biết bao danh tăng thạc đức, những bậåc thạch trụ chốn tòng
lâm, pháp khí Đại thừa, giàu lòng yêu nước, yêu đồng bào, hết lòng hy sinh để
phụng sự nhân dân, hòa mình hiện hữu trong lòng dân tộc nhất là trong 3 cuộc
kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ, giải phóng quê hương, thống nhất
tổ quốc.
Đặc biệt, trong sự
nghiệp duy trì và phát triển Phật pháp, không ít Tăng Ni, Phật tử đã hy sinh
tự ngã, thể hiện tinh thần vô ngã vị tha, lục hòa cộng trụ, đoàn kết hòa hợp,
thống nhất Phật giáo Việt Nam, xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam ngày
càng trang nghiêm vững mạnh trong lòng dân tộc, làm cho đạo pháp mãi trường
tồn tại thế gian, “tốt Đạo, đẹp Đời”.«
Mùa Phật Đản PL 2542 - DL 1998
Hệ thống giáo dục Ni giới
tại Sài Gòn
THÍCH NỮ NHƯ HOA
Giáo
dục là vấn đề trọng yếu của người xuất gia, vì mục đích của tu sĩ là phát triển trí
tuệ và kiện toàn nhân cách. Vào thời đức
Phật, hàng đệ tử căn cơ bén nhạy chỉ cần nghe một câu kệ hay một bài pháp ngắn
là đủ lãnh hội yếu chỉ, còn hàng căn cơ yếu kém, phải học, đọc, tụng nhiều lần
mới thông suốt. Giáo dục phát xuất từ đó. Về phần Ni chúng, khi thành lập giáo
đoàn Ni, đức Phật đã trao quyền
lãnh đạo và giáo dục cho Ngài Kiều Đàm Di mẫu - vị thầy đầu tiên của Ni giới,
vị đệ nhất kinh nghiệm trong hàng đệ tử Phật. Đồng thời
đức Phật cử thêm các vị trưởng lão Tăng mỗi nửa tháng sang bên
Ni giáo giới. Như vậy, một Ni chúng chịu ảnh hưởng hai nguồn giáo huấn, một từ
Tăng bộ và một từ bổn bộ Ni. Truyền thống này được giữ từ thời
đức Phật cho đến ngày nay.
Phật giáo Sài Gòn
300 năm trong dòng lịch sử phát triển của nó đã trở thành trung tâm văn hóa
giáo dục của khu vực đồng bằng phía
Nam. Tất cả những hoạt động trên vùng đất này đều có ảnh hưởng tương quan
tương duyên với nhau, để cùng tiến đến ngày càng tốt đẹp. Vào các thập niên
1940-1950, tại Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn có các Ni trường Tăng Già, Từ Nghiêm,
Dược Sư, Huê Lâm, là những nơi tiêu biểu cho hệ thống giáo dục Ni chúng, mỗi
nơi đều có nét đặc thù riêng.
1- Ni
trường Tăng Già
Tên trường Tăng
Già được sử dụång năm 1946 đến năm 1962. Trường đầu tiên là một lớp học Phật
pháp cho Tăng và Ni, do quý Hòa thượng Hành Trụ, Hòa thượng Thới An, Hòa
thượng Thiện Tường tổ chức. Năm sau, lớp học tách riêng, trường Tăng đặt tại
Giác Nguyên, trường Ni đặt tại Tăng Già, cả hai trường chung một Ban Giám đốc
do quý Hòa thượng lãnh đạo. Có thể nói, trường Tăng Già là trường Ni sớm nhất
tại Sài Gòn. Trường xây dựng đơn sơ, nhưng tầm vóc hoạt động rộng rãi, nhờ uy
đức của quý Hòa thượng, chư Ni các nơi đến tham học đều nhớ kỷ niệm một thời ở
Tăng Già. Những vị xuất thân từ đó đều là các bậc tôn trưởng trụ trì lãnh đạo
các ni trường, ni viện, là bậc thầy của chư Ni thành phố.
Khi chư Ni đã
trưởng thành đủ sức quản lý, Hòa thượng Hành Trụ thành lập Ban trụ trì Ni để
trông nom chùa. Năm 1962, sau một trận hỏa hoạn, chùa bị cháy, quý Ni trưởng
trong Ban trụ trì ra công tái thiết, đổi hiệu Tăng Già thành Kim Liên ni tự.
Ni trưởng Tịnh Khiết đảm nhiệm việc xây cất và trở thành vị trụ trì chính
thức. Ngoài việc chăm lo đời sống tu học của Ni chúng, chùa Kim Liên còn mở
lớp tiểu học phổ thông, với mục đích giúp đỡ con em gia đình lao động nghèo có
nơi để trau giồi kiến thức văn hóa. Đó là một việc làm thể hiện tinh thần nhập
thế của đạo Phật, đóng góp xây dựng xã hội ngày càng phát triển. Y theo chí
nguyện các bậc khai sơn tiền bối, ngày nay Kim Liên đã nằm trong hệ thống sinh
hoạt của Giáo hội. Mở trường hạ cho chư Ni các nơi tập trung tu học, lớp sơ
cấp Phật học, Tuệ Tĩnh đường miễn phí, đầu tư công sức và trí tuệ làm tốt đẹp
thành phố.
2- Ni
trường Từ Nghiêm
Bản thân
ni trường Từ Nghiêm ngay từ buổi
đầu đã nằm trong tổ chức giáo dục của Giáo hội. Năm 1950, Phật học đường Nam
Việt ra đời, trường Tăng đặt tại Ấn Quang, trường Ni đặt tại Từ Nghiêm, quận
10, Chợ Lớn. Lúc đó, ni trường chỉ có 3 gian nhà lá, Ni chúng dự học 40 vị. Cả
hai trường cùng chung một Ban Giám đốc và Ban Giảng huấn. Đến năm 1952, khu
vực đường Bà Hạt bị hỏa hoạn, ni trường Từ Nghiêm bị cháy vì vật liệu đơn sơ
tre lá. Quý Hòa thượng dời Ni chúng về chùa Dược Sư, Gia Định. Dù thiếu phương
tiện vật chất cũng như trở ngại về đường sá, nhưng quý Hòa thượng trong Ban
Giám đốc vẫn chăm lo bảo bọc để Ni chúng có nơi tu học. Với hạnh nguyện hoằng
thâm như thế, nên quý Ni trưởng ngày nay kính nể quý Ngài như bậc thầy tôn
kính.
Năm 1959, sau khi
Ban Quản trị Ni bộ thành lập, quý Ni trưởng quyết định tái thiết ni trường Từ
Nghiêm thành trụ sở Ni bộ. Trong việc xây dựng này, Ni trưởng Như Huệ là người
có nhiều công lao đáng tưởng nhớ. Ni trưởng Như Huệ xuất thân từ ni học đường
Vĩnh Bửu, ngay từ thời còn học ni, Ni trưởng đã được cụ Tổ Khánh Hòa nhận thấy
bản chất hy sinh hết lòng phục vụ đại chúng, nên giao nhiệm vụ trụ trì Vĩnh
Bửu. Nằm trong Ban Quản trị Ni bộ và phụ trách phần tài chánh trong thời buổi
kinh tế khó khăn, Ni trưởng vận động với từng Phật tử để lo xây dựng kiến tạo
cơ sở Ni bộ. Năm 1962, công tác kiến thiết hoàn thành, chùa Từ Nghiêm trở
thành ngôi già lam đĩnh đạc, uy nghi, Ni trưởng vẫn đơn giản trong chức vụ
quản lý của mình, tiếp tục công hạnh xây dựng đoàn thể Ni giới. Tuy Ni trưởng
không giữ nhiệm vụ giáo dục Ni chúng, nhưng cuộc đời và hạnh nguyện của Người
là một bài học sống động mà Ni chúng cần noi theo.
Năm 1964, từ trụ
sở Ni bộ Nam Việt thành trụ sở Ni bộ Bắc tông. Năm 1972, quý Ni trưởng trong
Ban Quản trị Ni bộ khai giảng lớp trung đẳng chuyên khoa, dạy song song chương
trình Phật học và thế học. Từ đó, ni trường Từ Nghiêm vừa là trụ sở Ni bộ, vừa
là Phật học ni viện đào tạo Ni chúng. Với hai chức năng, Từ Nghiêm chiếm một
vị trí quan trọng hàng đầu trong sinh hoạt Ni giới tại Sài Gòn-Chợ Lớn.
3- Ni
trường Dược Sư
Ni trường Dược Sư
là trường ni lớn nhất ở miền
Nam, phần đông Ni chúng từ các nơi quy tụ. Với hệ thống giáo dục đều đặn, tổ
chức nếp sống theo tinh thần giới luật và kỷ cương của Ni bộ, cùng với Ban
Giảng huấn uy tín của các trường Ấn Quang, Huệ Nghiêm, Vạn Hạnh. Từng lớp Ni
được thừa hưởng sự giáo dục đầy đủ cả phẩm và lượng, để hiện tại thành những
người có khả năng gánh vác Phật sự.
Ban Giám đốc đầu
tiên của trường Dược Sư là quý Hòa thượng trong Giáo hội Tăng già Nam Việt.
Khi Ni bộ thành lập, quý Hòa thượng chuyển giao cho quý Ni trưởng quản lý, kể
từ đó ni trường do chư Ni điều hành. Quý Ngài chỉ cố vấn và giảng dạy. Quý Ni
trưởng bắt đầu lãnh nhiệm vụ nặng nề lãnh đạo Ni chúng toàn miền
Nam, điều khiển các ni trường lớn. Tại ni trường Dược Sư, số lượng Ni sinh
khoảng 100 vị. Chương trình học song song vừa Phật pháp vừa thế pháp. Hàng
ngày, ngoài việc ôn tập kinh điển, trau giồi học hạnh, Ni chúng còn tham gia
các mặt công tác từ thiện xã hội như : mở lớp dạy ban đêm cho người thất học,
mở Tuệ Tĩnh đường hốt thuốc và châm cứu miễn phí, mở ký nhi viện để dạy các em
mồ côi, tùy theo khả năng của từng vị đảm nhiệm công tác khác nhau. Đời sống
tu học của chư Ni rất hài hòa sinh động, kết hợp giữa đạo và đời, luôn thể
hiện tinh thần từ bi cứu khổ ban vui của đạo Phật đến với những gia đình bất
hạnh, nghèo khổ, neo đơn.
Năm 1968,
ni trường Dược Sư trực thuộc
Tổng vụ Giáo dục do Hòa thượng Minh Châu làm Tổng vụ trưởng, đề cử Ni trưởng
Huyền Học làm Giám viện cùng với quý Ni trưởng Như Châu, Ni trưởng Huyền Huệ,
Ni trưởng Như Hòa... tiếp tục khai giảng lớp trung đẳng chuyên khoa I và II.
Qua từng giai đoạn giáo dục, ni trường Dược Sư đã đào tạo thành công Ni chúng
từ sơ trung đến đại học. Ni trưởng Huyền Học là vị Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông
đầu tiên nhiệm kỳ 1964-1967, cũng là vị thầy đạo phong khả kính, uy nghiêm,
mẫu mực nhưng vô cùng đơn giản, khi ở chức vụ điều hành, khi đứng cương vị
giáo dục, khi theo dõi học hạnh. Ni trưởng là hiện thân của giới luật, của
Phật pháp vi diệu. Ni chúng ở trường vô cùng phấn khích khi ngước lên nhìn
thấy các bậc thầy Ni làm tấm gương kính vọng. Bởi vì một Ban Giám đốc đạo hạnh
là điều kiện tiên quyết trong sự nghiệp giáo dục. Đại hội Phật giáo nhiệm kỳ
III tại thủ đô Hà Nội, Ni trưởng được đề cử vào Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung
ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Có thể nói, Ni trưởng là người tiêu biểu cho nền giáo dục Ni giới cận đại.
4- Ni
trường Huê Lâm
Ngày xưa những
ngôi chùa nổi tiếng, hoặc ở vào địa thế sơn thủy kỳ tú, hoặc có liên quan đến
di tích lịch sử, hoặc là nơi cư trú của các bậc long tượng thiền gia. Riêng
trường Huê Lâm nổi tiếng vì Ni trưởng Như Thanh, vị đệ nhất trưởng lão Ni của
miền Nam, người đứng đầu Ban Quản trị Ni bộ cùng với quý Ni trưởng thời bấy
giờ hướng dẫn Ni chúng đi vào đường lối sinh hoạt tốt đẹp, vững vàng. Nhờ sự
đoàn kết đúng thời kịp lúc, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa chùa ni này với chùa
ni khác, sách tấn và khuyến khích cho nhau trên bước đường tu học. Nhờ đó, Ni
chúng bước kịp theo đà tiến hóa của lịch sử. Có thể nói, Ni trưởng Như Thanh
là người nắm giữ cương lĩnh, người đề xuất phương án hoạt động, là bậc thầy
giáo dục không bao giờ mỏi mệt.
Huê Lâm cũng là
ngôi chùa Ni đầu tiên mở trường phổ thông trung tiểu học Kiều Đàm miễn phí, để
tạo điều kiện thuận tiện nâng cao kiến thức cho các em gia đình nghèo, đóng
góp phần xây dựng đạo đức văn hóa cho xã hội. Ngoài chương trình giáo dục, Ni
trưởng Như Thanh còn chỉ đạo cho Ni chúng tham gia các mặt công tác từ thiện
xã hội như mở lớp dạy may, lớp hướng nghiệp, làm kinh tế tự túc, phòng thuốc
Nam châm cứu miễn phí. Với hạnh nguyện tự lợi, lợi tha, Ni trưởng đã thành tựu
các mặt công tác Phật sự làm tốt đạo đẹp đời.
* GIÁO
DỤC XƯA VÀ NAY
Nhìn lại hệ thống
giáo dục Ni chúng ngày trước, chỉ có một vài
ni trường với số lượng đông nhất
khoảng 100 người. Đời sống nội trú khép kín theo tinh thần kỷ cương giới luật,
chương trình học đặt nặng về Phật pháp, không khí học viện trầm lặng, nhưng số
lượng thành tài đáng kể.
Hiện nay, với
đường lối giáo dục mở rộng, Ni chúng tự do theo học các trường lớp từ sơ cấp
đến đại học. Giáo dục bình đẳng cho Tăng và Ni, số lượng Ni sinh bao giờ cũng
vượt trội. Thành phố Hồ Chí Minh có sức hút đối với Ni sinh trẻ vì điều kiện
sinh hoạt dễ dàng, giáo dục đa dạng, có nhiều cơ hội tiến thân. Tại các phân
khoa đại học bên ngoài cũng có hình ảnh chư Ni tham dự, chứng tỏ khả năng học
hiểu và hoạt động của Ni giới vượt xa. Không khí học tập phát triển như vậy là
điều đáng mừng, nhưng bên cạnh còn có nỗi ưu tư của các bậc Ni trưởng khi thấy
giới Ni trẻ vượt khỏi tầm tay của mình, số lượng nhiều mà thực chất thì chưa
được bao nhiêu.
* KẾT
LUẬN
Trong mốc lịch sử
Phật giáo tại Sài Gòn 300 năm, chúng ta có dịp nhìn suốt những chặng đường
giáo dục của Ni giới từ buổi đầu khi thành lập giáo đoàn Ni, cho đến trải qua
các thời cận đại. Suốt chiều dài lịch sử, các bậc tiền nhân đã vượt qua biết
bao cam go thử thách để đạt mục đích xây dựng đào tạo thế hệ Ni lưu vừa có
học, vừa có hạnh, kiện toàn nhân cách của một tu sĩ. Nhất là trong giai đoạn
Phật giáo thời cận đại, các bậc tôn trưởng Ni đã thành tựu sở học, sở tu của
mình, vì được đào tạo trong vòng kỷ cương giới luật, được học hỏi kinh nghiệm
của thầy bạn truyền trao, được nung đúc rèn luyện trong ngôi nhà tập thể. Một
nền giáo dục hữu hiệu qua hình ảnh lãnh đạo sáng suốt của các bậc tôn đức Tăng
già tại Sài Gòn, đã đưa Phật giáo ngày càng vững mạnh trên đà phát triển của
xã hội, phần lớn đều xuất thân từ Phật học viện.
Xuyên qua cách tổ
chức các Phật học ni viện cho chúng ta nhiều kinh nghiệm về việc học và tu,
cũng như cách ứng xử của các bậc tiền nhân, luôn luôn bắt kịp và phát huy mọi
tính chất nội tại của mình. Ni chúng hiện nay cũng được dự phần giáo dục đầy
đủ, luôn có mặt trong mọi lãnh vực học đạo, học đời. Một thế hệ Ni trẻ tiếp
theo thừa hưởng truyền thống tinh thần của các bậc tiền bối, phải càng nỗ lực
hơn nữa trong việc tu học cũng như phụng sự đạo đời, mới mong xứng đáng là
những người con Phật sống trong thành phố đang phát triển.«
Ni giới Khất sĩ -
một dấu ấn trước dòng thời gian
Ni
trưởng THÍCH NỮ NGOẠT LIÊN
“Nguyện xin hiến
trọn đời mình
Cho nguồn đạo pháp
cho tình quê hương”
Lời
nguyện tha thiết của Ni trưởng như vẫn còn văng vẳng đâu đây, sâu lắng tận đáy tâm hồn như
thúc giục, nhắc nhở chúng ta về một lẽ sống “Đạo và Đời”. Vì thế mà sau khi
xuất gia tu học với Tổ sư Minh Đăng Quang, Tổ khai sơn hệ phái Khất sĩ Việt
Nam, một giáo phái mang riêng bản sắc Việt Nam, Ni trưởng đã được Tổ sư thọ ký
pháp danh Huỳnh Liên và từ đó Ni trưởng trực tiếp học đạo, nghe pháp với Tổ sư
qua những bài chân lý thực sống, bằng những thử thách gay go trên đường hành
đạo, để rèn luyện ý chí, giồi trau phẩm hạnh, hầu khai thị pháp thân, nối
truyền huệ mạng, truyền lưu giáo pháp Phật Đà. Ni trưởng đã được sự uỷ thác
của Tổ sư tiếp chúng độ Ni, trong phận sự trưởng tử Ni.
Với hạnh nguyện
làm chiếc thuyền chở che phái nữ, Ni trưởng đã nỗ lực lèo lái giáo đoàn Ni
giới Khất sĩ song song con thuyền Giáo hội Tăng già, tuyên lưu Phật pháp rộng
sâu trong quần chúng nhân gian, khai mở đạo tràng, giáo dưỡng môn sinh, cứu
trợ nạn nhân chiến tranh, nuôi dưỡng quả phụ cô nhi và cùng nhân dân đấu tranh
đòi hòa bình, thống nhất đất nước, đòi quyền sống cho phụ nữ.
Đặc biệt, tịnh xá
Ngọc Phương, trung tâm của Ni giới hệ phái Khất sĩ, nơi mang nhiều dấu ấn lịch
sử của Ni trưởng Huỳnh Liên, được thành lập từ năm 1958 là một trong hơn một
trăm ngôi tịnh xá từ Quảng Trị đến mũi Cà Mau do Ni trưởng kêu gọi, đóng góp
xây dựng nên, và riêng tại thành phố Hồ Chí Minh đã có gần 20 tịnh xá trực
thuộc Ni giới Khất sĩ dưới sự quản lý của Ni trưởng Huỳnh Liên, luôn mở rộng
cửa đón nhận các nạn nhân chiến tranh, trẻ mồ côi và cũng là hậu cần nuôi
dưỡng các phong trào sinh viên học sinh đấu tranh và những người làm cách
mạng. Đây cũng là căn cứ điểm của đội quân “không tóc” mà Ni trưởng giữ vai
trò tiên phong lãnh đạo.
Với chủ trương bất
bạo động, Ni trưởng Huỳnh Liên đã dẫn đầu các cuộc biểu tình lên án
chính phủ Mỹ gây chiến tranh tại
Việt Nam, cũng như phản đối ngụy quyền đàn áp, bắt bớ sinh viên học sinh, kỳ
thị tôn giáo, phá hoại các cơ sở tín ngưỡng, đàn áp tù chính trị. Ni trưởng
cũng tích cực đấu tranh đòi vãn hồi hòa bình tại Việt
Nam. Ngoài ra Ni trưởng còn hướng dẫn Ni giới Khất sĩ tham gia hàng loạt các
phong trào yêu nước khác như hỗ trợ đình công của công nhân bị chủ bóc lột,
vận chuyển tiền tiền bạc, thuốc men cho các chiến trường miền Tây Nam Bộ.
Song, mốc thời
gian đánh dấu cho bước phát triển toàn diện các hoạt động yêu nước của Ni giới
Khất sĩ, đó là việc Ni trưởng tham gia thành lập và giữ vai trò cố vấn cho
phong trào “Phụ nữ đòi quyền sống”, được ra mắt tại chùa Ấn Quang ngày
2-8-1971 và trụ sở của phong trào đặt tại tịnh xá Ngọc Phương do bà Ngô Bá
Thành lãnh đạo với tuyên ngôn “Đòi Mỹ rút quân về nước, đòi chấm dứt chiến
tranh, đòi thành lập một chính phủ thật sự đại diện cho nhân dân miền Nam, đòi
quyền sống và bảo vệ nhân phẩm phụ nữ”. Phong trào phụ nữ đòi quyền sống được
diễn ra sôi động tại Sài Gòn, được các giới ủng hộ và đã có ảnh hưởng lớn đến
các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Các năm tiếp sau, Ni trưởng tiếp tục tham gia thành
lập Mặt trận Nhân dân tranh thủ dân chủ hòa bình do cụ Đặng Văn Ký làm
chủ tịch.
Chiến tranh càng
lúc càng leo thang, Ni trưởng ngày càng hòa nhập phong trào quần chúng, đấu
tranh không súng không gươm, chỉ bằng đuốc trí tuệ, tính kiên trinh, quyết
liệt, không nại hà lửa bỏng dầu sôi, tích cực hy sinh cho quyền sống và hòa
bình dân tộc. Do vậy mà Ni trưởng đã lãnh đạo các phong trào đấu tranh bằng
những biện pháp hết sức thông minh, linh hoạt, làm cho địch phải thất điên bát
đảo; và từ đó, danh hiệu “Đội quân đầu tròn” bên cạnh danh hiệu “Đội quân tóc
dài” đã hiên ngang đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc, và những hoạt động
của Ni trưởng đã làm cho ngụy quyền gặp nhiều lúng túng, buộc phải thực hiện
một số yêu sách chính đáng của Phật giáo và quần chúng nhân dân. Các phong
trào đấu tranh tiếp tục diễn ra sôi động với mục tiêu rõ rệt là đòi dân quyền,
dân sinh dân chủ, đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, đòi thả tù nhân chính
trị, đòi thực hiện hiệp định
Paris, đòi hòa bình, hòa giải hoà hợp dân tộc... đã được các giới đánh giá rất
cao.
Chiến dịch
mùa
xuân 1975 đại thắng, nhưng dân
tộc ta vẫn chưa vơi khổ cảnh, nỗi lòng Bồ tát vẫn trĩu nặng ưu tư. Do vậy, Ni
trưởng vẫn tiếp tục nhiệt tình hưởng ứng và tích cực vận động chư Ni, Phật tử
nỗ lực đóng góp dài hạn tài vật cho Ni trưởng có phương tiện để thực hiện tốt
chính sách hậu phương quân đội, phúc lợi xã hội, tuyến đầu
tổ quốc, đoàn kết tương trợ
người già neo đơn, thiếu niên tàn tật, các trại nuôi trẻ mồ côi, các gia đình
thương binh liệt sĩ... thăm và tặng quà cho thương bệnh binh, các bệnh nhân
nghèo ở các trung tâm, trẻ em khuyết tật...
ngoài ra, Ni trưởng còn hướng dẫn Ni giới Khất sĩ trực tiếp
tham gia các công tác xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, tham gia vào công
cuộc vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam bằng tất cả tâm huyết của một nữ
tu chân chính luôn lấy nghĩa non sông làm nghĩa đạo, tất cả đều toát lên một
vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng, tấm lòng vô ngã vị tha. Người những mong một xã
hội công bằng-văn minh-bình đẳng, cơm no-áo ấm, con người nhìn nhau bằng ánh
mắt thiện cảm, đoàn kết, thương yêu. Ni trưởng Huỳnh Liên “thật sự là hiện
thân của sự hòa bình, nhuần nhuyễn tinh thần Phật giáo và tinh thần dân tộc”
được thể hiện qua bài thơ:
“Dầu tu sĩ cũng
công dân đất nước
Vì tình thương, vì
đạo đức đấu tranh
Cho tự do trong
độc lập hòa bình
Cho hạnh phúc
trong phồn vinh vĩnh cửu”
(Khúc thanh bình)
Tuy bận rộn nhiều
với các công tác từ thiện xã hội, nhưng phút giây nào Ni trưởng cũng vận dụng
trí tâm, nỗ lực dùng thân, khẩu, ý giáo hóa môn đồ, độ cư gia bá tánh. Vốn có
thiên phú về thi ca, Ni trưởng đã để lại cho đời hơn 2000 bài thơ, bài kệ đủ
loại, hàng ngàn bản văn xuôi, phần nhiều là khích lệ, sách tấn hội chúng xuất
gia cũng như tại gia phải nỗ lực tiến tu đạo nghiệp, lấy Giới, Định, Huệ làm
căn bản trừ diệt tham sân si, sống trong sạch giải thoát thanh cao, giồi trau
kiến thức; phải luôn luôn đoàn kết, thực hiện pháp Tam tụ lục hòa, vong kỷ lợi
tha, sớm tinh cần cơm thiền sữa pháp, sao cho vừa cứu mình, vừa giúp người vừa
lợi đạo ; thực hành nhiệm vụ thiêng liêng “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”
trong tứ phương thiên hạ để đáp ơn Phật pháp, Tổ
thầy. Ý thơ văn còn khuyến khích chúng Ni luôn luôn tỉnh giác
vô thường, khổ, không, vô ngã, vừa hành
thập thiện, lục độ, nếp
sống thuần lương, vừa gởi gắm bổn hoài cư sĩ, vừa gọi hồn dân tộc, thúc giục
đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng quê hương đất nước. Và cũng để giúp cho Ni
chúng, Phật tử lãnh hội được ý nghĩa súc tích, thâm sâu của kinh tạng chữ Hán
và Pàli, Ni trưởng chủ trương Việt hóa bằng cách diễn dịch các kinh trên ra
chữ quốc ngữ, thể văn vần cho dễ học, dễ hiểu và dễ nhớ. Một số kinh tụng
thường nhựt được Ni trưỏng diễn dịch như kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ
Môn, Báo Hiếu, Bát Nhã Tâm kinh, kinh Vô Ngã Tướng, kinh
pháp Cú, Di
giáo, Tứ Thập Nhị chương,
Khóa hư lục, Qui sơn cảnh sách...
đã được xuất bản, tái bản nhiều lần. Lời thơ của Ni trưởng giản dị, trong
sáng, với những hình ảnh cụ thể gợi cảm nên rất dễ đi vào lòng người. Thơ đạo
của Ni trưởng theo cảm niệm của Giáo sư Hoàng Như Mai thì đấy là những cụm hoa
không phải kén chọn, ươm trồng, chăm sóc với những công phu dành riêng cho các
loài hoa quý hiếm trong vườn thượng uyển, mà là hoa đồng, hương quê rất mộc
mạc, thân mật với chúng sanh; ai cũng có thể và nếu ưu thích thì dễ dàng hái
lấy để cài lên mái tóc hay đem về cắm ở nhà, không bị ngăn cấm gì hết vì là
của chung của mọi người, để trong nhà, hương thơm lan tỏa khắp nơi, ai đến gần
cũng được thơm lây. Đó là cái cách Ni trưởng đem đạo pháp đến cho mọi người.
Đặc biệt trong sự
nghiệp giáo hóa và dắt dìu Ni chúng, Ni trưởng luôn ôm ấp hoài bão đào tạo
Tăng tài để “kế vãng khai lai”; vì thế, ngoài việc hướng dẫn Ni chúng chuyên
tu giải thoát, Ni trưởng còn khuyến khích, hỗ trợ Ni chúng học thêm văn hóa,
học rộng Phật pháp. Bởi vì Ni trưởng chủ trương:
“Tu có học mới
rạng ngời chánh pháp,
Học có tu mới lợi
đạo, ích đời”
Và Ni trưởng vẫn
thường xuyên nhắc nhở chư Ni: “Mỗi người học chữ phải trau giồi đạo đức, lấy
sự tu chứng làm việc chứ không phải chỉ học suông. Mỗi người phải biết lấy
công ơn tín thí, công ơn Thầy tổ
làm rường cột, kim chỉ nam cho sự tu học hành đạo” (Trích
lời di chúc của Ni trưởng).
Trong sự nghiệp tu
học của Ni chúng, Ni trưởng cũng đã khuyến khích chư Ni trực tiếp lao động sản
xuất, tạo nền kinh tế tự túc cho nhà chùa, góp phần cải thiện đời sống của chư
Ni và Phật tử, cũng vừa tạo ra của cải vật chất cho xã hội, góp phần xây dựng
đất nước Việt Nam ngày một thăng hoa, giúp cho thành phố thân yêu ngày thêm
tươi đẹp.
Dẫu rằng ngày nay
Ni trưởng đã yên nghỉ nơi cõi Niết bàn vắng lặng, nhưng công nghiệp của Ni
trưởng mãi còn đây, trong lòng thành phố thân yêu, trong tâm khảm những con
Phật, trong lòng Đảng, lòng dân, như cụ Huỳnh tấn Phát, Phó Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã viết :
“Vô cùng thương
tiếc Ni sư Huỳnh Liên, một vị chân tu giàu lòng yêu nước, đã bất chấp sự đàn
áp dã man của địch, sẵn sàng chấp nhận mọi sự gian khổ hy sinh, kiên quyết
xuống đường, đấu tranh dũng cảm kiên cường vì nền độc lập tự do của đất nước
và nêu cao tinh thần xả thân vì chánh nghĩa theo gương sáng của
đức Phật”.
Thật đúng như tâm
nguyện của Ni trưởng:
“Đi ta đi!
Quyết dấn thân vào
Chốn khổ đau mà
sớt khổ đau
Người Việt lâm
nàn, người Việt cứu
Tương thân, tương
trợ nghĩa đồng bào”
(Trích Lên
đường cứu khôí)
Phải chăng niềm
tin yêu cuộc sống, yêu chuộng hòa bình tự do, công lý đã thúc giục giới tu sĩ
Phật giáo từng bước đi lên nối tiếp truyền thống phụng đạo cứu đời của các
Thiền sư trong thời Đinh, Lê, Lý, Trần; trong thời kỳ kháng chiến chống
pháp, chống Mỹ và còn biết bao
tu sĩ đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc. Trong đó có hình ảnh
của Ni trưởng Huỳnh Liên, Ủy viên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam,
Ủy viên Kiểm soát Hội đồng Trị sự GHPGVN, đại biểu Quốc hội khóa VI, Ủy viên
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận thành phố
Hồ Chí Minh, Ủy viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ
Hòa bình thế giới Tp. Hồ Chí
Minh, Phó Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo
yêu nước
tp. HCM, Trưởng Ni giới hệ phái
Khất sĩ Việt Nam.
Ngày nay, đứng
giữa ngôi tịnh xá Ngọc Phương, nơi một thời Ni trưởng sống, làm việc và hành
đạo, nay đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là “Di tích lịch sử” theo
quyết định số 2754QĐ/BT ngày
15-10-1994, chúng tôi muốn nói nhiều lắm, nhưng ngôn từ nào có thể diễn đạt
cho tường tận, dẫu rằng dòng thời gian âm thầm trôi biền biệt, nhưng tấm gương
sáng chói, công hạnh tuyệt vời, chí nguyện cao cả, đức trí viên dung và tinh
thần bất khuất của Ni trưởng mãi mãi khắc sâu và rạng chiếu trong tâm khảm Ni
giới Khất sĩ chúng tôi. Giờ đây, công hạnh của Ni trưởng đã viên mãn, báo thân
Ngài đã từ giã cõi đời để lại bao niềm tiếc thương vô hạn, nhưng đạo nghiệp
của Người vẫn luôn vẻ vang, sáng chói trong mọi sinh hoạt Phật giáo và dân
tộc:
“Chí bất khuất vì
hạnh phúc tự do,
Chiếc áo Khất sĩ
vẻ vang trong Ni giới;
Nguyện kiên cường
cho hòa bình độc lập,
Tấm thân nữ lưu
nêu gương sáng chốn tòng lâm”
(Hòa thượng Thích
Từ Thông)
Ôi! Tấm lòng vì
Đạo vì Đời của Ni trưởng mênh mông bát ngát như biển khơi.
Thành kính trân
trọng những bước vừa hùng lực, vừa từ bi hỷ xả của Ni trưởng. Chúng con nguyện
mãi mãi nỗ lực tinh tấn trong đạo nghiệp, thực hiện bổn hoài mà Ni trưởng đã
một đời tâm niệm.«
Sự tu học của Tăng sĩ Phật giáo
trong suốt
300 năm hình thành
và phát triển TP Sài Gòn
Ban
soạn dịch Từ Điển Phật học Huệ Quang
Thành
phố Sài gòn được thành lập đến nay đã 300 năm, Phật giáo cũng có mặt tại thành phố này
bằng tuổi của thành phố.
Nói như thế không
có nghĩa là Phật giáo chính thức được thành lập cùng năm tháng với thành phố.
Theo dấu chân hoằng hóa của các Thiền sư ở các vùng Đồng Nai-Gia Định, từ đầu
thế kỷ XVII, các Tăng sĩ đã theo các di dân từ Đàng Ngoài cùng một số ít người
Hoa vào Đồng Nai-Gia Định lập nghiệp. Sự hiện diện của các Thiền sư là một chỗ
dựa tinh thần vững chắc cho các di dân nơi đất lạ quê người.
Đầu tiên có thể kể
đến Hòa thượng Chuyết Công (tức Thiền sư Viên Văn-Chuyết Chuyết) và một số đệ
tử, trong đó nổi tiếng nhất là Thiền sư Minh Hành-Tại Tại, có lẽ hoằng hóa ở
vùng Sài Gòn từ năm 1630. Khoảng năm 1692-1695, sau những biến cố chính trị và
các cuộc nổi loạn của A Ban, Chưởng Cơ, Nguyễn Phước Thông, Nguyễn Phước Huệ,
Quảng Phú và Linh Vương ở miền Trung, Tổ sư Nguyên Thiều vào lập chùa Kim Cang
ở Đồng Nai, Thiền sư Thành Đẳng-Minh Lượng vào lập chùa Đại Giác ở Đại Phố,
Biên Hòa. Các Thiền sư đã đào tạo được nhiều đệ tử nổi danh như Minh Vật-Nhất
Tri, Minh Giác-Kỳ Phương, Thành Nhạc-Ẩn Sơn..., mở rộng phạm vi hoằng hóa
xuống vùng Gia Định và các tỉnh Nam Bộ. Như vậy, khi thành phố Sài Gòn được
chính thức thành lập, Phật giáo đã thực sự hiện diện tại đây, tuy chưa thành
hình rõ nét, nhưng hình ảnh của các Thiền sư thể hiện tinh thần lợi tha quảng
bác, an ủi vỗ về, giúp đỡ tinh thần và những nghi lễ tôn giáo cho những di dân
mới đến lập nghiệp giữa vùng rừng thiêng nước độc, nổi tiếng với cọp beo, cá
sấu và ma quỷ thần linh.
Năm 1734, chúa
Nguyễn Phước Khoát chính thức xưng vương. Võ vương với đạo hiệu Từ Tế Đạo Nhân
là người có tinh thần Phật giáo rất lớn. Ông phát động phong trào di dân từ
miền Trung vào Đồng Nai-Sài Gòn, khiến dân số vùng này ngày một đông thêm,
Phật giáo cũng theo đó mà phát triển mạnh mẽ.
Những ngôi chùa
đầu tiên ở thành phố Sài Gòn, có thể kể đến chùa Từ Ân và chùa Khải Tường, do
Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc khai sơn vào năm 1744, tức nằm trong công viên Tao
Đàn ngày nay. Chùa Giác Lâm do cư sĩ Lý Thoại Long sáng lập vào năm 1744, tức
là chùa ở đường Lạc Long Quân ngày nay, chùa Thiên Trường do Thiền sư Pháp
Nhân khai sơn vào năm 1755, ở gần Cầu Kho ngày nay, chùa Kim Chương (tức hiện
nay là chùa Lâm Tế ở quận 1) do Thiền sư Đạt Bổn khai sơn vào năm 1756. Ngoài
ra còn có một số chùa nổi tiếng như Sắc tứ Tập Phước tự ở Bình Thạnh, chùa
Long Nhiễu, chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức, chùa Hội Sơn, chùa Phụng Sơn, chùa Mai
Sơn, chùa Phước Kiến, chùa Trường Thọ v.v... Như vậy, cuối thế kỷ 18, thành
phố Sài Gòn đã có nhiều ngôi chùa lớn, chứng tỏ tu sĩ đã khá đông đảo và Phật
giáo đã đi vào tổ chức đàng hoàng.
lTÌNH
HÌNH TU HỌC CỦA CHƯ TĂNG CUỐI THẾ KỶ XVIII
Như chúng ta đã
biết, thời đại hoàng kim của Phật giáo Việt
Nam là đời Trần, văn hóa Phật giáo phát triển rực rỡ và toàn diện. Trong đó,
đáng chú ý nhất là việc khắc in Đại tạng kinh Việt Nam do Thiền sư Pháp Loa,
Tổ thứ 2 của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử chủ trì. Trong lần khắc in này, Đại
tạng kinh có khoảng hơn 5.000 quyển, trong đó có một số tác phẩm của chư Tổ
Việt Nam và của Phật giáo đời Trần. Tiếc thay! Khi nhà Minh sang xâm lược nước
ta, tướng Trương Phụ đã mang toàn bộ kinh sách ấy về Kim Lăng thiêu hủy hết.
Như vậy, trải qua
các triều đại Lê Mạc, Tây Sơn, Trịnh-Nguyễn phân tranh, kinh sách Phật giáo ở
Việt Nam chỉ còn lại một số ít lưu truyền trong các ngôi cổ tự, một phần do
chư Tổ thỉnh từ Trung Quốc sang. Khi các Thiền sư vào hoằng hóa ở các vùng
Đồng Nai-Gia Định, chắc chắn việc thỉnh kinh sách từ miền Trung vào là vô cùng
hiếm hoi. Từ đó chúng ta có thể suy định, việc tu học của chư Tăng thời bấy
giờ hoàn toàn là do thầy truyền cho trò, kiến giải Phật pháp căn cứ vào sự tu
chứng. Tuy không có nhiều kinh sách để tham học, nhưng hình ảnh vị Tăng sĩ
trong thời gian này cũng chứng tỏ là những người học rộng hiểu nhiều nhất
trong tầng lớp xã hội đương thời,
Về việc tổ chức tu
học của chư Tăng thời bấy giờ, giữa các chùa viện với nhau có một mối quan hệ
rất mật thiết. Năm 1772, bổn đạo chùa Giác Lâm đã đến chùa Từ Ân xin Hòa
thượng Phật Ý-Linh Nhạc bổ nhiệm Tăng sĩ và trụ trì chùa Giác Lâm. Hòa thượng
cử đệ tử là Tổ Tông-Viên Quang đến đảm nhiệm chức vụ này. Thiền sư Viên Quang
là một vị Tăng sĩ có tài đức kiêm toàn. Sư lấy chùa Giác Lâm làm nơi đào tạo
các Tăng sĩ trẻ ở Gia Định, tổ chức gần giống như một Phật học viện ngày nay.
Chùa đài thọ mọi chi phí cho Tăng sinh trong khoảng thời gian tu học ở đây,
học tăng khoảng trên 50 người. Rất tiếc là không còn tài liệu nào ghi chép
việc tổ chức và chương trình giảng dạy thời đó ra sao. Nhưng điều chắc chắn là
đào tạo được một số danh tăng nổi tiếng như Tiên Giác-Hải Tịnh, Minh Vi-Mật
Hạnh... Các học tăng thời bấy giờ có lẽ không chỉ thuộc phạm vi
sài Gòn ngày nay, mà có thể là từ Đồng Nai, hoặc các địa
phương thuộc thành Gia Định (gồm cả 6 tỉnh Nam Kỳ sau này) cũng đến cư ngụ
tham học. Thiền sư Viên Quang là người uyên thâm cả Nho học lẫn Phật học. Thuở
nhỏ Sư thường cùng Trịnh Hoài Đức đến chùa Đại Giác ở Đại Phố, Đồng Nai để lễ
sám. Sau, Sư xuất gia, Trịnh Hoài Đức theo Nho học, được thăng tiến đến chức
Hiệp Biện Đại Học Sĩ, tước An Toàn Hầu. Trong sách Gia Định thành thông
chí, Trịnh Hoài Đức có chép bài thơ của ông tặng Thiền sư Viên Quang nhân
gặp Sư tại một dịp lễ ở chùa Tập Phước (xã Bình Hòa - Gia Định, thuộc quận
Bình Thạnh ngày nay). Bài thơ ngũ ngôn đặc sắc này thể hiện trình độ thâm hiểu
Phật pháp của một Hiệp Tổng Trấn thành Gia Định, tài đức của Thiền sư Viên
Quang và tình hình Phật giáo trước đó:
Nhớ xưa thuở thái
bình
Đất Đồng Nai thạnh
mỹ
Đạo Phật được hưng
sùng
Nhà ngoại thêm phú
quý
Ta đồng tử đốt
hương
Sư giới hạnh tu
hành
Bên ngoài chia đạo
đời
Bên trong đồng tâm
chí
Loạn lạc phải xa
nhau
Thế giới thành ngạ
quỷ
Ta trôi nổi vào ra
Bọt bèo biển sanh
tử
Mới đó bốn mươi
năm
Chớp nhoáng chuyện
thế sự
Nay bỗng nhiên
nhàn hành
Nơi Thiền môn gặp
gỡ
Ta Hiệp Biện Trấn
công
Sư cao tăng Thượng
sĩ
Nhìn xưa như giấc
mộng
Tâm cùng tâm tương
nghị
Chuyện xưa nói sao
cùng
Đạo lớn vốn “Như
thị”.
(Bản dịch của
Nguyễn Lang - VNPGSL, tập 2)
lPHẬT
GIÁO SÀI GÒN VÀO THẾ KỶ XIX
Tiếp nối sự nghiệp
mở mang của các tiền bối đi trước, Phật giáo thành phố Sài Gòn vào thế kỷ XIX
thực sự đã chiếm một vị trí quan trọng, tạo ảnh hưởng tất yếu trong lòng quần
chúng và là một đề tài không thể thiếu trong việc nghiên cứu lịch sử phát
triển văn hóa của thành phố trẻ trung này.
Ngoài một số Tăng
sĩ được đào tạo tại học đường Giác Lâm vào cuối thế kỷ trước, các cao tăng của
miền Trung cũng vào khai sơn tạo tự và hoằng hóa ở Sài Gòn rất nhiều. Thiền sư
Tiên Giác-Hải Tịnh, trụ trì chùa Từ Ân, từng được Tả quân Lê Văn Duyệt dâng sớ
tâu vua Minh Mạng sắc ban Sư ra làm Tăng cang chùa Thiên Mụ ở Huế. Sau được
vua Thiệu Trị thể theo biểu tấu của các đại thần phê duyệt cho Tăng cang Hải
Tịnh về trụ trì chùa Giác Lâm. Năm 1844, Sư mở trường Hương ở chùa Giác Lâm
cho chư Tăng ở miền Nam trú học, thỉnh Hòa thượng Phổ Nguyện làm Pháp sư kiêm
Thiền chủ, Yết ma Từ Cang ở chùa Trúc Lâm làm Thủ tọa. Năm 1849, Tăng cang Hải
Tịnh được suy tôn làm Hòa thượng Đường đầu trong giới đàn ở chùa Giác Lâm. Năm
1864, Hòa thượng Chánh Trực ở chùa Khải Tường cũng mở giới đàn truyền giới.
Đây có thể là những giới đàn đầu tiên được tổ chức tại Sài Gòn.
Vào giữa thế kỷ
XIX, trong nghi lễ Phật giáo ở Nam Kỳ xuất hiện phong trào ứng phú. Qua kinh
nghiệm giảng dạy các lớp Phật học và hoằng dương Phật pháp từ thành Gia Định
đến kinh đô Huế, Thiền sư Hải Tịnh nhận thấy nghi lễ là một hình thức tôn giáo
có khả năng hoằng dương rất hiệu quả. Khoa ứng phú có thể giúp Phật pháp
truyền bá rộng rãi, nhờ chư tăng
đến nhà của tín đồ làm lễ, tạo nhân duyên cho những người ở các địa phương có
dịp nghe được kinh điển, phát tâm theo đạo Phật.
Năm 1850, Quan Âm
các được trùng tu lại thành chùa Giác Viên (cạnh khuôn viên Đầm Sen ngày nay),
trở thành trung tâm ứng phú của lục tỉnh Nam Kỳ. Thiền sư Hải Tịnh có triệu
tập một cuộc đại hội của chư tăng
để phổ biến chủ trương “Bảo vệ và phát huy tinh hoa của khoa ứng phú theo đúng
với đạo Phật cổ truyền”. Chùa Giác Viên được Tăng tục quy tụ đông đảo, tài
chánh dồi dào, hỗ trợ đắc lực về mặt đời sống cho chư
tăng tu học tại chùa Giác Lâm. Tiếc rằng sau khi quân Pháp
đánh chiếm vào Gia Định, chư Tăng hai chùa sơ tán, tinh thần ứng phú không còn
là nét đẹp của Phật giáo nữa. Một số Tăng sĩ chuyên đi làm thầy cúng, lấy việc
ứng phú làm kế sinh nhai.
Cuối thế kỷ XIX,
Phật giáo Sài Gòn nổi tiếng với các danh tăng như Minh Vi-Mật Hạnh
(1828-1898), Minh Khiêm-Hoằng Ân (1850-1914), Như Phòng-Hoằng Nghĩa
(?-1929)... Đây là thời gian mà các Thiền sư chú trọng nhiều đến việc tạo điều
kiện học Phật cho chư Tăng hơn. Khoa ứng phú không còn là cách hoằng dương hữu
hiệu đúng theo tinh thần của chánh pháp, nên các
ngài hướng dẫn chư Tăng vừa học
Phật vừa đi sâu vào hành trì theo chủ trương “Thiền Giáo song hành” mà chư Tổ
truyền dạy. Năm 1889, Tỳ kheo Huệ Lưu ở chùa Huê Nghiêm (Thủ Đức ngày nay)
biên soạn lại sách Tỳ Ni Nhật Dụng và Quy Sơn Cảnh Sách thành Tỳ Ni, Sa Di,
Oai Nghi, Cảnh Sách (gọi tắt là Trường Hàng luật). Thiền sư Minh Khiêm-Hoằng
Ân trụ trì hai chùa Giác Lâm và Giác Viên chú giải và khắc bản in vào năm
1894, các bản gỗ ấy hiện nay vẫn còn lại một số tại chùa Giác Viên. Việc biên
soạn và chú giải Trường Hàng luật cho thấy chư
tăng thời bấy giờ muốn đặt định
lại đời sống thực sự của một tăng
sĩ, lấy giới luật làm thầy, tinh tu thiền định, phát triển huệ học. Một số tác
phẩm cũng được soạn thuật cho thấy khuynh hướng chú trọng giới luật và sự
truyền thừa mạng mạch của Phật giáo, như Tông phái sự tích của Thiền sư
Hải Tịnh soạn, Sự tích Giới đàn luận của Giáo thọ Quảng Thạnh ghi. Một
số thi kệ cũng nói lên điều đó, như Bài kệ thi giới ở chùa Sùng Phước
(1870), Bài kệ công khóa cho hàng xuất gia do Yết ma Phước Chí ở chùa
Đức Lâm khắc bản in. Ngoài ra, ngài Minh Khiêm-Hoằng Ân còn cho khắc bản in
Tống Đàn Tăng diễn nôm, thơ nôm Hứa Sử Vãn truyện (1880), Nhân
quả thực lục toàn bản, Lăng Nghiêm kinh tán, Thí thực khoa
(1898) v.v... Tuy nhiên, so với rừng kinh điển Phật giáo, kinh sách tại Sài
Gòn thời bấy giờ còn quá ít ỏi. Ngoài những trí tuệ đạt được nhờ sự tu chứng,
tư tưởng của Tăng sĩ đương thời còn bị hạn chế rất nhiều. Một số vị giỏi Hán
học phải lặn lội ra miền Trung, miền Bắc để tham học. Một số thơ Nôm được sáng
tác để đáp ứng nhu cầu học Phật sơ đẳng của giới bình dân không đủ để chư
tăng đi sâu vào Kinh điển. Các
giáo lý như nhân quả báo ứng, nghiệp chướng luân hồi... trở thành giáo lý nòng
cốt được truyền tụng trong các thơ vè lục bát bằng văn Nôm. Dưới sự giám sát
của chính quyền Pháp thuộc và chủ trương Âu hóa của giới tân học, Phật giáo bị
xem như yếm thế, tiêu cực, tình trạng tưởng chừng ngày một xấu đi.
lPHẬT
GIÁO SÀI GÒN ĐẦU THẾ KỶ XX
Nhờ ảnh hưởng công
cuộc chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Đại sư ở Trung Quốc, đầu thế kỷ XX, Phật
giáo ở Việt Nam
cũng có một sự chuyển biến đáng kể. Một số vị trưởng lão ở thế kỷ trước hiện
còn làm giềng mối cho Tăng đoàn, miền Bắc có Tổ Bồ Đề-Nguyên Biểu, miền Trung
có Tổ Vĩnh Gia, ở Sài Gòn có các vị Minh Khiêm-Hoằng Ân, Như Phòng-Hoằng Nghĩa
v.v..., hàng hậu tấn có các danh tăng giỏi cả Hán học và Tây học, uy thế của
Phật giáo đối với triều đình cũng rất lớn, trong đó có Quốc sư Phước Huệ từng
được các vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định mời vào cung thuyết pháp. Ngoài ra
còn có một số danh tăng rất quan tâm đến việc chấn hưng Phật giáo, đem giáo lý
Từ Bi phổ cập trong quần chúng trên tinh thần khế lý khế cơ của nhà Phật, nổi
tiếng như các Hòa thượng Giác Tiên (1880-1936), Hòa thượng Khánh Hòa
(1877-1947), Hòa thượng Chánh Thành chùa Vạn An (1872-1949), Hòa thượng Huệ
Quang (1888-1956), Hòa thượng Khánh Anh (1895-1961)... Một hàng ngũ danh tăng
đầy tinh thần thiết tha với đạo pháp như thế, đủ cho ta thấy Phật giáo đầu thế
kỷ XX ở Việt Nam
có mầm chuyển biến như thế nào.
Riêng ở Sài Gòn,
hai chùa Giác Lâm và Giác Viên vẫn là chiếc nôi của Phật giáo thành phố. Một
số ngôi chùa lớn khác cũng được sáng lập hầu đáp ứng cho nhu cầu học Phật của
tín đồ. Vào thời kỳ này, tu sĩ ở Sài Gòn đã khá đông đảo. Trong tác phẩm
“Sài Gòn năm xưa” (1960) của Vương Hồng Sển có đoạn viết: “Ngày làm lễ
nhập tháp của Thiền sư Như Phòng-Hoằng Nghĩa ở gần chùa Giác Viên (23-12-1929)
có trên 1.000 vị tăng đến dự”.
Con số này đủ cho ta thấy lực lượng Tăng Ni ở thành phố trước giai đoạn chấn
hưng Phật giáo đông đảo như thế nào.
Nhu cầu học Phật
nhiều như thế, còn điều kiện tu học thì thế nào? Đương thời, ngoài một số thư
tịch chữ Hán, chữ Nôm vẫn còn sử dụng như một thứ quốc ngữ phổ biến khi ngôn
ngữ La-tinh chưa phổ cập được trong mọi giai tầng. Bấy giờ tiếng Pháp được sử
dụng rộng rãi, nhưng thư tịch tiếng Pháp về Phật học thì hoàn toàn chưa có.
Chư Tăng phần nhiều học Phật bằng chính chữ Hán, một vài kinh điển được diễn
nôm, nhưng chưa phải là cách tốt
nhất để nghiên cứu Phật điển sâu sắc được. Năm 1912, Hòa thượng Như Nhãn-Từ
Phong, trụ trì chùa Giác Hải (gần cầu Phú Lâm ngày nay) diễn
nôm bộ Quy nguyên trực chỉ, một số áng thơ
nôm cũng chuyển tải giáo lý nhà
Phật, nhưng chỉ mang tính chất cơ bản, sơ sài. Các trường gia giáo vẫn được
duy trì, nhưng chưa có tính đại trà. Vì thế, một vị Tăng muốn đến học tại một
trường gia giáo, có khi phải đi bộ hàng 20 cây số để đến nghe một đoạn kinh.
Cái cảnh thức khuya, dậy sớm từ 2 giờ sáng, gói cơm mang nước đi bộ đến trường
học trở thành chuyện thường ngày của Tăng sĩ Sài Gòn đầu thập niên 20, 30.
Kinh sách đương
thời vốn dĩ hiếm hoi, muốn tra cứu một từ ngữ chuyên môn trong Phật học, chư
tăng phải tìm đến các bộ sách
Trung Quốc, như Đại Minh Tam Tạng Pháp Số Mục Lục, hoặc các ngoại thư như Từ
Hải, Khang Hy Tự Điển. Trong các tự viện, kinh điển vỏn vẹn được vài bộ Kim
Cang, Pháp Hoa, Địa Tạng, Di Đà... hoặc được các Thiền sư Trung Hoa thỉnh
sang, hoặc được chép tay truyền tụng. Muốn khắc in một bộ kinh như kinh Pháp
Hoa, mỗi trang là một bản gỗ to như cánh cửa, phải thực hiện nhiều năm với một
kinh phí rất lớn mới hoàn thành được. Bản gỗ khắc xong là chất hàng kho, giấy
má lại thiếu thốn, phương tiện giao thông khó khăn, nếu không có một công cuộc
đổi mới, Phật giáo dễ bị trệ ngại, hạn chế trong một số chùa viện ở trung tâm,
hình ảnh vị sư dễ trở thành một ông từ giữ chùa hay chuyên việc ứng phú. Thiền
môn dễ trở thành nơi ru ngủ cho một số sĩ phu bất đắc chí, những kẻ chán đời,
nương câu kệ lời kinh nơi cửa Phật cho tiêu ngày đoạn tháng, trốn tránh bể khổ
hồng trần đầy phiền muộn cam go. Chính một số tác phẩm văn học đương thời đã
nói lên điều đó, như Chuyện tình Lan và Điệp, Phong nho, Hồn
bướm mơ tiên v.v... Trong bối cảnh duy tân đầy tiến bộ, mầm nụ đã ươm sẵn
từ lâu, chỉ chờ ngày trỗi dậy.
lCÔNG
CUỘC CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO (1930-1945)
Phật giáo Sài Gòn
nằm trong sự chuyển biến chung của toàn quốc, vì thế muốn tìm hiểu sự phát
triển của Phật giáo Sài Gòn, không thể không nói đến công cuộc chấn hưng của
Phật giáo Việt Nam.
Như trên chúng tôi
đã trình bày về tình hình Phật giáo đầu thế kỷ XX, tuy không có một khuôn mặt
sáng sủa, nhưng những yếu tố căn bản đã đủ sức làm nền tảng cho một cuộc chấn
hưng.
Phong trào chấn
hưng Phật giáo lúc bấy giờ là một phong trào có tính quốc tế, được khởi xướng
đầu tiên ở Ấn Độ bởi cư sĩ David Hewavitarante, người Tích Lan, sau này xuất
gia thành Đại đức Dharmapada. Được sự hỗ trợ và khuyến khích của thi sĩ người
Anh là Edwin Arnold, tác giả The Light of Asia, Dharmapada thành lập
hội Mahabodhi Society, xuất bản tạp chí Phật học, giai cấp hạ tiện ở Ấn
Độ nhờ đó theo Phật rất đông. Ngày
14-10-1956, năm ngàn người đã làm lễ quy y trong một lần.
Năm 1908, chính
Dharmapada là người vận động cư sĩ Dương Nhân Sơn thành lập tinh xá Kỳ Hoàn ở
Trung Hoa. Năm 1912, Thái Hư Đại sư lập Phật học viện Vũ Xương và nhiều hiệp
hội khác như Phật giáo Hợp tiến, Phật giáo Tổng hội, Phật giáo Liên hiệp, Phật
giáo Cư Sĩ Lâm v.v... Năm 1918, tạp chí Giác Xã ra đời ở Trung Hoa và
sau đó biến thành nguyệt san Hải Triều Âm. Đây là một cơ quan ngôn luận
có ảnh hưởng đến công cuộc phục hưng ở Việt
Nam. Trong lúc đó, ở các nước Myanmar, Sri Lanka,
Nhật Bản cũng có nhiều chuyển biến. Nhờ một số học giả có khuynh hướng Tây học
đã khám phá ra tư tưởng siêu việt của Phật giáo, nên quay về nghiên cứu Phật
giáo với một phương pháp khoa học. Niềm tin Phật giáo của các nước Á Đông sống
dậy với tất cả lòng nhiệt tình cố hữu, tạo tiền đề cho Phật giáo Việt Nam.
Người đầu tiên vận
động chấn hưng Phật giáo Việt Nam phải nói là Hòa thượng Khánh Hòa, nhân ngày
giỗ tại chùa Long Hoa, quận Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào ngày 19-9 (âm lịch)
năm 1923, sư vận động chư vị tôn túc khắp các tỉnh miền Tây họp bàn. Kết quả
là hội Lục hòa Liên hiệp ra đời.
Hòa thượng Khánh Hòa đã lặn lội ra miền Trung vận động chấn hưng, cùng
sư Thiện Chiếu ở miền Bắc, sau
mấy năm nhưng vẫn không có một kết quả khả quan. Thấy rõ chưa thể thành lập
một hội Phật giáo chung cho cả ba miền, Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Huệ
Quang cùng với các vị Thiện Niệm, Từ Nhãn, Chơn Huệ và một số cư sĩ có Tây học
như Ngô Văn Chương, Phạm Ngọc Vinh, Nguyễn Văn Cần, Trần Nguyên Chấn v.v... tổ
chức một Thích học đường và Phật học Thư xã tại chùa Linh Sơn, đường Doaumont,
Sài Gòn, vào năm 1928. Đến năm 1930, hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ra đời, lấy chùa Linh Sơn, Sài Gòn (tức ở đường Cô
Giang, quận 1 ngày nay) làm trụ sở. Hội do Thiền sư Như Nhãn-Từ Phong (trụ trì
chùa Giác Hải, Phú Lâm) làm Hội trưởng. Hội cho xuất bản tạp chí Từ Bi Âm
do Hòa thượng Khánh Hòa chủ nhiệm, ra mắt số đầu tiên vào ngày 1-3-1932.
Như vậy, Sài Gòn
là một thành phố sinh sau đẻ muộn so với các tỉnh có nền văn hóa lâu đời ở
miền Trung và miền Bắc, nhưng lại là một trung tâm đầu tiên đặt cơ sở chấn
hưng Phật giáo. Sau đó, miền Trung mới thành lập
hội An Nam Phật học, đặt trụ sở
tại chùa Trúc Lâm, do Hòa thượng Giác Tiên chủ trì cùng với sự cộng tác của
các cư sĩ Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Tân v.v... Tạp chí Viên Âm do Bác
sĩ Lê Đình Thám chủ biên ra mắt số đầu tiên vào ngày 1-12-1933.
Đến lượt miền Bắc, các danh tăng Trí Hải, Tâm Ứng và Tâm Bảo ở Hà Đông thấy
Nam và Trung đã lập hội, liền ra Hà Nội cùng phối hợp với các ông Lê Dư,
Nguyễn Hữu Kha, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ v.v... thành lập hội Phật giáo Bắc Kỳ.
Hội thành lập vào năm 1934, lấy chùa Quán Sứ ở đường Richard (tức phố Quán Sứ
ngày nay) làm trụ sở, suy tôn Hòa thượng Thanh Hanh làm Thiền gia pháp chủ,
Nguyễn Năng Quốc làm Hội trưởng. Hội xuất bản tập kỷ yếu số 1 vào ngày 1-5-1935,
ít lâu sau xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ.
Ba
hội Phật giáo đầu tiên được
thành lập ở ba miền, tiếp theo còn có nhiều hội nữa được thành lập, hội nào
cũng có tạp chí xuất bản riêng, các chi hội cũng lần lượt được thành lập ở các
tỉnh. Tuy ra đời sớm, nhưng hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học hoạt động không hiệu quả lắm do một vài yếu tố nhân
sự. Hội thỉnh được Đại tạng kinh và Tục tạng kinh từ Trung Quốc về chùa Linh
Sơn để làm tư liệu học Phật, xây dựng được một số trường ốc, nhưng không thực
sự tiến hành giảng dạy Phật học như ở hội
An Nam Phật học tại miền Trung, đó cũng là lý do
hội Lưỡng Xuyên Phật học ra đời
ở Nam Bộ.
lPHẬT
GIÁO SÀI GÒN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY
Sau sự cáo chung
của chế độ phong kiến, thế lực chống đối Phật giáo của một số phần tử hủ nho
đã không còn nữa, lại thêm một luồng gió mới từ Tây phương thổi sang, văn hóa,
học thuật hoàn toàn lột xác. Sài Gòn bấy giờ được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn
Đông”, tinh ba văn hóa quy tụ về thành phố như nước chảy về chỗ trũng. Phật
giáo cũng theo đó mà khoác một khuôn mặt mới, rạng rỡ hơn, tươi đẹp hơn - và
tất nhiên - cũng chịu nhiều sóng gió hơn.
Nói tiếp
truyềnthống của các Phật học đường ngày xưa, năm 1947, Liên Hải Phật học đường
được mở tại chùa Vạn Phước, xã Bình Trị Đông, Gia Định, do Thượng tọa Trí Tịnh
lãnh đạo. Phật học đường này có chương trình dạy từ Sơ đẳng đến Cao đẳng. Năm
đầu, lớp cao nhất là Sơ đẳng 3 quy tụ 70 học tăng. Năm 1948, một Phật học
đường cấp tiểu học ra đời lấy tên là Mai Sơn, đặt tại chùa Mai Sơn thuộc huyện
Bình Chánh ngày nay. Trường này quy tụ khoảng hơn 50 học tăng, do Thượng tọa
Huyền Dung lãnh đạo. Năm 1949, một Phật học đường khác ở cấp tiểu học ra đời
đặt tại Vườn Lài lấy tên là Phật học đường Ứng Quang do Thượng tọa Trí Hữu phụ
trách. Đây là tiền thân của chùa Ấn Quang hiện nay.
Năm 1950, Phật học
đường Nam Việt được tổ chức tại chùa Ấn Quang sau khi kết hợp các Phật học
đường Liên Hải, Sùng Đức và Ứng Quang. Năm 1953, Phật học đường Phật Quang ở
Trà Ôn cũng gia nhập vào Phật học đường Nam Việt. Hòa thượng Thích Thiện Hòa,
người xuất thân từ hội Lưỡng
Xuyên Phật Học, một vị phạm tăng đức độ cao dày, ôn hòa độ lượng, sau bao năm
tháng tham học khắp ba miền Nam, Trung, Bắc, Hòa thượng đã về chủ trì tại chùa
Ấn Quang lịch sử này. Với sự cộng tác của một số danh tăng khắp hai miền Nam
-Trung, các lớp Phật học được đào tạo theo một chương trình mới, hiệu quả và
quy mô hơn.
Sự kiện lớn thứ
hai là sự ra đời của Giáo hội Tăng già Nam Việt vào ngày 8-3-1953, đại chúng
suy tôn Hòa thượng Huệ Quang làm Pháp chủ chính thức. Năm 1956, Ni bộ cũng
được thành lập, Ni chúng xuất gia nhiều vô kể. Hai ni trường lớn là Từ Nghiêm
và Dược Sư cũng được khai giảng theo chương trình của Giáo hội đề ra. Từ năm
1956 trở đi, với sự hướng dẫn của Thượng tọa Nhất Hạnh, chương trình giáo dục
mới được áp dụng tại Phật học đường Nam Việt. Các học tăng sau khi tốt nghiệp
Trung đẳng Phật học đã có một kiến thức phổ thông tương đương với trình độ tú
tài. Sau đó, song song với việc học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam
Việt, nhiều học tăng ghi tên học Đại học Sư phạm hoặc Đại học Văn khoa Sài
Gòn. Sau khi có bằng Cử nhân Văn khoa hoặc Sư phạm, các vị này về mở các
trường tư thục Bồ Đề, như một hình thức giáo dục mang sắc thái Phật giáo.
Ngoài ra có những vị xuất ngoại để tiếp tục theo Phật học hay các ngành triết
học, xã hội học...
Ngoài Phật học
đường Nam Việt ở chùa Ấn Quang, tại Sài Gòn còn có Phật học đường Giác Nguyên
ở Khánh Hội do Hòa thượng Hành Trụ chủ trì, Phật học đường Giác Sanh do Hòa
thượng Thiện Thành chủ trì, Phật học viện Huệ Nghiêm do ba Hòa thượng Bửu Huệ,
Thanh Từ và Thiền Tâm chủ trì, cùng một số Phật học đường ở cấp nhỏ hơn. Phật
học viện Huệ Nghiêm quy tụ đến 350 Tăng sinh ở khắp miền Nam, sau biến thành
Cao đẳng Phật học viện, đào tạo rất nhiều Tăng tài phụng sự Phật pháp đến ngày
nay.
Kể từ khi Phật
giáo Việt Nam được chính thức làm hội viên
hội Phật giáo Quốc tế (1950) đến
khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập (1963), vỏn vẹn chỉ
có 14 năm so với 250 năm thành lập thành phố, nhưng sự phát triển về văn hóa
Phật giáo có thể nói là quá lớn lao. Viện Đại học Vạn Hạnh ra đời dưới sự đảm
trách của Hòa thượng Minh Châu đã là một nét son trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam. Có đến mấy mươi tạp chí của Phật giáo chuyển tải nội dung Phật học phổ
cập quần chúng, nhiều nhà in, nhà xuất bản của Phật giáo hoạt động liên tục
tại Sài Gòn. Kinh điển Bắc truyền được dịch sang Việt văn rất nhiều, nổi tiếng
là các Hòa thượng Trí Tịnh, Trí Quang, Thiện Siêu v.v... Đại tạng kinh hệ Nam
truyền cũng được Hòa thượng Minh Châu phiên dịch sang Việt văn, xuất bản đều
đặn tại Tu thư Vạn Hạnh. Phật giáo quy tụ khá nhiều phần tử trí thức cư sĩ, hỗ
trợ đắc lực cho công cuộc hoằng dương Phật pháp về mọi mặt văn hóa, học thuật,
hội họa, âm nhạc, thi ca v.v...
Sau năm 1975, Phật
giáo lắng xuống, hòa nhập vào một thể chế mới. Năm 1981, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam
được thành lập, tinh thần học Phật lại bắt đầu trỗi dậy. Thành phố Hồ Chí Minh
nghiễm nhiên cũng trở thành trung tâm phát triển Phật học tại Việt Nam. Trường
Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở 2 được thành lập, cũng do Hòa thượng Minh Châu
đảm trách. Trường Cơ bản Phật học thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức tại hai
chùa Vĩnh Nghiêm và Thiên Minh. Về sau, các lớp Sơ cấp Phật học cũng được
thành lập khắp các quận huyện trong thành phố. Ban
phiên dịch và Ấn hành Đại tạng
kinh Việt Nam cũng được hình thành với sự đóng góp của khắp các danh tăng
trong nước. Ban Hoằng pháp trung
ương tổ chức các khóa bồi dưỡng Giảng sư, tổ chức giảng dạy Phật pháp ở nhiều
chùa viện trong thành phố. Có thể nói, sự tu học của các Tăng Ni được Giáo hội
tạo mọi điều kiện thuận lợi, từ cơ sở vật chất đến tinh thần. Một số Tăng Ni
tốt nghiệp Cao cấp Phật học được đi du học nước ngoài, chắc chắn đội ngũ kế
thừa sẽ đưa Phật giáo bước đi vững chãi vào thế kỷ XXI.
lTHỰC
TRẠNG KINH SÁCH PHẬT GIÁO TẠI TP HỒ CHÍ MINH
Khoa học kỹ thuật
phát triển, ngành in ấn cũng được nâng cao. Các bản dịch kinh điển của các
dịch giả hầu hết đều được xuất bản và phát hành. Từ khi mới chấn hưng Phật
giáo, chư tôn giáo phẩm đã chú trọng việc phiên dịch kinh điển sang quốc ngữ.
Như trên chúng tôi đã trình bày, các kinh điển hệ Bắc truyền hầu hết được tham
khảo trong Trung văn Đại tạng kinh, các kinh điển hệ Nam truyền được Hòa
thượng Minh Châu dịch từ bản Pàli Text Society. Trước năm 1975, các học tăng
tốt nghiệp Cao đẳng Phật học hầu hết đều thạo hai ngôn ngữ: cổ ngữ Hán và sinh
ngữ Pháp. Sau 1975, các học tăng tốt nghiệp phần lớn thạo Anh ngữ, riêng trình
độ quốc văn có thể nói là tuyệt đối. Các tác phẩm viết về mọi lãnh vực Phật
giáo được xuất bản nhiều vô kể. Thế nhưng, các từ ngữ Phật học dùng trong các
bản kinh được dịch của các dịch giả không được nhất quán. Nhiều từ ngữ Phật
học khá căn bản lại không được các học tăng hiểu biết chính xác. Do vậy, việc
am hiểu Phật học đối với đại đa số người học chỉ là một lớp nổi hào nhoáng bên
trên sự mịt mờ về ngôn ngữ. Nguyên nhân thực trạng này là do đâu?
Theo chúng tôi,
các bộ từ điển Phật học ở Việt
Nam còn quá ít ỏi, hiếm hoi, đó là nguyên nhân chính tạo nên sự hiểu biết cạn
cợt về từ ngữ Phật học. Chừng nào Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn muốn sự
thống nhất về những từ ngữ được dùng trong các bản dịch, và để người học hiểu
biết chính xác về Phật học, thì việc làm từ điển Phật học hiện nay phải được
xem như việc làm cần thiết nhất.
Điểm qua những thư
tịch thuộc phạm vi Mục lục học của các nước có Phật giáo phát triển, chúng ta
mới thấy sách vở của Việt
Nam ở phạm vi này nghèo nàn và hạn chế như thế nào.
Ở Trung Quốc, việc
phân loại từ điển có thể chia ra làm 5 loại:
1. Sắp xếp, phân
loại các danh tướng: Như Kinh Chúng Tập, Kinh Thập Thượng trong Trường
A-hàm, Kinh Pháp Tập Danh Số, Đại Minh Tam Tạng Pháp Số, Giáo Thừa Pháp
số v.v...
2. Ký sự, sao lục
sự tương quan giữa các Kinh luận: Như Kinh Luật Dị Tướng của ngài Bảo
Xướng đời Lương, Pháp Uyển Châu Lâm của ngài Đạo Thế đời Đường.
3. Tổ chức và phụ
giải từng hạng mục: Như Pháp Môn Danh Nghĩa Tập của ngài Lý Sự
Chính đời Đường, Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện của ngài Nghĩa Tịnh đời
Đường, Đại Tống Tăng Sử Lược của ngài Tán Ninh đời Tống.
4. Lấy ngôn ngữ
làm trung tâm: Như Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, Phiên Phạn Ngữ của ngài
Bảo Xướng đời Lương, Phạn Ngữ Tạp Danh của ngài Lễ Ngôn đời Đường,
Phiên Dịch Danh Nghĩa Đại Tập (Phạn: Mahàvyutpatti), Phiên Dịch Danh
Nghĩa Tập (có chú thích tiếng Phạn) của ngài Pháp Vân đời Tống, Chỉ
Quốc Dị Thổ Tập của ngài Huệ Hoãng v.v...
5. Giải thích các
danh từ khó hiểu, khó đọc trong Đại tạng kinh hoặc một bộ kinh nào đó: Như
Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa của ngài Huyền Sướng đời Đường, Nhất Thiết
Kinh Âm Nghĩa của ngài Huệ Lâm v.v...
Đầu thế kỷ XX,
ngoài những kinh sách thuộc lãnh vực Mục lục học truyền thống của Trung Quốc,
hình thức từ điển đã bắt đầu xuất hiện. Đầu tiên phải kể đến Phật học tiểu
từ điển của Đinh Phúc Bảo, lấy bộ từ điển của Chức Điền Đắc Năng người
Nhật Bản làm gốc, xuất bản năm 1919. Tiếp theo là Phật học đại từ điển
(1921) cũng của Đinh Phúc Bảo, rồi Thực dụng Phật học từ điển của Cao
Quán Lư và Hà Tử Bồi chủ biên (1934), Phật học từ điển của Tả Tú Linh
biên soạn (1984). Về loại từ điển mang tính chất nghiên cứu riêng biệt một
lãnh vực nào đó thì nhiều vô kể, như Pháp tướng từ điển (1937),
Trung Quốc Phật giáo Nhân danh đại từ điển (1974), Đại Tạng Hội Duyệt
(1978), Trung Quốc Thiền học (1984) v.v...
Ở Nhật Bản, từ
điển Phật học lại càng nhiều hơn nữa. Đầu tiên là Phật giáo đại từ điển
của Chức Điền Đắc Năng (1917), Phật giáo đại từ vựng (1935), Phật
giáo đại từ điển (1936), Phật giáo từ điển (1938), Phật
giáo học từ điển (1955), Tân Phật giáo từ điển (1962), Phật giáo
ngữ đại từ điển (1975), Tổng hợp Phật giáo đại từ điển (1987)... Từ
điển về tôn giáo và các lãnh vực khác có Phật thư giải thuyết đại từ điển
(1931), Ấn Độ Phật giáo cố hữu danh từ từ điển (1931), Hán dịch đối
chiếu Phạn hòa đại từ điển (1940) v.v... Tính hết có đến mấy mươi loại từ
điển về Phật học, ở đây không tiện liệt kê hết. Ngoài ra còn có một số từ điển
bằng tiếng Anh, tiếng Pháp được sử dụng rộng rãi trong giới học thuật như
Handbook of Chinese Buddhism (1870) của E. J. Eitel, A Dictionary of
Chinese Buddhist Terms (1937) của W. A. Soothill, Erklarendes
Wonterbuch zun Chinesischen Buddhismus (1951) của H. Hackmann và J. Nobel,
Buddhistisches Worterbuch (1954) của Nyanatiloka, Encyclopaedis of
Buddhism (1963) của G. P. Malalasekera biên soạn, hầu giúp cho việc tra
cứu, đối chiếu về các ngôn ngữ Sankrit, Pàli, Tây Tạng v.v... được thuận lợi.
Các trường đại học tông giáo cũng có soạn từ điển thuộc phạm vi tông phái
mình, như Mật giáo đại từ điển (1932-1933), Tịnh độ tông từ điển
(1943), Thiền học đại từ điển (1973) v.v... Thời gian gần đây, để thích
ứng với nhu cầu của thời đại, Nhật Bản đã sáng tạo ra một loại “Sổ tay Phật
học”, giúp cho Phật giáo được xã hội hóa và học thuật hóa, như Phật giáo
Thánh điển (1977), Phật cụ từ điển (1978), Phật giáo thường thức
tiểu bách khoa (1978). Loại sổ tay này có công năng như một bộ từ điển,
giới thiệu các Phật sự thường thức cơ bản như nghi thức tống táng, những hành
sự trong năm v.v... Có thể nói từ điển Phật học ở Nhật Bản rất đa dạng và phổ
cập cùng khắp.
Trở lại Việt
Nam, giữa bao nhiêu mặt nổi, các từ điển Phật học chỉ đếm được trên vài đầu
ngón tay. Người học Phật muốn hiểu rõ ràng một từ ngữ nào, đến hỏi các vị
tăng, mỗi người trả lời mỗi khác. Các từ điển thông dụng từ trước đến nay,
phần nhiều chỉ dành cho giới chuyên môn. Trước năm 1945, các dịch giả thường
sử dụng Đại Minh Tam Tạng Pháp Số Mục Lục, vốn chỉ lưu hành ở Việt Nam
có vài bản. Có lúc từ Sài Gòn, các vị phải lặn lội ra đến chùa Thập Tháp ở
Bình Định mới tra được một từ ngữ Phật học quý báu.
Khi Phật giáo được
chấn hưng, tác phẩm được các Hòa thượng sử dụng nhiều nhất là Phật học đại từ
điển bằng chữ Hán của Đinh Phúc Bảo. Đây là bộ đại từ điển Phật học đầu tiên
của Trung Quốc, được khai sáng vào năm 1912, đến năm 1921 mới khắc in xong,
lấy số nét nhiều ít làm thứ tự, khoảng 300 vạn lời, hơn 30.000 hạng mục, mô
phỏng theo thể lệ kiểm tự của Khang Hy tự điển. Tác phẩm thứ hai được thông
dụng là Thực dụng Phật học từ điển, do Thượng Hải Phật học Thư cục xuất
bản năm 1934. Hai bộ từ điển trên có rất ít ở Việt
Nam, từ ngữ chưa nhiều, giải thích còn đơn giản, lại là chữ Hán nên số người
sử dụng được cũng rất hạn chế.
Năm 1956, nhà in
Hưng Long tái bản một cuốn Tự điển Hán-Việt của cư sĩ Thiều Chửu (xuất
bản lần đầu năm 1934). Đây là tác phẩm dành cho người học chữ Hán, nhưng nhờ
Thiều Chửu có hiểu biết Phật học, nên cách giải thích các từ vựng gần gũi với
các từ ngữ được dùng trong kinh điển, có thể được xem là quyển sách gối đầu
giường cho Tăng Ni trẻ mới bắt đầu học chữ Hán. So với các bộ từ điển hiện đại
đương thời như Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển
của Nguyễn Văn Khôn, Hán-Việt từ điển của Nguyễn Quốc Hùng v.v...
thì tác phẩm của Thiều Chửu được giới học Phật sử dụng nhiều nhất, dù nó chỉ
là một cuốn tự điển mà thôi.
Năm 1966, Phật học
Tòng thơ xuất bản bộ từ điển Phật học đầu tiên bằng quốc văn của học giả Đoàn
Trung Còn. Đây là một tác phẩm được tác giả biên soạn khá công phu. Đầu tiên,
tác giả trình bày một bản đối chiếu Pháp-Phạn-Hán-Nhật-Tây Tạng, sau đó là
phần Việt-Hán. Dưới mỗi hạng mục, soạn giả ghi rõ xuất xứ, ngữ nghĩa của từ
ngữ. Ngoài từ ngữ Phật học còn có phụ lục một số từ ngữ Triết học và ngoại
thư. Đây là bộ từ điển Phật học rất thông dụng trong hoàn cảnh hiếm hoi từ
điển ở Việt Nam,
nhưng cách trình bày vốn không được khoa học lắm, ngôn ngữ diễn đạt chưa được
hoàn hảo. Hơn nữa, sự khảo cứu Phật học ngày một mở rộng, một tác phẩm như thế
không thể đáp ứng nhu cầu học Phật trong thời đại thông tin cực kỳ tiến bộ như
hiện nay.
Năm 1984, tại
thành phố Hồ Chí Minh xuất hiện một bộ Phật học từ điển do hai vị Minh
Châu và Minh Chi biên soạn, nhưng so với tác phẩm của Đoàn Trung Còn thì quá
thô sơ, lại thiếu chính xác nên không được thông dụng. Bộ Bách khoa Phật
học từ điển của học giả Lê Mạnh Thát xuất hiện ở Sài Gòn, được hai vần A,
B thì gián đoạn.
Năm 1994,
viện Khoa học Xã hội xuất bản
Từ điển Phật học Hán-Việt. Đây được xem như bản dịch Thực dụng Phật học
từ điển của Trung Quốc. Sách này được biên soạn thành hai tập, thời gian
xuất bản hai tập lại cách nhau quá xa, có người có được tập 1 thì không có tập
2, người có tập 2 lại không có tập 1. Cách sắp xếp hạng mục theo thứ tự A B C,
nhưng kỳ thật trong đó có nhiều chỗ sắp xếp không hợp lý, khó tra tìm. Khi
chuyển dịch từ Hán sang Việt, có nhiều câu dịch sai với nguyên bản rất xa. Dù
sao thì đây cũng là một thiện chí đáng được hoan nghênh của
viện Khoa học Xã hội.
Rừng ngôn ngữ Phật
giáo vô cùng phong phú, nghĩa lý lại sâu xa khó hiểu. Việc biên soạn một bộ từ
điển Phật học ngang với tầm vóc thời đại là hết sức cần thiết. Năm 1991,
ban
biên dịch Phật Quang đại từ
điển được thành lập, lấy tu viện Huệ Quang, quận Tân Bình, làm cơ sở.
Phật Quang đại từ điển là một bộ sách lớn do Phật Quang Sơn ở Cao Hùng,
Đài Loan, biên soạn, Đại sư Tinh Vân làm chủ biên. Tác phẩm tổng hợp toàn bộ
những từ ngữ liên quan đến Phật giáo, cho đến các danh tăng, học giả, tự viện
ở khắp các nước, có thể xem như một bộ bách khoa từ điển Phật học. Sau khi xin
phép Phật Quang Sơn, ban
biên tập soạn dịch và sắp xếp
lại theo thứ tự A, B, C. Song, nội dung trong từ điển và cả cách trình bày một
hạng mục nhiều chỗ không phù hợp với cấu trúc tiếng Việt. Ngoài ra còn có
nhiều hạng mục thuộc lãnh vực tông giáo như công án Thiền tông, Dụng ngữ Nhân
minh... ở đây lại giải thích theo kiến giải thông thường, dài dòng, đôi lúc
vượt quá phạm vi của một bộ từ điển. Vì vậy
ban
phiên dịch Phật Quang đại từ
điển quyết định chỉ lấy Phật Quang đại từ điển làm lam bản, biên soạn
lại thành Từ điển Phật học Huệ Quang, đặc biệt có phụ lục thêm nhiều
danh tăng, danh tự và các tác phẩm Phật học của Việt Nam từ năm 1945 trở về
trước, với nguyện vọng đáp ứng được phần nào nhu cầu học Phật của Việt Nam
hiện nay. Công trình dự định sẽ hoàn thành vào cuối năm 1999, mừng Phật giáo
thành phố Hồ Chí Minh bước vào thế kỷ 21, đánh dấu 300 năm hình thành và phát
triển thành phố Sài Gòn.
lKẾt
LUẬN
Hòn ngọc Viễn Đông
tương lai sẽ là một thành phố của con rồng châu Á, Phật giáo thành phố Hồ Chí
Minh cũng sẽ cất cánh bay cao trên nền trời cẩm thạch của giáo pháp Như Lai.
Ba trăm năm chưa
phải là thời gian quá dài so với tuổi của một thành phố, nhưng cũng không phải
là quá ngắn để phát triển một nét đẹp văn hóa, nhất là văn hóa Phật giáo vốn
đầy tinh thần Từ bi, lấy Chơn-Thiện-Mỹ làm mục đích giải thoát cứu cánh. Ba
trăm năm ấy, biết bao thăng trầm bĩ cực, Phật giáo vẫn là một đoàn thể hiện
diện ở hàng ngũ đầu tiên trong mọi lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, học
thuật... xuyên suốt tự tình dân tộc. Nếu muốn hình ảnh Phật giáo không bị nhòa
đi giữa thời đại thông tin vốn đánh mất dần tính cách truyền thống, Phật giáo
cần phải phát huy nhiều hơn nữa cơ cấu tổ chức, đào sâu học thuật và chư
tăng phải thực tu thực học. Ban
Hoằng pháp cần tổ chức lại việc in ấn kinh sách, tạo điều kiện cho việc biên
soạn và dịch thuật các tác phẩm giá trị, hầu đẩy lùi dần những tệ đoan, hủ
hóa, đem lại những nét tươi sáng đích thực cho Phật giáo. Có như thế, chúng ta
mới hy vọng đưa Phật giáo Việt
Nam từng bước sánh kịp Phật giáo các nước tiến bộ, đem lại hòa bình, độc lập,
ấm no cho toàn thể nhân loại.
Phục hưng
thiền Trúc Lâm Yên Tử
Hòa
thượng THÍCH THANH TỪ
Tôn
giáo là một lĩnh vực của tinh thần, góp phần xây dựng nền đức lý cho xã hội, đem lại sự an lạc
hạnh phúc và trật tự cho nhân loại. Phật giáo (PG) giúp cho chúng ta vượt
thoát mọi khổ đau, nỗi bức xúc, từ những thăng trầm của cuộc sống, những sóng
gió của cuộc đời mang đến; nó đưa hành giả đến chỗ an lạc, thấy rõ chân lý của
cuộc sống, từ đó tiến đến giải thoát, không còn trầm luân trong cảnh khổ.
Qua sử liệu, lịch
sử truyền thừa của PG Việt Nam, nếu bắt đầu từ Khương Tăng Hội (đầu thế kỷ thứ
ba), là giai đoạn Giáo tông; từ thế kỷ thứ bảy đến giữa thế kỷ thứ mười chín,
là sự truyền thừa của các thiền phái như: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường, thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Lâm Tế, Tào Động.
Trong các thiền
phái đó, chỉ có thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang bản sắc đặc thù của dân tộc,
mà Sơ Tổ là người Việt Nam khai sáng. Nó đã góp phần xây dựng văn hóa, chính
trị, quân sự, đạo đức cho dân tộc; đã viết lên những trang sử oai hùng, xây
dựng đời cực thịnh cho đất nước. Như trong phần Tổng quan về Phật giáo đời
Trần, tác giả Việt
Nam Phật giáo sử luận Nguyễn Lang đã nhận định: “PG Trúc Lâm là
một PG độc lập; uy tín tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt.
Nó là xương sống của một nền văn hóa Việt
Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp nhận những ảnh hưởng của PGTrung
Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng, nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình. Đứng về
phương diện tư tưởng, tổ chức, cũng như hành đạo, Giáo hội Trúc Lâm có những
nét độc đáo, khiến cho nó chỉ có thể là một Giáo hội Việt Nam, phục vụ cho
người Việt, duy trì và bồi đắp cá tính Việt” (tập 1, trang 254).
Tuy biết rằng với
tinh thần “vô ngã” của đạo Phật, thì PG không có phân biệt biên cương, lãnh
thổ và chủng tộc, nhưng vì mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng, nên Giáo
hội PG của mỗi nước có những nét đặc thù, và sự sinh hoạt khác nhau. Trong mối
giao lưu văn hóa giữa các nước, sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân
loại để làm giàu cho kho tàng văn hóa văn minh của mình, không thể gọi là một
sự bắt chước để phủ nhận giá trị của nó, mà là một sự tiếp thu có chọn lọc, có
sáng tạo theo bản sắc đặc thù của mỗi dân tộc. Do đó, không thể nói PG đời
Trần, hay thiền Trúc Lâm Yên Tử đã chịu ảnh hưởng của các hệ phái thiền đương
thời và trước đó, mà không có tính sáng tạo và không có gì gọi là đặc điểm của
thiền tông Việt Nam.
Tuy Trúc Lâm Đại
Đầu Đà là Tổ thứ sáu của hệ phái Yên Tử, và tôn thờ Tuệ Trung Thượng Sĩ làm
thầy (nhưng Thượng Sĩ vốn là cư sĩ nên không thể truyền giới pháp cho Ngài, và
không có chú ý đến hình thức tổ chức Giáo hội), cho nên Ngài xứng đáng là Sơ
Tổ của hệ phái Trúc Lâm. Với tài tổ chức của một minh quân, Ngài đã thống nhất
các thiền phái đương thời thành một Giáo hội thống nhất, đưa Thiền tông hòa
nhập vào dân tộc, với những tổ chức và hình thức lễ nghi biểu hiện ý thức, tự
lực tự cường, độc lập của dân tộc thời bấy giờ. Ngài cho phát hành sách giáo
khoa về đạo Phật (Thích khoa giáo, Chư phẩm kinh...), và cho phát hành toàn
quốc cuốn Phật giáo pháp sự đạo tràng công văn cách thức, để thống nhất
về nghi lễ cầu an, cầu siêu, chẩn tế, thọ giới, khánh thành... Giáo hội thời
này đã lập sổ Tăng tịch và cấp độ điệp cho Tăng Ni. Suốt quá trình lịch sử
phát triển của PG Việt
Nam, chúng ta nhận thấy đây là thời cực thịnh của PG Việt Nam, đưa PG trở
thành quốc giáo. Vua Trần Nhân Tông xứng đáng là vị giáo chủ lãnh đạo Giáo
hội, là một vị Tổ khai sáng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. PG đời Trần đủ điều
kiện để đại diện cho Thiền tông Việt Nam. Vì thế, việc nghiên cứu, đánh giá về
thiền phái Trúc Lâm là một vấn đề đang đặt ra cho toàn xã hội ; trong phần bài
viết này, chúng tôi xin lược trình những nét chính theo cái nhìn chủ quan của
chúng tôi.
I.-
THIỀN TÔNG VIỆT NAM NÂNG CAO GIÁ TRỊ PHẬT GIÁO VN
1- Ông vua đi tu:
Ở Ấn Độ, ông hoàng thái tử xuất gia tìm đạo giải thoát cứu
khổ chúng sanh. Ở Việt
Nam, một ông vua xuất gia vào núi tu hành để cứu dân độ thế. Vị Thái tử không
màng giàu sang danh vọng, kể cả tương lai ngôi vị hoàng đế, trốn đi tu tìm cho
ra mối đạo giải thoát để cứu khổ chúng sanh. Như vậy, đạo giải thoát này phải
cao siêu tột đỉnh, Ngài mới vứt bỏ ngôi vị cao sang nhất trên đời. Vua Trần
Nhân Tông thấm nhuần được Phật pháp, đang ngự trị ngai vàng mà chối bỏ, giao
lại cho con, xuất gia tu Phật, tu theo hạnh Đầu đà. Phật giáo nếu không cao
siêu, kỳ đặc thì làm sao lôi cuốn hấp dẫn được ông vua dám “xem ngai vàng như
dép rách”, đổi chiếc áo ngự bào, mặc áo nâu sồng làm người xuất gia vào núi tu
hành. Giá trị PG ở Ấn Độ thật siêu xuất, giá trị PG Việt Nam cũng phi thường,
mới đủ sức thuyết phục một ông hoàng, một ông vua đi tu. Ở Việt Nam, đời Trần
ông vua đi tu Phật, ông trạng nguyên đi tu Phật, chúng ta thử xét giá trị Phật
giáo đời Trần cao siêu đến ngần nào. Phật pháp đã cao siêu, người tu cũng đáng
kính, cho nên PG rất thịnh hành trong thời này. Chúng tôi phục hưng tinh thần
PG đời Trần cốt để nâng cao Phật giáo Việt Nam hiện nay.
2- Ông Tổ Thiền
tông người Việt Nam: PG Việt Nam từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 18
do Thiền tông lãnh đạo truyền bá, các hệ phái Thiền tông hầu hết từ Trung Hoa
truyền sang như: phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Vô Ngôn Thông, phái Thảo
Đường..., những vị Tổ đứng đầu mỗi hệ phái đa phần người Trung Hoa, Ấn Độ. Chỉ
có phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, ông Tổ đầu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà chính thực là
người Việt Nam. Ông Tổ Việt
Nam mới thông cảm tâm tư, nguyện vọng, phong tục tập quán của người Việt Nam,
giáo hóa mới thích ứng nhu cầu người Phật tử Việt Nam.
II.-
ĐẶC ĐIỂM CỦA THIỀN TÔNG VIỆT NAM
1-
Không chỉ riêng người xuất gia mà cư sĩ cũng ngộ đạo
a)- Vua Trần Thái
Tông (1218-1277): Đây là ông vua đầu nhà Trần, bẩm tính hâm
mộ tu Phật, gặp duyên trắc trở đau buồn, ông liền trốn lên núi Yên Tử xin tu
(1236)... Thái sư Trần Thủ Độ dẫn quan quân đi tìm, đến núi Yên Tử gặp vua,
ông quyết thỉnh vua về cho được. Vua đành phải trở về tiếp tục công việc trị
dân. Hơn mười năm khi rảnh rỗi, vua mời các bậc kỳ đức đến hỏi đạo tham thiền.
Vua thuật lại: “Trẫm thường đọc kinh Kim Cang đến câu “Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm”, trong khoảng để quyển kinh xuống ngâm nga bỗng nhiên tự ngộ.
Liền đem sở ngộ này viết thành bài ca, để tên là Thiền tông chỉ nam”
(trích trong bài tựa Thiền tông chỉ nam).
Qua đó, chúng ta
thấy đang lúc ngự trên ngai vàng cai trị muôn dân, vua vẫn nghiên cứu Phật
pháp và tham thiền được ngộ đạo. Ai đa đoan bận rộn bằng ông vua đầy nhiệt
tình lo cho đất nước, thế mà quyết tâm tu liền ngộ đạo. Đây là tấm gương sáng
để chúng ta học tập theo.
b)- Tuệ Trung
Thượng Sĩ (1230-1297):
Tướng quân Trần Tung, con Trần Liễu,
đã hai phen cầm quân đánh giặc Nguyên Mông. Sau khi giặc tan, nước nhà thái
bình, ông lui về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên làng Vạn Niên. Ông học thiền và
ngộ đạo với Thiền sư Tiêu Dao ở tịnh xá Phước Đường. Vua Thánh Tông kính quý
ông nên tặng hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ và gởi Thái tử Trần Khâm đến học thiền
với ông. Trong quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, vua Trần Nhân Tông
tán thán: “Ôi tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng
thắn uy đức, Thượng Sĩ bàn huyền nói diệu trong lúc gió mát trăng thanh, những
hàng thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch
hạnh thật khó lường được”. Chẳng những cư sĩ đến học thiền với Thượng Sĩ mà
Tăng sĩ cũng đến tham vấn. Con người của Thượng Sĩ thật tiêu dao phóng khoáng,
đọc tác phẩm Vui thú giang hồ của Thượng Sĩ thấy rõ.
Tâm xưa hồ hải
chửa từng khuây
Ngày tháng như tên
lại tợ thoi
Gió mát trăng
thanh sinh kế đủ
Non sông nước biếc
nếp sống đầy
Sáng sớm giương
buồm băng nước thẳm
Chiều nâng sáo
thổi cợt gió mây
Tạ Tam nay đã
không tin tức
Để chiếc thuyền
trơ bãi cát này.
Cuộc sống của
Thượng Sĩ đơn giản, đạm bạc, không màng danh lợi, nội tâm lúc nào cũng sung
mãn an vui. Đọc bài thơ Tự tại sẽ thấy:
Bìm chuột không
nhơn mãi mãi xâm
Lui về, già gởi
chốn sơn lâm
Nhà tranh cửa gỗ
đời thanh thoát
Không đúng, không
sai tự tại tâm.
Khi quốc gia hữu
sự, Thượng Sĩ xông pha trận mạc cứu nước cứu dân; lúc nước nhà thái bình,
Thượng Sĩ sống thong dong tự tại trong đạo lý thiền, ai cần thì giúp, không
cần thì vui thú hải hồ, thảnh thơi chốn sơn dã. Đời của Thượng Sĩ thật đẹp như
bức tranh thủy mặc.
c)- Vua Trần Thánh
Tông (1240-1290): Vua là con của Thái Tông, lên ngôi
năm Mậu Ngọ (1258), đổi niên hiệu là Thiệu Long, vua học thiền với Quốc sư Đại
Đăng. Một hôm, đọc ngữ lục của Thiền sư Đại Huệ, vua cảm ngộ làm kệ:
Đập ngói dúi rùa
ba chục niên
Mấy phen xuất hạn
bởi tham thiền
Một phen thấu vỡ
gương mặt thật
Lỗ mũi xưa nay mất
một bên.
Vua Thánh Tông nói
thiền: “Dụng của chân tâm tĩnh tĩnh lặng lặng, không đi không đến, không thêm
không bớt, vào lớn vào nhỏ, mặt thuận mặt nghịch, động như mây hạc, tĩnh như
tường vách, nhẹ như sợi lông, nặng như tảng đá, sạch trọi trơn bày lồ lộ chẳng
thể so lường, hoàn toàn không dấu vết, ngày nay vì anh biện biệt rành rẽ rõ
ràng” (Trích Thánh đăng lục).
Qua đây chúng ta
thấy, vua Thánh Tông thấu suốt lý thiền, trong lúc còn đang làm hoàng đế. Nhà
vua không tìm nơi non cao rừng vắng, mà ngự tại triều đình tu vẫn được ngộ
đạo. Đúng như lời Thiền sư Viên Chứng nói: “Phật tại tâm mình”, nếu người biết
xoay lại tâm mình thì có ngày ngộ đạo. Quả là tu thiền không trở ngại cho mọi
công tác ở thế gian, có ai mà không tu được. Đây là một bằng chứng thiền học
đời Trần rất tích cực.
2- Tinh
thần nhập thế của Thiền tông Việt Nam
a)- Tam giáo đồng
nguyên:
Thuyết Tam giáo đồng nguyên xuất phát từ đời nhà Tống ở
Trung Hoa. Nhà Trần ở Việt
Nam chấp nhận thuyết này để dung hòa Tam giáo (Phật-Khổng-Lão). Người Việt Nam
chịu ảnh hưởng Tam giáo rất sâu đậm qua những thời kỳ Bắc thuộc và giao lưu
văn hóa. Những nhà lãnh đạo tư tưởng Thiền tông Việt Nam thời bấy giờ, bằng
trí tuệ sáng tạo đã dung hợp Nho và Lão để tạo sự đoàn kết dân tộc, tận dụng
mọi tài năng để bảo vệ và xây dựng đất nước. Do đó, không thể cho tinh thần
Tam giáo đồng nguyên này là sự sao chép của nhà Tống. Tam giáo đồng nguyên của
nhà Tống không tạo được sức mạnh cho dân tộc. Thiền phái Trúc Lâm khéo dung
hợp Nho giáo để kiện toàn cơ cấu tổ chức chính quyền quân chủ, phát triển văn
hóa, đào tạo nhân tài cho đất nước (mở trường dạy học, mở các khoa thi để
tuyển chọn nhân tài...). Tinh thần này đã thể hiện rõ qua lời khuyên của Thiền
sư Viên Chứng: “Phàm làm đấng nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý
muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ
trở về, Bệ hạ không về sao được? Song, phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ
đừng xao lãng”. Qua bài Phóng cuồng ngâm của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Cư
trần lạc đạo của vua Trần Nhân Tông, đã thể hiện một phần ảnh hưởng Đạo
giáo với tinh thần siêu thoát của Thiền.
b)- Tinh thần nhập
thế của Thiền tông Việt Nam: Mặc dù “thiên hạ Lý-Trần
bán vi Tăng” (người dân Lý-Trần hết phân nửa là Tăng), theo nhà sử nho Ngô Sĩ
Liên thời đó nhận xét, dân tộc Việt Nam không vì tinh thần bác ái, khoan dung
của đạo Phật mà trở nên bi quan, yếm thế, tiêu cực và quên lãng bổn phận đối
với Tổ quốc và dân tộc khi có ngoại xâm, như trường hợp Ấn Độ, Indonesia trước
sự xâm lăng của Hồi giáo, mà trái lại, đã ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông,
một đội quân hùng mạnh và thiện chiến đã từng bách chiến bách thắng từ Á sang
Âu.
Năm 1257, giặc
Nguyên Mông xâm lăng đất nước ta, vua Thái Tông (một ông vua ngộ đạo, xem sống
chết như trò đùa) đích thân chỉ huy nhiều mặt trận, có mặt ở cả mọi nơi nguy
hiểm, khiến quân sĩ nức lòng chiến đấu. Kết quả, quân ta đánh tan quân xâm
lược, giặc Nguyên Mông tháo thân chạy về Vân
Nam (đầu năm 1258). Một ông vua Thiền sư hết lòng mộ đạo, đã từng làm kệ
khuyên người đừng sát sanh:
Cánh lông mai vảy
trọn hàm linh
Sợ chết tham sanh
nào khác tình
Từ trước thánh
hiền lòng chẳng nỡ
Đâu đành thấy chết
vẫn tham sinh.
Tại sao ông lại
cầm quân đánh giặc, giết hại biết bao sanh mạng, chắc phải có lý do, hành động
này có mang tội sát không?
Sau khi nhường
ngôi cho con, ông lui về lập am Thái Vi, ở vùng rừng núi Vĩ Lâm (cố đô Hoa Lư)
để an dân lập ấp và lo tu hành, cùng khuyên dạy dân chúng tu. Khuyên người dân
giữ năm giới, ông nói kệ về giới thứ ba:
Má thoảng hương
mai, mặt nhụy đào
Thấy rồi mắt dán,
ý nao nao
Thảy đều một đãy
da hôi thúi
Thầm cắt ruột
người chẳng động dao.
Ông luôn đem bốn
tướng sanh, già, bệnh, chết nhắc nhở mọi người tu hành (bốn tướng này trong
kinh gọi là bốn núi).
* Nhận
định về vua Trần Thái Tông
Đem vua Trần Thái
Tông so sánh với vua Lương Võ Đế ở Trung Hoa, chúng ta thấy có những nét đặc
thù. Vua Lương Võ Đế (464-549) là con người rất sùng Phật, ông từng giảng kinh
Phóng Quang Bát Nhã và sớ giải các kinh... Song, khi Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa
năm 520 gặp vua, Tổ nói thiền, vua không lãnh hội, Tổ lên miền Bắc ở tại chùa
Thiếu Lâm. Đến cuối đời vua Lương Võ Đế, bị giặc Hầu Cảnh kéo quân vây hãm
thành Kiến Khang, quần thần xin xuất quân chống giặc, vua không cho, lại ra
lệnh bế cửa thành, tụng kinh cầu nguyện cho giặc lui. Kết quả giặc chẳng lui,
mà ông bị mất nước và phải chết. Trái lại, vua Trần Thái Tông là người ngộ
được Thiền tông, khi giặc Nguyên Mông xâm lăng, vua chỉ huy cầm quân đánh
giặc, giặc thua rút lui về, đất nước thái bình, vua mới ngồi yên tu thiền. Hai
thái độ của hai ông vua đồng là kính mộ đạo Phật mà xử sự mỗi bên mỗi khác.
Vua Võ Đế bị giặc
hãm thành không cho quân chống cự, lại ra lệnh trong thành tụng kinh cầu
nguyện cho giặc lui. Đây là đem tôn giáo áp đặt trên chính trị nên phải mắc
họa. Vua Thái Tôn tách bạch phân minh, phần nào thuộc tôn giáo, phần nào thuộc
chính trị, nên cứu được đất nước khỏi lâm nguy. Tu theo Phật giáo là trau giồi
đạo đức, rèn luyện tâm linh, là việc riêng của mỗi người Phật tử, tức là lãnh
vực của tôn giáo. Giặc ngoại bang xâm lăng Tổ quốc, toàn dân đứng lên chống
giặc, người lãnh đạo cổ động lòng yêu nước của dân và đứng ra chỉ huy đánh
giặc là lãnh vực chính trị. Phân rành lãnh vực tôn giáo, lãnh vực chính trị là
vấn đề rất thiết yếu. Người Phật tử thọ tam quy trì ngũ giới, nếu phạm giới
sát sanh là có tội, đó là phần tu hành riêng của Phật tử, thuộc lãnh vực tôn
giáo. Đất nước bị xâm lăng, toàn dân đứng lên chống giặc là trách nhiệm của
mỗi công dân, thuộc lãnh vực chính trị. Nhất là đối với một đạo quân gây tang
tóc cho hàng vạn, hàng triệu sinh linh từ Á sang Âu, vó ngựa của chúng tới đâu
là gieo kinh hoàng, nhà tan cửa nát tới đó; việc chống lại đoàn quân hiếu sát,
để bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân, theo nguyện vọng của toàn dân
(qua Hội nghị Diên Hồng), là việc làm tự vệ theo nguyện vọng của toàn dân,
không tạo bởi tâm hiếu sát, thì có thể đem tội sát luận vào chỗ này không, hay
đây là việc làm của Bồ Tát thõng tay vào chợ, giống hành động của Bồ Tát (tiền
thân đức Phật) giết tướng cướp khi qua đò để bảo vệ tài sản và sinh mạng của
khách buôn... Do đó, không thể đem tội sát đặt vào chỗ này.
Vua Trần Thái Tông
là một ông vua ham tu ngộ đạo mà trọn đời lo bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi
nước nhà bị địch họa, nhà vua liều mình cứu nước; lúc đất nước thái bình, tuy
tuổi đã già, vẫn dạy dân khai hoang lập ấp, và chỉ dạy họ tu hành, trau giồi
đạo đức. Nhà vua không những lo cho dân được cơm no áo ấm, mà còn lo cho dân
có đức hạnh và biết gạn lọc tâm linh.
Qua lịch sử, chúng
ta thấy vua tôi nhà Trần đã ngộ được lý thiền, vận dụng vào cuộc sống với tinh
thần nhập thế, tích cực bảo vệ nền độc lập, xây dựng hạnh phúc cho toàn dân,
đây là một đặc điểm chỉ có ở Thiền tông Việt Nam.
c)- Góp phần xây
dựng văn hóa dân tộc:
Các nhà lãnh đạo thiền phái Trúc Lâm
chẳng những là những nhà chính trị, thiền sư, mà còn là những nhà văn hóa,
những thi nhân có tài. Các ngài đã ý thức muốn bảo vệ nền độc lập dân tộc một
cách hữu hiệu và lâu dài, phải phát triển nền văn hóa dân tộc, nên các ngài
không ngừng học tập nội ngoại điển, để thông Lão-Nho, ngộ lý Thiền. Để khuyến
khích dân chúng học hành, triều đình cho mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài
phục vụ đất nước.
Các vua Trần Thái
Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ là những Thiền sư
ngộ đạo, giỏi thơ văn, đã sáng tác những tác phẩm về đạo lý, dịch giảng kinh
sách hướng dẫn nhân dân tu hành ; làm thi kệ, tụng, để dạy môn đồ... Những tác
phẩm này đã tác động đến sự trưởng thành và phát triển của nền văn học đời
Trần.
Một quốc gia độc
lập hùng cường, đã có một ngôn ngữ riêng, muốn có một nền văn hóa độc lập thì
không thể thiếu chữ viết riêng để ghi lại tâm tư, tình cảm, sinh hoạt văn hóa
của dân tộc. Từ nhận thức đó, các Thiền sư lãnh đạo nước Đại Việt khuyến khích
toàn dân sáng tạo và dùng chữ Nôm. Vào thời này, chữ Nôm mới bắt đầu hình
thành với: Nguyễn Thuyên, người đã có bài văn tế Cá sấu chẳng kém Hàn
Dũ; Nguyễn Sĩ Cố với tài làm thơ Việt, với biệt tài khôi hài, chẳng kém Đông
Phương Sóc đời Hán, và với Chu Văn An... Thiền phái Trúc Lâm góp phần tham gia
sáng tạo chữ Nôm, qua việc viết họ tên Phật tử trong các sớ điệp cầu an, cầu
siêu, thọ tam quy ngũ giới... bằng chữ Nôm. Ngoài ra, các Ngài còn để lại
những bài văn Nôm như: Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca của Sơ Tổ Trúc Lâm; Vịnh vân yên tự phú của Huyền
Quang...
d)- Tính bao dung
nội giáo: Đời Trần tuy lấy Thiền tông làm chủ đạo truyền bá, song
cũng có Tịnh, Mật đồng thời hoạt động. Tịnh độ thì có sự Tịnh độ và lý Tịnh
độ. Về sự Tịnh độ thì phải tin có cõi Cực lạc ở phương Tây, đức Phật A Di Đà
là giáo chủ cõi này. Nếu người chí thành niệm Phật và tha thiết cầu sanh về
cõi Cực Lạc, khi lâm chung được Phật Di Đà đón về Cực lạc. Về lý Tịnh độ là
“Tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh độ” hay “Tâm Tịnh độ tịnh”, tức là tâm mình thanh
tịnh là Tịnh độ, tánh mình sáng suốt là Phật Di Đà. Tổ Trúc Lâm nói:
... Tịnh độ là
lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi
đến Tây phương
Di Đà là tánh sáng
soi
Mựa phải nhọc tìm
về Cực lạc.
(Phú Cư trần
lạc đạo - Hội thứ hai)
Thiền tông thừa
nhận lý Tịnh độ, không quan tâm sự Tịnh độ. Thiền sư Vô Ngôn Thông nghe Tổ Bá
Trượng nói: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu” liền ngộ đạo. Đất tâm nếu
không, là tâm Tịnh độ tịnh. Tuệ nhật tự chiếu là tự tánh Di Đà. Vì A Di Đà
dịch nghĩa là Vô Lượng Quang, nhà Thiền gọi là Tuệ nhật tự chiếu. Đứng về lý,
Tịnh độ cùng Thiền tông cứu cánh không hai.
Qua các tác phẩm
của đời Trần, chúng ta thấy ảnh hưởng của Mật tông không nhiều như thời Lý.
Thiền tông đời Trần thiên về Thiền giáo, văn chương, nhẹ về Tịnh, Mật. Lịch sử
PG Việt Nam đã minh chứng ảnh hưởng của Tịnh, Mật tuy có lúc nặng lúc nhẹ,
nhưng Thiền vẫn luôn luôn chủ đạo, từ thế kỷ thứ 3 cho đến thế kỷ thứ XVIII.
III.-
CHỦ TRƯƠNG PHỤC HƯNG THIỀN TÔNG VIỆT NAM, hay THIỀN TRÚC LÂM YÊN TỬ
A/-
Nguyên nhân
1- Thời kỳ Nho
giáo độc tôn: Suốt 200 năm kể từ khi nhà Trần bắt đầu
suy đồi, giới trí thức hướng về Nho học, xem đây là một phương thức để dựng
nước và giữ nước ; họ hướng về nền văn hóa Tống Nho, không thấy được truyền
thống văn hóa của dân tộc (các phép thi, phong hàm quan lại, y phục, nhạc
chương... theo Trung Quốc), đã đưa đất nước đến chỗ suy yếu, lệ thuộc sau này.
Trong thời gian này, những vị cao tăng không thấy xuất hiện; có thể do thái độ
chống Phật của các nhà Nho mà các vị lui về ẩn dật, không còn tham dự việc
triều chính, hoặc những tác phẩm thời này bị binh lửa thiêu hủy... PG thời này
thầy cúng nhiều hơn thầy tu.
2- Thời kỳ phục
hưng của các thiền phái:
Ở Trung Quốc, khi nhà Thanh lên thay
nhà Minh, thì ở Việt Nam, Trịnh-Nguyễn phân tranh, loạn lạc nổi lên nhiều nơi;
trong triều, sự tranh giành quyền hành, trước cảnh thăng trầm của cuộc đời, đã
khiến cho một số Nho gia thức tỉnh quay về với đạo Phật. Các chúa Trịnh,
Nguyễn quy hướng về Phật giáo để nương tựa tinh thần, tạo lập công đức. Trong
thời kỳ này có các thiền phái Lâm Tế và Tào Động truyền sang nước ta: thiền
phái Lâm Tế ở Đàng Ngoài có Thiền sư Chuyết Chuyết và Thiền sư Minh Hành. Ở
Đàng Trong có Thiền sư Nguyên Thiều, Thiền sư Minh Hoằng và Thiền sư Liễu
Quán. Thiền phái Tào Động bắt đầu truyền sang nước ta lần thứ nhất ở Đàng
Trong và Đàng Ngoài.
* Sự
phục hưng của thiền phái Trúc Lâm:
Thiền sư Chân Nguyên, sinh năm 1646,
xuất gia năm 19 tuổi, thọ pháp với Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú) ở chùa Hoa
Yên, với pháp danh là Tuệ Đăng. Khi Thiền sư Tuệ Nguyệt tịch, ông đến chùa
Vĩnh Phúc ở núi Côn Cương tham thiền với Thiền sư Minh Lương (đệ tử của Thiền
sư Chuyết Chuyết); sau khi đắc pháp, Sư được ban cho pháp hiệu là Chân Nguyên.
Về sau, Sư được truyền thừa y bát Trúc Lâm, làm trụ trì chùa Long Động và chùa
Quỳnh Lâm là hai ngôi chùa lớn của phái Trúc Lâm. Sư có nhiều đệ tử xuất sắc
như: Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn, Như Trí. Sư đã để lại 11 tác phẩm, hiệu
đính và trùng khắc Thánh đăng lục. Các thế hệ sau tiếp tục phục hồi nền
văn học Phật giáo nước nhà. Những tác phẩm của hệ phái Trúc Lâm còn sót lại
hôm nay một phần là do Sư cùng các đệ tử trùng khắc, hoặc trùng san lại.
Khi chúa Nguyễn di
dân mở mang bờ cõi về phía Nam, các Thiền sư với bản nguyện độ sanh, cũng theo
dân vào vùng đất mới để xây chùa chiền, truyền bá Phật pháp như: Thiền sư Đạt
Bổn từ Qui Nhơn vào Gia Định (địa danh thời chúa Nguyễn) lập chùa Thiên Trường
năm 1755, sau đổi tên là Kim Chương tự. Trong thời kỳ này, Thiền sư Viên
Quang, đời thứ 36, dòng Lâm Tế; Thiền sư Mật Hoằng khai sơn chùa Tập Phước,
chùa Giác Lâm. Hai Thiền sư này là đệ tử của Thiền sư Linh Nhạc thuộc pháp
phái Nguyên Thiều. Thiền sư Đạo Trung, dòng thứ 4, phái Liễu Quán, khai sơn
chùa Linh Ẩn (1763) ở núi Điện Bà; Thiền sư Hoàng Long, người Qui Nhơn, vào
tận Hà Tiên để hoằng hóa và tịch tại đây. Các thiền phái Lâm Tế, Liễu Quán,
Tào Động, Trúc Lâm tiếp tục truyền thừa trong các chùa từ Bắc chí Nam cho đến
giữa thế kỷ thứ XIX.
Nhìn lại chùa
chiền Việt Nam ngót một thế kỷ nay, lấy hai thời khóa tụng làm công phu tu
tập, hai thời khóa tụng này xuất phát từ đời nhà Thanh Trung Quốc, đây là giai
đoạn lịch sử mà theo ông Trần Khuê, tác giả quyển sách “Nghiên cứu và tranh
luận”, đã viết : “... bên kia thi cử thế nào, bên này thi cử như thế; bên
kia Đại Thanh nhất thống chí, bên này Đại Nam nhất thống chí ;
bên kia cương mục, bên này cũng cương mục. Thậm chí bộ luật nhà
Thanh của Càn Long thì bên này sao y bản chính”... (Trích bài Nho
giáo và sự phát triển của Việt
Nam,
trang 365).
3- Thời kỳ chiến
tranh chống đế quốc: Chư Tổ Việt Nam đã khéo ứng hợp hai thời
khóa tụng vào hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, lòng dân ly tán, mất niềm tự
tin, sống trong cảnh phập phồng ngày đêm lo sợ bom, đạn pháo không biết rơi
xuống lúc nào. Đêm ngày không dứt tiếng súng, tiếng bom đạn gần xa vọng về,
thì làm sao an tâm nhập định, khi người thân đang cầm súng nơi chiến trường.
Chùa chiền ngày đêm có thể bị khủng bố xét hỏi bất cứ lúc nào, đâu còn yên
tĩnh để tĩnh tâm tọa thiền. Sống trong bối cảnh từ thành thị đến thôn quê, nhà
nào cũng có hầm núp tránh bom đạn, nghe tiếng bom, tiếng pháo nổ gần, tiếng
súng nổ giòn liên tục thì lập tức xuống hầm, miệng niệm Phật, niệm Bồ Tát
không dứt... Cho nên đêm đêm đốt hương niệm Phật, tụng kinh trì chú, nguyện
cầu tha lực cho gia đình bình an, cho tâm bớt lo sợ, là một thực tế linh hoạt
của PG Việt
Nam, là điều khế cơ khế lý, đối với hiện tình đất nước trong thời gian đã qua.
Nhưng ngày nay
nước nhà độc lập, mọi người an tâm trong cuộc sống và hăng hái đi vào sản
xuất... Việc xét lại đường lối tu hành của PG Việt Nam trong bối cảnh đất nước
hiện nay, theo đúng với lý tưởng xuất gia cầu giải thoát, đem giáo lý của Phật
giáo hóa chúng sanh khế hợp với trình độ tiến hóa của xã hội văn minh ngày
nay, mà vẫn giữ được truyền thống đặc thù của dân tộc, là việc phải làm của
những bậc thức giả, nhiệt tình với tiền đồ của PG Việt Nam trong giai đoạn
mới, để không bị lạc hậu, để xứng đáng là người cầm đuốc soi đường cho hàng
hậu học và chúng sinh trên con đường hướng đến giải thoát.
Trên con đường
phát triển văn hóa, bất kỳ một sự sao chép nào, dù là sao chép của tổ tiên
cũng là một sự nô lệ, không hợp thời hợp lý, huống chi là sao chép của ngoại
bang, trong hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Bài học lịch sử còn đó, sự nô lệ
văn hóa đưa đến tinh thần vọng ngoại, làm tay sai cho ngoại bang, cuối cùng
đưa đến mất nước. Chúng tôi chủ trương phục hưng thiền Trúc Lâm Yên Tử, bằng
cách dịch giảng những tác phẩm của các thiền phái ở Việt Nam, nhất là thiền
phái Trúc Lâm, để cho hàng hậu học thấy được tinh thần và cái hay của tổ tiên
mình, thấy được cái tinh hoa và truyền thống của PG Việt Nam gắn liền với dân
tộc, thấy được cốt lõi của đạo Phật, là việc làm “tùy duyên nhi bất biến”.
Trong tinh thần đó, chúng tôi hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu thiền với phương
pháp và tri thức của nhân loại đang chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI.
4- Ích lợi của
Thiền:
Thiền là một phương pháp giúp chúng ta an định tâm. Khi tâm
an định thì trí tuệ sáng suốt, đó là một quy luật tất yếu giữa tâm và trí tuệ
(khi tâm bất an, đầy sợ hãi thì dễ đưa đến loạn tâm), đúng như lời Tổ Bá
Trượng đã nói: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu”. Chư Phật và Tổ nhờ
thiền định mà tâm an định sâu, chứng ngộ đạo quả, có trí tuệ siêu việt, thấy
được chân lý của vạn hữu, từ đó sống ung dung tự tại giải thoát...
Các vua đầu nhà
Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) và Tuệ Trung Thượng Sĩ
đều là những thiền giả đạt đến trạng thái an định sâu, nên mới chứng ngộ, thấu
suốt lý thiền lẽ đạo, từ đó trí tuệ phát sáng, các Ngài viết kinh sách hướng
dẫn người tu. Do tâm an định, trí tuệ sáng suốt linh hoạt, xem “sinh tử nhàn
nhi dĩ” (sống chết nhàn mà thôi), từ đó các Ngài không khiếp sợ trước đạo quân
Nguyên Mông thiện chiến, hùng mạnh và đông đảo. Xem tứ đại vốn không, nên xả
thân vì nước vì dân, xông pha vào trận mạc, sát cánh cùng ba quân tướng sĩ
chiến đấu đến thắng lợi. Bằng trí tuệ và đạo đức của mình, các Ngài lấy đức
trị dân, áp dụng chính sách bình dị, thân dân, dân chủ. Vua Trần Nhân Tông
thường hỏi han dân chúng, không cho vệ sĩ nạt nộ, vua nói: “Lúc thái bình thì
nhờ có thị vệ tả hữu, lúc nước nhà lâm hoạn nạn thì chính những người gia nhân
ấy đi theo bảo vệ”.
Thiền còn mang đến
cho hành giả một sức mạnh nội tâm hay nội lực, từ đó các nhà yoga, võ thuật,
khí công, dưỡng sinh, ngoại đạo, ứng dụng tọa thiền để tăng định lực, rèn
luyện thân thể, tăng nội lực, khí lực, hay để chữa trị một vài chứng bệnh nan
y. Khi tâm an lạc, cơ thể ít tiết ra độc tố (là một trong những nguyên nhân
phát sinh bệnh), và còn có khả năng điều trị được những chứng bệnh thuộc về
tinh thần.
Hiện tại, con
người đang bị quay cuồng theo công việc, chạy theo máy móc trong hệ thống dây
chuyền, đưa đến chứng bệnh stress, là bệnh của thời đại ở các nước công
nghiệp. Khoa học dưỡng sinh đã khuyên, mỗi ngày nên tập tọa thiền từ mười lăm
hai mươi phút đến nửa giờ để thư giãn, an định tinh thần, là phương pháp tốt
nhất để phục hồi trí tuệ, và chống lại sự lão hóa của não.
Trong các pháp tu
của Phật thì tọa thiền là phương pháp an định tâm tốt nhất, bởi vì khi tọa
thiền (giai đoạn khởi tu), mắt nhìn xuống hay khép hờ nên tâm bớt chạy theo
ngoại cảnh; thân ngồi yên không cử động nên dễ định tâm hơn lúc đi đứng nói
năng, cử động. Do đó, khi tọa thiền, hành giả dễ quan sát thấy tâm, khi tâm an
định khá, hành giả sẽ tu trong bốn oai nghi.
B/-
Tinh thần phục hưng thiền Trúc Lâm Yên Tử
1- Sơ Tổ Trúc Lâm
(1258-1308): Ngài là con vua Trần Thánh Tông và Nguyên
Thánh Hoàng thái hậu, tên là Trần Khâm. Khi lớn lên, vua cha cho ngài theo học
thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Một hôm, Ngài hỏi Thượng Sĩ về “bổn phận tông
chỉ Thiền”, Thượng Sĩ đáp “ “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”
(soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, không từ bên ngoài mà được). Nghe
qua, Ngài thông suốt được lối vào và thờ Thượng Sĩ làm thầy.
Năm 21 tuổi, Ngài
lên ngôi hoàng đế (1279) hiệu là Trần Nhân Tông. Quân Nguyên Mông xâm lăng
nước ta, Ngài phải cầm quân đánh đuổi giặc đến hai lượt (1285, 1288)... Đến
năm Quý Tỵ (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái
thượng hoàng. Năm Kỷ Hợi (1299), Ngài vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, lấy
hiệu là Trúc Lâm Đại Đầu Đà và làm Sơ Tổ phái Trúc Lâm Yên Tử. Do chỗ sở ngộ
ban đầu của Ngài, nên lấy câu “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”
làm kim chỉ nam cho phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
2- Câu “Phản quan
tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”, nhìn xuyên suốt từ đời tu của đức Phật
qua giáo lý, đến các pháp thiền:
a)- Đời tu của
đức Phật hoàn toàn soi sáng lại
nội tâm của mình. Suốt bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ đề, Ngài quán
chiếu nội tâm được giác ngộ thành Phật. Đức Phật là cội nguồn của đạo Phật, do
quán chiếu nội tâm mình được chứng đạo, nên nói “phản quan tự kỷ bổn phận sự”.
Trọn đời Ngài không cầu xin, trông cậy cái gì khác bên ngoài, nên nói “bất
tùng tha đắc”.
b)- Giáo lý Phật
dạy, bốn bộ kinh A Hàm, sáu trăm quyển kinh Bát Nhã, kinh Pháp
Hoa... cũng không ngoài lối tu “phản quang” này. Kinh A Hàm lấy
pháp Tứ đế làm căn bản, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo không phần nào chẳng quán
chiếu lại mình. Kinh Bát Nhã lấy Bát Nhã Tâm kinh làm trọng tâm,
mà “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” là nền tảng tu hành. Kinh Pháp Hoa
(mục đích nhận ra tri kiến Phật của mình), hình ảnh chàng cùng tử trở về tìm
cha là ý nghĩa “phản quan tự kỷ”.
c)- Các pháp thiền
đều tu “phản quan tự kỷ”
* Thiền Nguyên
thủy hiện nay hoặc tu thiền Tứ niệm xứ, hoặc tu thiền Minh sát tuệ. Pháp thiền
Tứ niệm xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán
pháp vô ngã, đều là soi sáng lại chính mình. Pháp thiền Minh sát tuệ thì trước
dùng hơi thở, biết rõ hơi thở ra vào, dài ngắn, lạnh ấm... nhờ nương hơi thở,
tâm được định. Kế dùng trí tuệ quán sát thân tâm là vô thường, khổ, không, vô
ngã biết đúng như thật. Theo dõi hơi thở và quán sát thân tâm vô thường... đều
là “phản quan tự kỷ”.
* Thiền Đại thừa
quán chiếu theo kinh Bát Nhã, hoặc “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” của Bát Nhã
Tâm kinh, hoặc quán “nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ
diệc như điện, ưng tác như thị quán” của kinh Kim Cang, Bát Nhã. Cả hai lối
quán này đều là “phản quang tự kỷ”, cho đến pháp “Tam quán” của Thiền sư Huệ
Văn do đọc Trung quán luận ngộ được. Sư đem pháp này dạy cho đệ tử là Thiền sư
Huệ Tư (515-577), thành lập phái thiền Đại thừa “Tam quán”. Pháp quán này y cứ
bài kệ trong luận Trung quán là : “Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị
không. Diệc danh vi giả danh, diệc danh trung đạo nghĩa”, lập thành ba pháp
quán: Không quán, Giả quán, Trung đạo quán. Trong ba pháp quán này, cũng là
“phản quan tự kỷ”.
* Thiền tông hẳn
căn cứ “phản quang tự kỳ”. Cội gốc Thiền tông là “phản quan tự kỷ”. Câu “Trực
chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” là châm ngôn của Thiền tông do Tổ Đạt Ma
tuyên bố. Không phản quan làm sao kiến tánh, không kiến tánh thì đâu có được
thành Phật. Bởi Thiền tông chủ trương Phật tức tâm, ngoài tâm không có Phật.
3- Tại
sao phải phản quan tự kỷ ?
Người tu Phật phải
biết đúng như thật nơi thân tâm mình. Chúng sanh mê lầm, nên mọi sinh hoạt đều
để phục vụ cho mình, mà thật sự không biết mình là gì. Do mê lầm sinh ra kiến
chấp sai lạc, tạo không biết bao nhiêu tội lỗi làm khổ mình và làm khổ mọi
người. Soi sáng lại thân tâm mình thấy đúng như thật thì mọi kiến chấp đều phá
vỡ, đem lại sự an lạc cho mình và mọi người. Soi sáng thân tâm mình chia làm
hai phần:
a)- Thấy rõ thân
tâm vô thường : Trong bài văn Trữ từ tự răn, Thượng Sĩ nói :
Ngày tháng nước
chảy, giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi,
trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa sắc
thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con
rối kéo lôi
Hàng ngày đùa, đưa
tay bắt bóng...
Trong mộng tạo
tác, thức rồi đều không
Trong mộng tạo,
sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi,
không mãi tóc kẽ tơ...
Đến Tổ Trúc Lâm,
trong bài Sơn phòng mạn hứng, cũng nói:
Phải quấy niệm rơi
theo hoa rụng
Lợi danh tâm lạnh
với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ,
non vắng lặng
Chim kêu một tiếng
lại xuân tàn.
Thân tứ đại hòa
hợp, tâm danh lợi phải quấy đều vô thường hư dối, người tu thấy rõ như vậy là
thức tỉnh giác ngộ. Thế nhân lúc nào cũng thấy thân vật chất là thật, tâm nghĩ
phải quấy danh lợi là thật nên mê muội khổ đau, soi sáng thân tâm thấy đúng
như thật là điều kiện tối thiết yếu trên đường tu.
b)- Nhận ngay ra
nơi thân vô thường có cái chân thường
Bài Phật tâm ca
của Thượng Sĩ có đoạn nói :
... Muốn tìm tâm,
đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên
tự rỗng lặng
Niết bàn sanh tử
buộc ràng suông
Phiền não bồ đề
đối địch rỗng
Tâm tức Phật, Phật
tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời
suốt cổ kim
Xuân đến, tự nhiên
hoa Xuân nở
Thu về, hiện rõ
nước thu sâu...
Lặng lặng lặng,
chìm chìm chìm
Cái tâm muôn pháp
là tâm Phật
Tâm Phật lại cùng
tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên
suốt cổ kim
Đi cũng thiền,
ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực
một hoa sen...
Tổ Trúc Lâm cũng
nói:
Vậy mới hay ! Bụt
ở trong nhà, chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên
ta tìm Bụt
Đến biết hay chỉn
Bụt là ta.
(Phú Cư trần
lạc đạo - Hồi thứ năm)
Qua hai đoạn dẫn
trên, chúng ta thấy rõ Thượng Sĩ và Tổ Trúc Lâm chỉ thẳng tâm mình tức là
Phật. Song phải là tâm lặng lẽ hằng nhiên, chớ không phải tâm đối đãi sanh
diệt. Trong thân tâm vô thường sanh diệt có tâm lặng lẽ hằng nhiên, như trong
lò lửa cháy rực có hoa sen tươi thắm. Tại vì chúng ta quên tâm Phật của mình,
chạy tìm Phật ở bên ngoài. Một khi chúng ta biết quay trở lại tâm mình thì sẽ
thấy tâm mình tức là Phật.
IV.-
KẾT THÚC
Chủ trương phục
hưng Thiền tông đời Trần là để nâng cao giá trị của đạo Phật. PG Việt
Nam với những đặc thù: từ bi, bác ái, giải thoát, nhưng không tiêu cực, bi
quan, yếm thế, mà tích cực góp phần xây dựng xã hội, bảo vệ đất nước. Với tinh
thần bao dung, Thiền sẽ đoàn kết với các hệ phái và tôn giáo bạn nhằm đem đến
sự an lạc, hạnh phúc, đạo đức và mở sáng trí tuệ cho mọi người. Với tinh thần
nhân bản của PG, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng, nên không phân
biệt sang hèn, văn minh hay lạc hậu; thấu suốt lẽ đó, vua Trần Nhân Tông gả
công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để xây dựng nền hòa bình lâu dài cho hai dân
tộc Việt-Chiêm, để “chúng sanh” thoát khỏi nạn binh đao. Trong tinh thần đó,
Thiền tông Việt Nam
góp phần kiến tạo hòa bình giữa các cộng đồng dân tộc.
Tinh thần Thiền
tông Việt Nam đã được thể nghiệm qua đời Trần, là hướng đi thích hợp của PG
Việt Nam hiện tại và tương lai; bởi vì bao giờ con người còn vô minh, còn khổ
đau, thì còn cần phải xoay lại mình, tìm hiểu chính mình, thấy biết rõ mình để
tu sửa thân tâm, đưa cái tâm đảo điên trở về trạng thái thanh tịnh hằng nhiên,
để chấm dứt khổ đau, thấy được chân lý của cuộc đời, tiến đến giác ngộ giải
thoát (hiện đời sáu căn không vướng mắc với sáu trần, vị lai không còn trầm
luân trong cảnh khổ). Đây là cái cốt lõi của đạo Phật ; các pháp môn nguyện
cầu tha lực (giống như các tôn giáo khác) cũng chỉ là phương tiện để dẫn dụ
“chàng cùng tử lang thang” (không tin tâm mình là Phật) quay trở về nhà, để
rồi từ từ nhận lại kho báu nhà mình. Vì nhận ra con “đường chim” này từ Phật,
Tổ đã nối tiếp trao truyền, chúng tôi tạm mượn lời để diễn bày cho những người
hữu duyên với nó, thấy lối về nhà, mặc dù điều này trái với tinh thần của
Thiền tông...
Phật giáo
Nam tông tại Sài Gòn-
Gia Định-TP Hồ Chí Minh xưa và nay
Thượng
tọa THÍCH THIỆN TÂM
Hòa
với niềm hân hoan chung của nhân dân thành phố, hôm nay giới Phật giáo (PG) thành phố tổ chức buổi
hội thảo để kỷ niệm 300 năm Sài
Gòn-Gia Định-TP Hồ Chí minh, và
cũng trong thời điểm kỷ niệm 23 năm miền Nam hoàn toàn giải phóng. Nhân dịp
này, tôi vinh dự được thay mặt giới PG Nam tông thành phố tham dự và phát biểu
tham luận trong buổi hội thảo
khoa học lịch sử quan trọng này. Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng chân thành
biết ơn về vinh dự cao quý mà Ban Tổ chức đã dành cho tôi và kính gởi lời hân
hoan chào mừng và kính chúc an lành đến chư tôn đức giáo phẩm, chư vị khách
quý và chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, quý nam nữ Phật tử
hiện diện. Xin thành kính cầu nguyện hồng ân mười phương Tam bảo hộ trì cho
cuộc hội thảo của chúng ta đạt
được thành quả tốt đẹp nhất.
Như chư tôn đức và
quý vị đều biết, tại Việt
Nam, PG Nam
tông gồm có hai hệ : PG Nam tông của người Khmer đã tồn tại ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long và PG Nam tông trong cộng đồng người Việt. Theo sử liệu thì
PG Nam tông Việt Nam
chỉ mới được du nhập vào Việt Nam từ khoảng những năm cuối thập niên 1930. Như
vậy, PG Nam tông Việt Nam
chỉ có mặt tại Việt Nam nói chung và tại thành phố này nói riêng, cho đến nay
chỉ trên dưới 60 năm. Nếu so với bề dày lịch sử tồn tại của PG Bắc tông thì sự
có mặt của PG Nam tông trong cộng đồng PG Việt Nam được xem là không đáng kể.
Tuy nhiên, trong 60 năm tồn tại ấy, PG Nam tông cũng đã có những đóng góp nhất
định, dù là khiêm tốn, cho thành quả chung của PG Việt Nam.
Vì thế ở đây, tôi xin được mạo muội nhắc lại đôi dòng vắn tắt về quá trình
lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của PG Nam tông trong những thập
niên qua để đóng góp tiếng nói của PG Nam tông trong buổi
hội thảo này. Qua đó, tôi cũng mong Đảng, chính quyền và Giáo
hội cần quan tâm nghiên cứu thực tiễn tình hình hiện tại của PG Nam tông và có
hướng giúp đỡ cụ thể cho PG Nam tông được phát huy bản sắc của mình trong sự
phát triển chung của PG Việt Nam, phù hợp định hướng xã hội chủ nghĩa của đất
nước và dân tộc. Trong niềm suy nghĩ đó, ở đây một câu hỏi cụ thể cũng có thể
được đặt ra để cho vấn đề thêm phần sáng tỏ là: từ khi có mặt đến nay, PG Nam
tông đã tạo nên được những sắc thái đặc trưng nào, đã làm được những gì và
đang tồn tại ra sao trong vận mệnh của dân tộc và PGViệt Nam, mà cụ thể là tại
một số tỉnh thành phía Nam, miền Trung Việt Nam và đặc biệt là tại thành phố
này? Dĩ nhiên, đây chỉ là những nét phác thảo đang tồn tại trong suy tư cá
nhân và không hề có tham vọng trình bày như một bản báo cáo chi tiết khoa học
của vấn đề.
Như trên đã nói,
PG Nam
tông du nhập Việt Nam
vào cuối thập niên 1930. Đây là thời kỳ lịch sử vô cùng quan trọng của dân tộc
và PGViệt Nam, vì đây cũng chính là giai đoạn ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo. Trong giai đoạn bối cảnh
lịch sử xã hội Việt Nam mà điểm hội tụ chính là tại thành phố này, đang liên
tục diễn ra những cao trào đấu tranh cách mạng hào hùng và anh dũng của các
tầng lớp nhân dân trong công cuộc kháng chiến kiên cường bất khuất chống thực
dân để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong bối cảnh lịch sử ấy, tuyệt đại
đa số Tăng Ni và Phật tử Việt Nam nhiệt liệt hưởng ứng theo lời kêu gọi thiêng
liêng của Tổ quốc, nhất tề đứng lên cùng toàn dân toàn quân tích cực tham gia
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đầy chính nghĩa của dân tộc; mặt khác, ra sức
tích cực hoạt động để đẩy mạnh công cuộc vận động thống nhất và chấn hưng
PGnước nhà, nhằm thực hiện tinh thần lời dạy của đức Phật : Vì lợi lạc quần
sanh, vô ngã vị tha, phát huy truyền thống yêu nước phụng đạo của lịch sử
PGViệt Nam trong sự nghiệp bảo vệ đạo pháp và dân tộc, vừa khế hợp với yêu cầu
vận động sức mạnh tổng hợp đoàn kết dân tộc trước thực tiễn tình hình đất
nước, vừa không ngừng đưa PG Việt Nam theo kịp xu thế phát triển chung của PG
các nước láng giềng và PG thế giới.
Chính sự ra đời
của PG Nam tông trong bối cảnh lịch sử ấy của dân tộc và PG Việt Nam đã tạo
nên cơ duyên thuận lợi cho quá trình hội nhập nhanh chóng và phát triển nhịp
nhàng của PG Nam tông trong vận hội chung của đất nước và sánh vai cùng với
các thành phần khác trong cộng đồng PG Việt Nam. Và cũng nhờ vậy nên trải qua
biết bao biến cố đổi thay thăng trầm của lịch sử PG và dân tộc, PG Nam tông
vẫn luôn sắt son gắn bó và được phát triển hài hòa cùng chung với sức sống và
vận mệnh của dân tộc và cộng đồng PG Việt Nam kể từ khi du nhập đến nay, và
cũng qua đó, đã cùng với các tổ chức hệ phái PG khác, có những cống hiến thiết
thực nhất định trong nhiều lãnh vực hoạt động Phật sự, góp phần hoàn thành sứ
mệnh phụng sự đạo pháp và phục vụ nhân dân trong sự nghiệp chung của PG Việt
Nam và cùng chung sức xây dựng PG Việt Nam trở thành một thực thể vững mạnh,
tồn tại hòa điệu nhịp nhàng trong mạch sống dân tộc trải qua bao cuộc thịnh
suy thăng trầm của đất nước bốn ngàn năm văn hiến này.
Nói đến công đức
khai sơn phá thạch để cho PG
Nam tông được hiện diện trên đất nước Việt Nam là nói đến công lao của một số
chư Tăng và Phật tử Việt kiều sinh sống trên đất nước Campuchia. Họ đã kết hợp
với một số Phật tử nhiệt thành trong nước, ra sức xây dựng nền móng ban đầu
cho PG Nam tông tại Việt Nam.
Trong số các vị có công đầu ấy, đáng được nhắc đến là sự đóng góp đắc lực của
các nhà sư và cư sĩ tiêu biểu như Bác sĩ thú y Lê Văn Giảng (về sau xuất gia
là cố HT Hộ Tông) và ông Nguyễn Văn Hiểu cùng với một số bạn bè thân hữu của
họ đã cùng với một số các bậc cao tăng khác như HT Bửu Chơn, HT Thiện Luật, HT
Giới Nghiêm, HT Ấn Lâm, HT Tối Thắng... đã dành nhiều thời gian và tâm huyết
cho công cuộc hoằng dương PGNguyên thủy tại Việt Nam, và giờ đây các vị ấy đã
trở thành những bậc danh tăng thạc đức tiền bối và những cư sĩ lão thành có
công lớn, sáng danh trong lịch sử du nhập và xây dựng PG Nam tông tại Việt
Nam.
Trong giai đoạn
đầu có mặt tại Việt Nam, các vị sư và cư sĩ Nam tông chỉ tập trung vào việc tu
tập thiền quán, biên soạn kinh sách, thuyết giảng Phật pháp, hướng dẫn cho
Phật tử sơ cơ tu học và thực hành giáo lý chánh truyền nguyên thủy của đức
Phật, để giúp họ loại bỏ dần những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan không phù
hợp với tín ngưỡng chánh pháp của đạo Phật, tìm địa điểm thích hợp để xây dựng
cơ sở tòng lâm tự viện làm nơi tu học và hoằng pháp lợi sanh cho chư Tăng và
Phật tử, đơn giản hóa trong cách thờ phượng và lễ nghi cúng kiến. Chính những
sinh hoạt đặc thù nguyên thủy ấy đã thu hút nhiều người cảm kính xu hướng tin
theo, và cũng vì vậy mà tuy hiện diện chưa được lâu, PG Nam tông đã càng lúc
càng phát triển nhanh chóng và đáng kể về số lượng chư Tăng và tín đồ. Nhiều
ngôi chùa đã được xây dựng tại Sài Gòn và một số tỉnh thành lân cận cũng như
tại một số tỉnh miền Trung ; trong đó, ngôi Bửu Quang tự là Tổ đình đầu tiên
của PG Nam tông, tọa lạc tại xã Tam Bình, huyện Thủ Đức, cũng đã được xây dựng
vào cuối năm 1937. Đây là những nỗ lực tập trung của chư Tăng và Phật tử Nam
tông trong công cuộc đặt nền móng ban đầu cho sự hình thành và phát triển qua
các giai đoạn lịch sử của PG Nam tông, và được xem là những hoạt động đặc
trưng của PG Nam tông tại Việt Nam từ khi vừa có mặt tại Việt Nam.
Cũng ngay từ buổi
giao thời đó, PG Nam tông, trước tình hình bối cảnh đất nước đang lâm cảnh
chiến tranh ly loạn, đạo Phật Việt Nam rơi vào tình cảnh phân hóa trầm trọng,
trong một xã hội có chiến tranh, nhân tâm phân tán, vàng thau lẫn lộn, thật
giả khó phân, có người yêu nước lẫn kẻ bán nước với những xu hướng chính trị,
quan điểm chánh nghĩa, phi nghĩa bất đồng; tình hình xã hội, chính trị rối ren
phức tạp, lại thêm tác hại nghiêm trọng của chính sách thực dân chia để trị,
càng làm suy yếu sức mạnh nội bộ dân tộc Việt Nam càng dễ bề thôn tính và cai
trị. Chính trong tình cảnh nước mất nhà tan, nhân tâm bất ổn ấy, người Phật tử
Việt Nam vốn thừa hưởng truyền thống yêu nước từ ngàn xưa của dân tộc và Phật
giáo, và những Tăng Ni Phật tử thức thời, có tâm huyết đối với vận mệnh sống
còn của đất nước, của dân tộc và đạo pháp, làm sao có thể bình chân tọa thị,
và cũng vì vậy nên đã có biết bao Tăng sĩ Việt Nam, trong đó có một số nhà sư
Nam tông “cởi ca sa mặc chiến bào”, lên đường đi theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc, tham gia kháng chiến chống thực dân để bảo vệ giang sơn gấm vóc
của Tổ quốc, tiêu biểu như các vị sư Tâm Kiên, Hữu Nghiệp... cùng với một số
nhà sư và cư sĩ khác đã ra đi trong khi đang còn tu học và sinh sống trên đất
nước Campuchia.
Cũng cần mở ngoặc
và ghi nhận ở đây mối quan hệ thường xuyên gắn bó giữa PG Nam tông Việt Nam
trong nước và PG Campuchia cũng như cộng đồng Phật tử người Việt sinh sống
trên đất nước này, đã không ngừng được tăng cường củng cố, tạo nên mối quan hệ
hữu nghị hợp tác ơn tình quan trọng, xuyên suốt qua bao thời kỳ lịch sử thăng
trầm của dân tộc và PG hai nước Việt Nam-Campuchia càng thêm tốt đẹp, trong đó
có sự đóng góp đáng kể của PG Nam tông Việt Nam.
Nổi bật nhất là
trong khoảng thời gian PG Việt Nam đi tiên phong trong công cuộc tranh đấu anh
dũng của các tầng lớp nhân dân chống lại bạo quyền độc tài tay sai Ngô Đình
Diệm, PG Nam tông đã trở thành một trong những thành viên xung kích và tích
cực trong các phong trào xuống đường, tuyệt thực và biểu tình và đấu tranh
trực diện ở tại nhiều địa phương, nhất là ở Huế và tại thành phố này. Biết bao
chư Tăng và Phật tử Nam tông cũng đã chịu chung cảnh bị đánh đập, giam cầm,
tra tấn cùng với số phận của hàng ngàn Tăng Ni Phật tử khắp nơi trên cả nước,
thậm chí HT Bửu Chơn cũng không thoát khỏi cảnh ngộ bị giam cầm chung cùng với
các vị tôn túc lãnh đạo PG khác. Chính sự hợp tác cùng nhau đoàn kết một lòng,
kề vai sát cánh, sống chết có nhau, trong công cuộc đấu tranh của PG Việt Nam
cho sự tồn sinh của đạo pháp và dân tộc, là chất keo tình cảm vô cùng quan
trọng, tạo điều kiện và tiền đề cho sự hình thành và phát triển nên tinh thần
hòa hợp chúng, bất khả phân ly, mở đầu cho công cuộc vận động thống nhất PG
nước nhà, nhằm đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Tăng Ni Phật tử Việt Nam, bất
luận tông môn hệ phái nào, rất thiêng liêng và bền chặt.
Chính vì nhận thức
được sự khác biệt giữa PG
Nam tông và Bắc tông là thật sự không có ranh giới đáng kể, nó chỉ mang tính
chất hiện tượng tạm thời. Bản chất khách quan của sự vật - nền tảng nhận thức
của PG luôn luôn hiện diện trong ý thức của Tăng Ni Phật tử, tất yếu dẫn đến
nhận thức rằng nỗ lực trong cuộc vận động thống nhất PG cũng chính là cuộc đấu
tranh để đưa đến sự thống nhất các điểm bất đồng dị biệt để thực hiện tính
nhất thể tương đồng trong nội bộ PG, và điều này chỉ có thể thực hiện được khi
hoàn cảnh chủ quan (ý chí thống nhất của Tăng Ni Phật tử cả nước) và điều kiện
khách quan (sự thống nhất đất nước) cho phép; chính vì vậy nên dù có một số
điểm dị biệt bất đồng về hình thức và nội dung biểu hiện trong cách thờ
phượng, trong quan điểm nội dung giáo lý và trong các phương pháp hành trì
trong đời sống và sinh hoạt hàng ngày của Tăng Ni Phật tử giữa Nam-Bắc tông,
điều ấy cũng không phải là những vật cản lớn đối với hàng tứ chúng đệ tử Phật
dù Nam hay Bắc tông, thật sự sống biết tôn trọng và thực hành đúng theo tinh
thần Lục hòa cộng trụ và Tứ nhiếp pháp của đức Phật. Chính nhờ những quan điểm
nhận thức như thế nên có thể nói từ khi du nhập Việt Nam, PG Nam tông đã biết
cách thể hiện khá nhuần nhuyễn tinh thần khế lý khế cơ của PG, và nhờ vậy
không lạ gì thành quả của quá trình vận động thống nhất PG nước nhà gặp rất
nhiều thuận duyên, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Tăng tín đồ PG Nam
tông trải qua các thời kỳ, mà đỉnh cao là Hội nghị Thống nhất PG Việt Nam được
tổ chức trọng thể tại thủ đô Hà Nội vào tháng 11-1981, và PG Nam tông là một
trong 11 thành viên của cuộc hội
nghị lịch sử quan trọng này. Và cũng bắt đầu từ điểm mốc lịch sử quan trọng ấy
của PG Việt Nam, Tăng tín đồ PG Nam tông đang phấn đấu tiếp tục kế thừa và
phát huy truyền thống phục vụ đạo pháp và dân tộc trong lòng Giáo hội PG Việt
Nam mà các bậc tiền bối đã dày công khai sơn phá thạch và mở đường cho các thế
hệ hiện tại và tương lai vững bước.
Vì thời gian không
cho phép, tôi xin được kết thúc bài tham luận này với nhận định như sau:
Xác định lập
trường quan điểm nhập thân phấn đấu cho lý tưởng phục vụ vì sự nghiệp chung
của PG Việt Nam, nhằm phát huy ánh sáng chánh pháp của đức Phật được lưu lộ và
tồn tại mãi trên quê hương Việt Nam, vì đại nghĩa dân tộc và an lạc hạnh phúc
của nhân dân, chính là lý do tồn tại và cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, định
hướng cho mọi hành động lợi đạo ích đời của PG Nam tông Việt Nam.
Như vậy, sự có mặt
của PG Nam tông tại Việt Nam từ trên nửa thế kỷ qua và hiện tại, nếu cho phép
được ví von theo cách nói hình tượng văn học thì đó là sự góp mặt của một loài
hoa trong vườn hoa PG Việt Nam, cùng với nhiều loài hoa PG khác, góp phần tô
điểm làm giàu sắc hương tươi thắm cho vườn hoa văn hóa tinh thần của đất nước
và dân tộc Việt Nam
---o0o---