VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ
LUẬN
Nguyễn Lang
---o0o---
TẬP II
CHƯƠNG XXV
CÁC
DANH TĂNG ÐỜI NGUYỄN
Vua Gia Long thắng Tây Sơn, lên ngôi năm 1802. Những
năm chinh chiến đã để lại bao nhiêu đổ nát trong xứ sở. Tự viện và tăng sĩ
cũng chịu chung số phận: nhiều chùa chiền bị phá hủy, các trung tâm tu học
bị giải tán, tăng sĩ tản mác mọi nơi. Một số các cao tăng trở về kiến
thiết lại các tổ đình và tổ chức trở lại sự tu học.
Các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức cũng có để tâm đôi chút về
việc phục hưng lại đạo Phật. Năm 1815, vua Gia Long sắc tu bổ lại chùa
Thiên Mụ. Năm 1826, vua Minh Mạng lại sắc dựng lại chùa Thánh Duyên. Chùa
này ở gần cửa biển Tư Hiền, tỉnh Thừa Thiên, do chúa Nguyễn Phúc Chu lập,
và bị phá hủy trong cuộc chiến tranh Tây Sơn. Năm 1830, vua Minh Mạng
triệu cao tăng các tỉnh về Kinh, nhờ Bộ Lễ xem xét rồi ban cấp giới đạo và
độ điệp.
Có cả thảy năm mươi ba vị được cấp giới và độ điệp, trong đó có Phúc Ðiền,
người san hành sách Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục. Năm
1844, vua Thiệu Trị, theo di chúc của vua Minh Mạng, sắc dựng một ngôi
tháp lớn bảy tầng ở chùa Thiên Mụ, gọi là Từ Nhân Tháp.
Cũng trong năm này, vua sắc dựng chùa Diệu Ðế. Năm 1849, vua Tự Ðức sắc
các chùa công như Thiên Mụ, Giác Hoàng, Thánh Duyên, Tam Thai, v.v... mỗi
chùa phải được chủ trì bởi một vị tăng cương để lãnh đạo tăng chúng tu
học, các vị tăng cương này đều có lương bổng của chính phủ chi cấp. Năm
1853, vua Tự Ðức lại sắc ban ruộng đất cho các chùa như Thiên Mụ, Diệu Ðế,
Thánh Duyên, Linh Hựu, Long Quang, Tam Thai, Ứng Chân và Khải Tường.
·THIỀN SƯ MẬT HOẰNG
Thiền sư Mật Hoằng là người tỉnh Bình Ðịnh, đệ tử của thiền sư Linh Nhạc,
thuộc pháp phái Nguyên Thiều. Khoảng đầu thế kỷ thứ mười chín, ông hành
đạo tại các miền vùng Gia Ðịnh, và đạo phong ông được vua Gia Long biết
đến. Năm 1815, vua Gia Long triệu ông về kinh, ban cấp chứng chỉ Tăng
Cương và thỉnh ông trú trì tổ đình Quốc Ân do thiền sư Nguyên Thiều khai
sơn. Ông đã trùng tu tổ đình này, biến Quốc Ân thành một phạm vũ lớn. Sau
đó ông lại khởi sự trùng tu chùa Thập Tháp Di Ðà ở Bình Ðịnh, chùa gốc của
ông và cũng do thiền sư Nguyên Thiều sáng lập.
·THIỀN SƯ PHỔ TỊNH
Thiền sư Phổ Tịnh người tỉnh Quảng Nam, hiệu là Ðạo Minh, đề tử của thiền
sư Chiếu Nhiên, thuộc phái Liễu Quán. Năm 1808, ông được bà Hiến Khương
hoàng thái hậu thỉnh trú trì chùa Thiên Thọ (tức chùa Báo Quốc bây giờ).
Ông tịch năn 1816. Ông có một người đệ tử xuất sắc là thiền sư Nhất Ðịnh.
·THIỀN SƯ THANH ÐÀM
Thiền sư Thanh Ðàm hiệu Minh Chính là trú trì chùa Bích Ðộng ở làng Ðam
Khê, phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông là đệ tử của thiền sư Ðạo Nguyên,
lúc bây giờ đang chủ trì thiền viện Nguyệt Quang, một tổ đình của môn phái
Chân Nguyên. Thanh Ðàm xuất gia năm 1807, thọ cụ túc giới năm 1810. Ðến
năm 1819, ông sáng tác sách Pháp Hoa Ðề Cương tại Liêm Khê Viện.
Năm 1843, ông sáng tác sách Tâm Kinh Trực Giải.
Hồi mới xuất gia, một hôm ông hỏi thiền sư Ðạo Nguyên:
- Tâm không phải ở trong thân, cũng không ở ngoài thân, cũng không ở chặng
giữa. Vậy tâm rốt cuộc nằm ở đâu?
Ðạo Nguyên mỉm cười xoa đầu ông và cho ông bài kệ:
Ứng dụng theo thời
Gặp vật thấy cơ
Chân tính như như
Trọng ngoài chẳng nên
Tùy thời ứng dụng
Ngộ vật kiến cơ
Tính bản như như
Hà quan nội ngoại).
Ngày thọ giới cụ túc, ông cũng được Ðạo Nguyên cho một bài kệ:
Trán phóng hào quang đâu phải Phật
Dưới chân mây trắng chửa là tiên
Hãy nuôi trâu nọ cho cường tráng
Hôm sớm cày sâu đám ruộng mình.
(Quang phóng mi gian vô đạo Phật
Vân sinh túc hạ vị ngôn tiên
Nhiêu quân bão dưỡng ngưu phi tráng
Triêu tịch thực canh bỉ thốn điền).
Pháp Hoa Ðề Cương
Pháp Hoa Ðề Cương là một tác phẩm biên khảo giá trị. Văn của Thanh Ðàm
viết gọn, chen lẫn thơ kệ và có nhiều giá trị văn học. Pháp Hoa Ðề
Cương có thể nói là cẩm nang cho người đọc kinh Pháp Hoa. Cũng
như có địa bàn trong tay người thủy thủ không còn sợ mất bến mất bờ, có
Pháp Hoa “Ðề Cương thì người đọc kinh sẽ nắm được ý chỉ của Kinh.
Thanh Ðàm đã đọc Pháp Hoa với con mắt của nhà Thiền học. Ông lại
thường hay đối chiếu Pháp Hoa với Lăng Nghiêm và Kim
Cương nhận thức của ông về giải thoát được trình bày gọn ghẽ trong bài
Bạt nói về năm chữ Diệu pháp Liên Hoa Kinh. Theo ông, Diệu
tức là Tâm, là chân tâm sáng suốt tròn đầy. Chân tâm này không thể đạt tới
bằng suy tư và nghị luận. Còn Pháp là Căn, Trần và Thức. Căn, Trần, Thức
đều do chân tâm lưu xuất. Trong ba thứ: căn, trần và thức thì căn là thứ
gần gũi nhất, có thể quán sát để tìm về chân tâm. Không thể chỉ bày Chân
Tâm, chỉ có thể chỉ bày dấu vết ứng dụng của chân tâm trên căn tính. Căn
tính cũng như mặt trăng thứ hai mà ta trông thấy khi ta dụi mắt, nhưng mặt
trăng thứ hai tuy hư vọng nhưng cũng cùng một thể với mặt trăng thứ nhất.
Căn tính cũng cùng một thực thể với chân tâm.
Người tu đạo do sự quán sát sự ứng dụng của tâm trên căn trần mà thông đạt
tới chân tâm hay là tự tính, và ngộ đạo. Sau đây là những dòng của Thanh
Ðàm viết:
“Diệu là chỉ chân tâm thanh
tịnh xưa nay, Tâm này từ vô thủy đến nay tùy duyên bất biến, bất biến tùy
duyên, nơi thánh không thêm, nơi phàm không bớt, lấm không dơ, rửa không
sạch, lặng lẽ tròn đầy pháp giới, mênh mông đầy khắp không hư. Tâm là
nguồn gốc của chư Phật mà cũng là Phật tính của chúng sinh, nguyên không
có tướng trạng và mọi tướng trạng đều từ đó phát hiện, vốn là chân không
mà cái không lại cũng từ đấy sinh ra. {Tâm ấy} giống như viên ngọc ma ni
trong vắt, không có mầu sắc mà gọi màu sắc có thể tự do xuất phát; cũng
như biển giác lặng đầy, ảnh chiếu lục trần mà không nhận một hạt bụi, là
họa sư vẽ nên mười pháp giới, là mẹ trí tuệ của tất cả các đức Như Lai.
Kinh Hoa Nghiêm
có nói:
Nếu ai muốn hiểu biết
Các đức Phật ba đời
Hãy quan sát pháp giới:
Tất cả do tâm tạo.
Mục đích tối hậu của sự tu tập là tâm ấy vậy. Hỏi: Tâm linh diệu như thế
làm sao nắm được? Ðáp: Ngôn thuyết và biểu thị không thể nắm được chân
tâm. Kinh Pháp Hoa nói rằng:
Thôi, thôi! đừng nên nói
Pháp ta mầu, không nghĩ
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe thấy chẳng kính tin.
Hai
chữ “thôi, thôi!” diễn tả được bản thể bất động của Tâm. Ba chữ: “đừng nên
nói” có nghĩa là tâm vượt ra khỏi đối tượng của ngôn thuyết và biểu thị.
Chữ “ta” chỉ bản tâm của chính mình. Chữ “pháp” chỉ cho sự ứng dụng của
tri kiến. Chữ “mầu” chỉ cho sự linh diệu của Tâm, từ Tâm phát sinh ra mọi
pháp mà chính tâm thì không có tướng trạng nào hết. Hai chữ “khó nghĩ” có
nghĩa là không thể tư duy về Tâm. Tổ sư đã dạy: “Móng Tâm là đã sai, động
niệm đã trái”, vì vậy cho nên nói “mầu khó nghĩ”. “Những kẻ tăng thượng
mạn” là ai? Ðó là những người vướng vào tướng, chấp và pháp, những người
đang cưỡi trâu mà lại tìm trâu, đem đèn đã cháy mà xin lửa, trên tuyết còn
thêm sương. Ðó là những kẻ tự khinh mình, cho rằng cái linh diệu kia chỉ
có tổ và Phật mới có, ta chẳng thể nào có được, cho nên mới chạy tìm bên
ngoài. “Nghe thấy chẳng kính tin” nghĩa là nếu đã tự khinh mình, cho rằng
tâm linh diệu dó không phải của mình, cho nên không biết quý trọng giữ
gìn, như đứa con nghèo khó kia.
Nếu nhận ra được drằng nhà mình có của báu, thì không còn tự khinh cũng
cũng không còn nghèo đói. Mỗi phút giây trở về nhìn lại Hào Quang mầu
nhiệm, không cần tìm đuổi theo ngôn từ và phân biệt, đó gọi là kẻ biết
kính tin. Kính tin lại thêm kính tin, viên ngọc gia bảo mầu nhiệu kia, mầu
nhiệm thay, cũng một lúc tất cả chúng ta đều có. Vậy hãy “Thôi, thôi! đừng
nên nói!”.
Bài
tụng về cái Diệu của Diệu như sau:
Không hình không trạng cũng không tên
Mầu nhiệm trong lòng một điểm linh
Thường tịch viên thông soi pháp giới
Bản lai thanh tịnh rạng chân tinh
Từ đây phát hiện nên Chư Phật
Do đấy thành ra có chúng sinh
Ðứa con nghèo khổ lưu linh mãi
Quên mất người cha của tự mình.
Pháp là tất cả mọi vật, là sự ứng dụng của Diệu Tâm. Diệu Tâm là nguồn
thiêng của mọi vật. Pháp là Tâm, Tâm là Pháp. Pháp là tùy duyên của
Diệu Hữu - khi không nhiễm thì gọi là diệu pháp. Tâm là ứng vật
của Chân Không, nên không vướng vào trần thì gọi là chân tâm. Mượn
cái gì mà nói được về chân tâm? Nói về diệu pháp thế nào để không ngăn
ngại sự tu chứng? Các pháp môn để tu chứng thì nhiều vô lượng, ta phải tìm
pháp môn nào gần nhất để đi vào... Vả lại các pháp tuy vô số mà bất quá
đều quy về căn, trần và thức. Ba thứ này đều do Diệu Tâm
hiển hiện, cho nên thường nói “pháp từ tâm sinh khởi, tâm là nguồn pháp”.
Một niệm nghĩ lúc ban sơ đã khiến cho biến hóa vạn cách, trôi nổi liên
tiếp, sinh diệt luân hồi, cho mãi đến bây giờ vẫn còn đuổi theo vọng
tưởng, quên mất chân tính, giống như anh chàng Diễn Nhã
quên đầu nhận bóng. Nay muốn khai thị và đốn ngộ nguồn tâm thì trước hết
phải biết thức là huyễn ảnh, trần là hoa đốm hư không, cả
hai thứ đều không tự sử dụng làm căn cứ để tu hành; phải lấy căn làm
phương tiện gần gũi để tu tập. Tại sao vậy? Tại vì trần không có tự thể.
Thức cũng không có tự thể thực hữu, nhờ trần cho nên mới
sinh diệt và qua lại được. Ðã sinh diệt qua lại tức là vô thường. Chỉ có
căn tính mới là thường tại, nên Phật bảo căn tính này là Diệu Căn,
Căn Pháp là Diệu Pháp. Căn Pháp dù cũng do tâm hiện ra, như mặt trăng thứ
hai cùng với mặt trăng thứ nhất là một, lúc đè mí mắt thì có, lúc biết thì
không có, thế thôi. Khi có vọng tưởng thì căn tính là chân tâm thứ hai
vậy. Khi ở trong trạng thái vô tướng linh tri, thì chân tâm là cái chân
tâm thứ nhất. Tuy vậy căn tính và linh tri cùng một thể, chỉ khi mê thì
thấy có căn tính, khi ngộ thì căn tính không còn. Căn tính ấy cũng là một
với bản tâm thanh tịnh xưa nay, không hư huyễn như Trần và Thức. Cho nên
Pháp chỉ bày rằng căn tính là nhân địa gần nhất cho sự tu hành, khiến cho
chúng sinh có thể đi vào chân tâm bằng cánh cửa căn tính; vào dòng, trở
nên đầu nguồn, thấy được tâm thể xưa nay của mình. Hỏi: Tại sao không chỉ
thẳng cái thứ nhất là Diệu tâm xưa nay; mà lại chỉ cái thứ hai
là Căn Tính để làm phương tiện tu hành? Ðáp: Tâm vốn vô hình, làm sao mà
chỉ?
Trước
kia tôi đã nói một lần rồi: ngôn thuyết và biểu thị không nắm được Tâm.
Tuy vậy, dù Tâm vô hình, nhưng sự ứng dụng của căn lại có vết tích, vì có
vết tích nên có thể chỉ bày, khiến cho người tu học có thể nhìn vết tích
của sự ứng dụng, do ánh sáng ấy mà về được Tâm.
Hỏi:
Dấu vết ấy ở đầu?
Ðáp:
Ở trên đối tượng lục trần. Do sức mà có cái thấy, do thanh mà có cái nghe:
lục trần là dấu vết ứng dụng của lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của
thì phải quán sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng sắc thanh. Nên biết rằng
công dụng của Căn là công dụng của Tâm, căn nhận thức là tâm nhận thức;
cái khác nhau là căn có sáu công dụng mà tâm chỉ có một bản thể tinh minh.
Các Ðức Phật truyền cho nhau căn pháp này, các vị tổ truyền nhau Tâm Tông
ấy ấy. Ðó là bí quyết mà các kinh chỉ bày để đắc căn bản trí. Pháp ấn
truyền giữ qua các thời đại cũng lấy cái ấy để phát giác sơ tâm. Chứng ngộ
mau hay chậm là vì căn cơ rộng hay hẹp. Nên biết rằng pháp này được đặt
tên tùy theo trương hợp và địa phương, tuy sai biệt vô cùng mà cũng chỉ là
pháp ấy. Lại cũng nên biết là danh hiệu của chư Phật và đề mục của các
kinh cũng đều là biệt hiệu của pháp ấy.
Hỏi:
Tâm ấy làm sao mà trao truyền?
Ðáp:
Ðức Thế Tôn đưa lên một nhành hoa, Ca Diếp mỉm cười, sau đó các tổ truyền
lại, giữ gìn, trường hợp khác nhau, chỉ có người giác ngộ mới tự biết lấy.
Hỏi:
Tu trì làm sao?
Ðáp:
“Thôi, thôi!” đó là phương pháp; thiền sư Ðạo Xuyên nói:
Tri âm, tự khắc từng theo gió
Trăng trong gió mát đất trời nhàn.
Lại
nói:
Nắm được ở tâm
Ứng được ở tay
Tuyết gió hoa trăng
Trời đất lâu dài
Cứ hễ canh năm gà gáy sáng
Xuân về hoa núi nở ngàn nơi.
Hỏi:
Mục đích tối hậu là gì?
Ðáp:
Phổ Hóa hòa thượng nói: “Tìm chỗ đi tới không được”. Và bài kệ nguyện
trong kinh Hoa Nghiêm cũng nói:
“Nghiêng mình làm lễ trước biển Chân Tính Hoa Nghiêm và trước tất cả các
bậc quang minh biến chiếu trước thế giới trang nghiêm do hạnh nguyện Phổ
Hiền thiết lập và trước kho tàng pháp giới Chân Như”.
Thôi
xin chào, xin chào! Có bài kệ về pháp của Pháp như sau:
Vạn pháp tuy nhiều không đếm xiết
Chung quy cũng chỉ Thức Căn Trần.
Huyễn duyên dư ảnh dù không thực
Chân tri chính kiến vẫn bao dung
Gặp thầy chỉ dạy đường mê ngộ
Thấy Phật tìm ra lẽ sắc không
Nếu muốn lên mà bờ bến giác
Con đường trước mặt chớ lần khân.
Bát Nhã Trự Giải
Bát Nhã Trự Giải là một tác phẩm nhằm giải thích Tâm Kinh Bát Nhã
Ba La Mật Ða. Tác phẩm này cũng chứa đầy thi, kệ và tán như tác phẩm
trước. Tâm Kinh được xét dưới bốn khía cạnh: tín (đức tin), giải
(sự thông hiểu), hành (sự thực hành) và chứng (sự đạt đạo).
Thiền sư Thanh Ðàm phân tiách kinh ý ra mười mục như sau:
1- Ðề
mục
2-
Chính nhân
3-
Hạnh môn
4-
Khai thị
5-
Thực tướng
6-
Tảo nhị chấp
7- Vô
sở đắc
8-
Tịch diệt
9- Tu
chứng
10-
Nguyện mãn
Sau
đó, Thanh Ðàm giải thích bài kệ Bát Nhã của Cổ Ðức, bàn về Lục Căn, Thấtt
Ðại.
Ðề Án Tham Cứu
Thiền sư Thanh Ðàm chịu ảnh hưởng rất sâu đạm bài kệ đầu tiên mà Ðạo
Nguyên trao cho mình, cho nên tất cả phương pháp tu hành mà ông chỉ bày
nằm gọn trong các chữ “Tùy thời ứng dụng”, “Ngộ vật kiến cơ”. Ông đã hiểu
tám chữ đó trong ánh sáng của Pháp Hoa, Lăng Nghiêm và
Bát Nhã. Ông đề ra ba công án sau đây để giúp độc giả của ông tham cứu
về Chân Tâm:
1- Thế Tôn xuất thế bởi vì đâu?
Tuyên thuyết Liên Hoa pháp nhiệm mầu.
Thử hỏi cả đời sao chửa nói?
Gần khi nhập diệt mới truyền trao?
(Thế Tôn xuất thử dĩ hà duyên?
Chỉ vị liên hoa đại sự yên
Hà nãi trung gian do vị thuyết
Niết Bàn tương cận thủy ban tuyên?
2- Từ Tây phương đến chỉ tâm tông
Sao chín năm luôn mặt úp tường?
Có phải vì căn cơ chửa chín?
Chín rồi mới hiện lộ chân không?
(Tây lai trực vị chỉ tâm tông
Hà nãi cửu niên diện bích trung?
Tất dã đầu cơ cơ vị thục,
Thục thời nhiên hậu hiển chân không?)
3- Huệ Năng được ấn pháp Kim Cương
Sao phải chạy về Nam Lĩnh Dương?
Không ở ngay đây truyền pháp ấn?
Biết đâu chân tính vẫn mơ màng!
(Huệ Năng đắc pháp ấn Kim cương
Hà Nãi triền quy Nam Lĩnh Dương
Bất đán vị tha tuyên pháp ấn
Cái tri nhân tính thượng mê mang)
Ba nghi vấn đưa ra để tham cứu:
1) Tại sao Phật phải đợi đến lúc gần nhập diệt mới chịu thuyết kinh
Pháp Hoa?
2) Bồ Ðề Ðạt Ma qua Ðông Ðộ để chỉ bày tâm tông, tại sao lại ngồi nhìn
vách chín năm, hay là tại chưa thực sự giác ngộ?
3) Huệ Năng nếu quả thật đắc pháp ấn với Ngũ Tổ, tại sao không ở ngay đó
để hoằng đạo mà lại chạy về Lĩnh Nam?
Ba đề tài trên đây tuy vậy còn mang tính chất suy luận. Công án sau đây có
lẽ mới là công án mà thiền sư Thanh Ðàm ưa thích và sử dụng. Ta có thể gọi
nó là công án Thần Ðà
Niêm: Hay lắm, Thuần Ðà
Hay lắm, Thuần Ðà
Tụng: Không nói ngắn, chẳng nói dài
Ngắn dài tốt xấu thảy đều sai
Tìm hay, lại hóa người chê vụng
Bắn sẻ, ai dè sói chực ngay
Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng hiểu “bản lai vô nhất vật”
Công lao uống phí một đời ai.
Bài thơ ngộ nghĩnh nhất của Thanh Ðàm là bài thơ Tìm Tâm, có âm
hưởng tiếng trống đánh:
Ngang lưng đeo trống đối tri âm
Duỗi thẳng hai tay, đánh trống tâm:
Tập tập tìm tâm, tâm tất tập
Tìm tâm, tâm tập, tập tìm tâm.
Âm thanh hợp vận, âm tùng họa:
Tịch chiếu Tâm Tông, tức tập tầm.
Trăng sáng, gió thanh thường tự tại
Tìm tâm chẳng được, nghỉ tìm tâm.
Thôi nhé, tâm ta chẳng thể tầm
Tìm tâm dẫu được, chẳng chân tâm
Mang đèn xin lửa thêm điên đảo
Thà đứng bên sông hát khúc ngâm.
(Kiên kình yêu cổ đối tri âm
Thư thủ vô vi phách cổ tâm
Tập tập tầm tâm tâm tắc tập
Tầm tâm tâm tập, tập tầm tâm
Cổ thanh hợp vận dùng thanh họa
Tịch chiếu tâm tông tức tập tầm
Minh nguyệt thanh phong trường tự tại
Tầm tâm bất đắc, tức tầm tâm.
Chỉ chỉ! Ngô tâm bất khả tầm
Tầm tâm túng đắc tắc phi tâm
Tương đăng cầu hỏa tự điên đảo
Bất nhược sogn tiền thủ nhất ngâm).
Thiền sư Thanh Ðàm cũng thuộc pháp phái Trúc Lâm. Cuối tác phẩm Pháp
Hoa Ðề Cương, ông có nêu lên hai câu kệ “Lục Căn Thất Ðại” của Trúc
Lâm Ðiều Ngự và căn cứ vào đó làm ra mười ba bài kệ về lục căn và thất
đại. Hai câu ấy như sau:
“Lục căn hư vọng, vô phi bồ đề diệu tâm
Thất đại biến chu, tận thị Như Lai tạng tính”
(Sáu căn hư vọng, mà căn nào cũng là diệu tâm giác ngộ,
Bảy đại trải khắp, đều là tạng tính Như Lai)
Một lần nữa ta thấy ông nhấn mạnh tới nguyên tắc “Căn Tính và Diệu Tâm là
một”.
·THIỀN SƯ THANH NGUYÊN
Thiền sư Thanh Nguyên, hiệu Minh Nam, là người viết bài tựa cho sách
Pháp Hoa Ðề Cương của Thanh Ðàm. Hai vị có lẽ cùng một bản sư và một
môn phái. Sau đây là bài kêï của ông tán dương sách Pháp Hoa Ðề Cương:
Hồ xanh trong biếc nảy sen thơm
Kinh mục nêu bày nghĩa đại cương
Minh chính nhất thừa đà quảng bá
Ðạo trung tâm yếu lại hoằng dương
Quần phương tỏ ngộ tâm viên tịch
Ðại chúng đồng tham lsy vĩnh trường
Thanh tịnh sen kia ngời pháp giới
Tự tính Tỳ lô khéo xiển dương.
(Bích thanh đàm xuất diệu liên hương
Hoa mục chi tiêu tổng pháp cương
Minh Chính nhất thừa khai tối quảng
Ðạo trung tâm yếu thị hoằng dương.
Quần phương hội ngộ viên tâm tịnh
Chúng đẳng đế quan nhập lý trường
Thanh tịnh liên hoa quang pháp giới
Tỳ Lư tính hải diẽn chân thường)
Bài tựa sách Pháp Hoa Ðề Cương được viết vào tháng tám âm lịch năm
1820. Hai chữ Minh Chính trong bài thơ là pháp hiệu của Thanh Ðàm.
·THIỀN SƯ AN THIỀN
Ông là tác giả Tam Giáo Thông Khảo. Sách cũng có tên Ðạo Giáo
Nguyên Lưu, được biên tập vào khoảng giữa thế kỷ thứ mười chín, trong
thời gian vua Thiệu Trị còn tại vị. Thiền sư An Thiền trú trì tại chùa Ðại
Giác ở làng Bồ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sách Tam Giáo Thông Khảo gồm ba
quyển. Có lẽ sách được in năm 1845, bởi vì đầu sách có một bài tựa ký tên
Nguyễn Ðại Phương, viết vào năm 1845. Quyển thứ nhất nói về đạo Phật, gồm
có những mục sau đây:
1- Phụng Chiếu Cầu Pháp: Việc du học của thiền sư Tính Tuyền Trạm
Công
2- Bản Quốc Thiền Môn Kinh Bản: Các bản kinh khắc ở Việt Nam.
3- Ðại Nam Thiền Học Sơ Khởi: Khởi thủy Thiền học Việt Nam.
4- Ðại Nam Phật Tháp: Các tháp Phật ở Việt Nam.
5- Vô Ngôn Thông Truyền Pháp: Thiền phái Vô Ngôn Thông.
6- Danh Chấn Triều Ðình: Các cao tăng nổi tiếng ở triều đình.
7- Lê Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Tiền Lê
8- Lý Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Lý
9- Trần Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Trần.
10- Tỳ Ni Ða Lưu Chi Truyền Pháp: Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi
11- Tuyết Ðậu Truyền Pháp: Thiền phái Thảo Ðường.
12- Những việc thần bí liên quan đến các thiền sư Việt Nam qua các triều
đại.
13- Danh từ Phật học và các thần thoại trong Phật giáo ở Trung Hoa và Việt
Nam.
Quyển thứ hai và quyển thứ ba nói về Khổng và Lão Giáo.
·THIỀN SƯ NHẤT ÐỊNH
Thiền sư Nhất Ðịnh pháp danh là Tính Thiên, người Quảng Trị, sinh năm
1783. Ông xuất gia hồi còn là một nhi đồng, lớn lên được thiền sư Phổ Tịnh
chùa Thiên Thọ làm lễ thế độ làm sa di. Sau ông thụ giới cụ túc với thiền
sư Mật Hoàng ở chùa Quốc Ân. Vâng mệnh vua Gia Long, ông giữ chức vụ trú
trì chùa Thiên thọ.
Năm 1833, vua Minh Mạng thỉnh ông trú trì chùa Linh Hựu. Năm 1839 vua lại
thỉnh ông làm Tăng Cương chùa Giác Hoàng. Tính ông ưa vân du nên không
thích quản đốc các chùa quốc tự. Năm 1843, ông xin từ chức Tăng Cương chùa
Giác Hoàng, được vua Thiệu Trị chấp nhận. Ông rất hài lòng, nói:
Già rồi, may được vua thương,
Một thân, một bát rộng đường vân du.
(Hạnh phùng tấu dắc nhưng hồi lão
Nhất bát cô thân vạn lý du)
Mấy năm sau đó, ông lên núi Dương Xuân Thượng quận Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên, dựng một thảo am để ở, gọi là An Dưỡng Am. Cảnh trí ở đây u nhàn
đẹp đẽ. Ông tu ở đây cho đến năm 1847 thì tịch, thọ đúng sáu mươi bốn
tuổi. Ba người đệ tử xuất sắc nhất của ông là Lưỡng Duyên, Cương Kỷ và
Linh Cơ.
Thái giám viện nương vào đức độ của ông, dựng chùa lớn tại địa điểm An
Dưỡng Am, đặt tên là chùa Từ Hiếu, kiến trúc tương tự kiến trúc lăng vua
Tự Ðức. Tên chùa là Từ Hiếu vì các đệ tử ông vẫn nhớ lúc sinh tiền ông rất
có hiếu với cha mẹ, dù đã đi xuất gia.
·THIỀN SƯ DIỆU GIÁC
Ông họ Ðỗ, pháp danh là Hải Thuận, sinh năm 1805 tại làng Bích Khê, Quảng
Trị. Năm mười ba tuổi, ông vào làm điệu chùa Thiên Thọ (Báo Quốc). Năm hai
mươi tuổi được thụ giới sa di với thiền sư Bản Giác ở chùa này. Năm 1835,
ông được Bộ Lễ ban cấp giới đao và độ điệp, và đắc pháp với thiền sư Nhất
Ðịnh ở chùa Linh Hựu. Ông trú trì chùa Diệu Ðế, đứng ra trùng tu các chùa
Huệ Lâm, Báo Quốc và Kim Tiên. Năm 1895, ông tổ chức đại giới đàn tại chùa
Báo Quốc.
Ông có nhiều đệ tử đắc pháp xuất sắc như các thiền sư Tâm Quảng, Tâm Thể,
Tâm Truyền và Tâm Tịnh.
Ông mất năm 1896, thọ chín mươi mốt tuổi.
·THIỀN SƯ TỊCH TRUYỀN
Thiền sư Tịch Truyền pháp danh là Kim Liên, người làng Trình Viên ở Thượng
Phúc, tỉnh Hà Nội. Sinh năm 1746, ông xuất gia hồi bé, lớn lên được thiền
sư Hải Quỳnh ở chùa Liên Tông làm lễ thế độ. Ông trú trì chùa Vân Trai, tu
hành rất tinh tấn, giữ giới cẩn mật. Năm 1816, ông tịch, thọ bảy mươi
tuổi. Ðệ tử đầu của ông là thiền sư Chiếu Khoan. Ông có để lại bài kệ sau
đây:
Tâm có trước đất trời
Thân có sau trời đất
Ðất trời bọc thân tâm
Xoay vần bao giờ mất.
(Tâm vi thiên địa tiên
Thân vi thiên địa hậu
Thân tâm thiên địa nội
Tuần hoàn vô cùng kỷ).
·THIỀN SƯ CHIẾU KHOAN
Ông họ Nguyễn, sinh năm 1741 ở làng Trình Viên, tỉnh Hà Nội. Ông xuất gia
từ hồi còn bé, ở chùa Vân Trai, pháp danh là Tường Quang, đệ tử của thiền
sư Tịch Truyền. Ông ưa tu hạnh đầu đà, tịch cốc ba năm, và trong sáu năm
liền, ông chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Ông học đức khiêm cung, hễ vị tăng nào
đến chùa là ông đắp y ra đảnh lễ, không phân biệt cấp bực. Ðệ tử quy y rất
đông. Ði đến đâu ông cũng khuyên người tu phúc, bố thí, phóng sinh, chép
kinh, giảng kinh.
Ông tịch năm 1830. Ðệ tử đầu tay của ông là thiền sư Phổ Tinh.
·THIỀN SƯ PHÚC ÐIỀN
Thiền sư Phúc Ðiền là người có công đức lớn trong việc bảo tồn sử liệu
Phật giáo. Ông biên soạn sách Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục.
Ông trú trì chùa Liên Tông, làng Bạch Mai, tỉnh Hà Ðông nhưng công việc
san khắc này được thực hiện tại chùa Bồ Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Công việc san khắc, ông giao cho thiền sư Phương Viên, giám tự chùa Bồ Sơn
đứng ra chủ trì. Một vị tăng chùa Bồ Sơn pháp danh là Thanh Hà phụ trách
việc viết chữ khắc bản. Thiền sư Phúc Ðiền viết bài tựa cho sách đầu năm
1859, và có lẽ sách được ấn hành trong năm đó.
Phúc Ðiền cũng là người khai sơn chùa Thiên Quang, ở núi Ðại Hùng, tỉnh Hà
Nội. Chùa này được thiền sư Phổ Tịnh hồi nhỏ đã theo thiền sư Phúc Ðiền để
tu học, sau này ông thụ giới cụ túc với thiền sư Chiếu Khoan.
·THIỀN SƯ PHỔ TỊNH
Ông quê ở làng Vũ Lăng, ở Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội, xuất gia theo học với
thiền sư Phúc Ðiền, lớn lên thụ giới cụ túc với thiền sư Chiếu Khoan ở
chùa Vân Trai. Sau đó ông về trú trì chùa Thiên Quang ở núi Ðại Hùng, do
Phúc Ðiền kiến tạo. Ông có để lại bài thơ sau đây:
Tĩnh tọa bao năm núi Ðại Hùng
Thân cùng, đạo vẫn thấy vô cùng
Sáu chữ chuyên trì thân thọ ký
Lưu truyền hậu thế rạng tông phong.
(Kinh niên tĩnh tọa đại hùng phong
Thực thị thân cùng đạo bất cùng
Lục tự chuyên trì thân thọ ký
Lưu truyền hậu thế hiển tông phong).
·THIỀN SƯ THÔNG VINH
Thiền
sư Thông Vinh người làng Nhân Kiệt, tỉnh Hải Dương. Hồi còn bé ở chùa Hàm
Long với thiền sư Tính Ngạn, lớn lên được thụ giới cụ túc với thiền sư
Phúc Ðiền. Ông có công tu tạo lại nhiều ngôi chùa. Ðệ tử rất đông, đi
hoằng hóa khắp nơi. Ông có để lại bài kệ sau đây:
Tâm không cảnh tịch
Siêu việt thánh phàm
Y nhiẽm tình sinh
Ràng buộc trăm mối
Các pháp nhân thiên
Ðều tại nơi ấy
Ta người nhất thể
Nguồn gốc là tâm.
(Tâm không canh tịch
Việt thánh siêu phàm
Ý nhiễm tình sinh
Vạn duyên hệ phược
Thiên nhân chư pháp
Tận tại kỳ trung
Bỉ ngã nhất thể
Nguyên bản duy tâm)
·THIỀN SƯ LIỄU THÔNG
Thiền sư Liễu Thông pháp danh là Chân Giác, tên tục là Huỳnh Ðậu, sinh năm
1753 ở Thanh Hóa. Trên đường du hóa, ông vào tận Gia Ðịnh, vùng đất Cây
Mai, dựng thảo am trên nền một ngôi chùa Thủy Chân Lạp đã đổ nát để thiền
tọa. Nền này ở trên một chiếc gò cao. Một hôm, thấy chim phụng hoàng đến
đậu trên cây ngô đồng trước am, ông liền đặt tên gò là Phụng Sơn và am là
Phụng Sơn Am. Dần dần Phụng Sơn Am trở thành chùa Phụng Sơn, thiền sư Liễu
Thông ở lại đây hành đạo cho đến khi viên tịch. Ðó là vào năm 1840. Ðệ tử
của ông là thiền sư Hải Linh, pháp danh Quảng Tú, tên tục là Lê Văn Núi,
kế thế trú trì chùa Phụng Sơn. Thiền sư Hải Linh trú trì tại đây suốt năm
mươi sáu năm, đến năm 1896 thì viên tịch. Tháp của hai vị tổ chùa Phụng
Sơn được xây dựng trong đất chùa. Sau khi Hải Linh mất, một vị thiền sư
tên là Thanh Sơn, pháp danh Ðạt Bích kế tiếp trú trì chùa Phụng Sơn. Thanh
Sơn trú trì được gần bốn năm thì tịch. Bổn đạo chùa Phụng Sơn liền đến
thỉnh thiền sư Thanh Mãng, pháp danh là Thiện Ðịnh, lúc đó trú trì chùa
Tịnh Ðộ ở làng Tân Sơn Nhất, về trú trì chùa Phụng Sơn. Thiền sư Thanh
Mãng nhận lời và ủy cho một vị đệ tử trẻ là Huệ Minh thay mặt mình chăm
sóc chùa Phụng Sơn. Huệ Minh vân du học đạo, chùa Phụng Sơn được thiền sư
Như Chấn người Gia Ðịnh, xuất thân từ chùa Giác Viên, đến trú trì.
Thiền sư Như Chấn, pháp danh là Thiện Nghĩa, tự thiêu nhằm ngày Phật đản
năm 1903. Thiền sư Huệ Minh du học về, làm lễ hỏa táng Như Chấn, và xây
cất lại chùa Phụng Sơn thành một ngôi Phạm Vũ. Chùa hoàn thành vào năm
1915
·THIỀN SƯ VIÊN QUANG
Ông trú trì chùa Tập Phước, tỉnh Gia Ðịnh, Ông lại là sư huynh của thiền
sư Mật Hoàng, phát xuất từ chùa Thập Tháp, Bình Ðịnh, và là đệ tử của
thiền sư Linh Nhạc, dòng dõi của thiền sư Minh Lương Nguyệt Am, pháp phái
Nguyên Thiều. Chùa Tập Phước đã được dựng vào hồi thế kỷ thứ mười tám,
trong đời chùa Nguyễn Phúc Khoát. Ông là bạn của Trịnh Hoài Ðức. Khi về
làm tổng trấn Gia Ðịnh, Trịnh Hoài Ðức có tặng ông một bài ngũ ngôn cổ
điệu. Bài thơ như sau:
Ức tích thái bình thì
Lộc đỗng phương thịnh mỹ
Thích Ca giáo hưng sùng
Lâm ngoại tổ phú quý
Ngã vi thiêu hương đồng
Sư tác chi giới sĩ
Tuy ngoại phân thanh hoàng
Nhược mạc khế tâm chí
Phong trần thúc lương bằng
Thế giới nhập ngạ quỷ
Bình ngạch nhậm phù trầm
Bào ảnh đẳng sinh tử
Yểm tứ thập dư niên
Hoàng thuấn tức gian sự!
Tây giao thích nhàn hành
Sơn môn ngẫu tưởng trị
Ngã hiệp biện trấn công
Sư đại hòa thượng vị
Chấp thủ nghĩ mộng hồn
Ðàm tâm, tạp kinh quý
Vãng sự hà túc luân
Ðại đạo hợp như thị.
tạm
dịch:
Nhớ xưa hồi thái bình
ÐấtÐồng Nai được hưng mỹ
Ðạo Phật được hưng sùng
Nhà ngoại thêm phú quý
Ta đồng tử đốt hương
Sư theo đòi giáo nghĩa
Bên ngoài chia đạo, đời
Bên trong đồng tâm trí
Loạn lạc phải xa nhau
Thế giới thành ngạ quỷ
Ta trôi nổi vào ra,
Bọt bèo biển sinh tử
Mới đó bốn mươi năm
Chớp nhoáng chuyện thế sự
Nay bỗng nhiên nhàn hành
Nơi thiền môn gặp gỡ
Ta hiệp biện trấn công
Sư cao tăng thượng sĩ!
Nhắc lại chuyện ngày qua
Tâm cùng tâm tương nghị
Chuyện xưa nói sao cùng !
Ðại đạo vốn như thị.
Bài thơ này có lẽ được viết năm 1816 lúc Trịnh Hoài Ðức được bốn mươi hai
tuổi (“yểm tứ thập dư niên”) lúc ông mới được làm tổng trấn Gia Ðịnh (“ngã
hiệp biện trấn công”)
·THIỀN SƯ ÐẠO THÔNG
Ông họ Nguyễn pháp danh là Nguyên Quán, quê làng Long Thành, Gò Công, xuất
gia hồi mười lăm tuổi. Năm 1870, ông học đạo tại chùa Thiền Lâm với thiền
sư Vô Tri. Ba năm sau, ông tới học với thiền sư trú trì chùa Ân Tôn,
rồi tới chùa Trường Thọ, học với thiền sư Tâm Thanh và ở lại đây sáu năm.
Năm 1893, ông lại tới thôn Linh Chiểu Ðông và học đạo với thiền sư Huệ Lưu
trong hai năm. Sau đó, ông phát tâm trùng tu chùa Long Hoa. Chùa này được
dựng từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát bởi một vị thiền sư tên là Ông Ðạo
Nham, người làng Ðại Hội, tỉnh Quảng Nam, và đã được vua Gia Long sắc
phong.
·THIỀN SƯ GIÁC NGỘ
Ông tên Hứa Mật Sô, người huyện Ðồng Xuân, Tỉnh Phú Yên, xuất gia ở chùa
Bát Nhã trên núi Long Sơn thuộc làng Mỹ Phú, huyện Ðồng Xuân. Ông tu khổ
hạnh ở trong rừng, mặc áo đan bằng vỏ cây, lấy hai miếng gỗ làm guốc, vượt
núi qua sông một cách dễ dàng.
Năm 1839 vua Minh Mạng nghe tiếng thỉnh về kinh đô, mời ông làm trú trì
chùa Giác Hoàng và ban cho ông biệt hiệu Sơn Nhân Hòa Thượng. Năm 1842,
vua Thiệu Trị lại mời ông làm trú trì chùa Diệu Ðế. Sau đó, ông xin được
phép rút lui về núi. Không biết ông tịch ở đâu và vào năm nào.
·THIỀN SƯ CƯƠNG KỶ
Pháp danh thiền sư Cương Kỷ là Hải Thiệu, ông là đệ tử thiền sư Nhất Ðịnh,
được thỉnh chủ trì chùa Từ Hiếu, vân tập tăng chúng, làm cho Từ Hiếu trở
thành một vùng thịnh vượng. Ðệ tử xuất sắc nhất của ông là thiền sư Huệ
Pháp, chủ trì chùa Thiên Hưng, rất có công trong việc xiểng minh Phật giáo
ở thế kỷ thứ hai mươi. Một vị đệ tử lớn khác của ông là thiền sư Viên
Giác, người khai sơn chùa Ba La Mật. Ông có phát hai mươi lăm lời đại
nguyện, còn được khắc trên bai tháp tại chùa Từ Hiếu.
·THIỀN SƯ CHÍ THÀNH
Ông trú trì chùa Tam Thai tỉnh Quảng Nam, là thầy của thiền sư Ðạo Diệu.
·THIỀN SƯ DIỆU NGHIÊM
Trú trì chùa Từ Quang ở núi Ðá Trắng, Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, ông là tác
giả nhiều sách có giá trị, trong đó có: Sự Nghĩa Luật Yếu Lược, Sự
Nghĩa Quy Nguyên, Kinh Báo Ân. Những tác phẩm đó đã từng được khắc bản
lưu hành. Khánh Anh viết trong tạp chí Duy Tâm số 5 ra ngày
1.2.1936: “Phẩm Ưu Ba Ly {được ngài} chú giải {một cách} hiển vi ẩn xuất -
từ cổ chí kim chắc không ai hiểu nổi {phẩm ấy} nếu không nhờ Ngài chú
thích”. Thiền sư Diệu Nghiêm pháp danh là Pháp Chuyên, hiệu là Luật
Truyền.
·THIỀN SƯ VIÊN NGỘ
Năm 1808 Thích Viên Ngộ dựng chùa Lan Nhã và hành đạo tại làng Thanh Ba,
Gia Ðịnh. Ông tên là Nguyễn Chất người huyện Phước Lộc, xuất gia năm 1806,
đệ tử của hòa thượng chùa Vĩnh Quang, thường phát nguyện thực hành hạnh
của Bồ Tát Trì Ðịa, chuyên chặt gai dọn đường, đắp những con đường lầy lội
để cho dân chúng qua lại. Trong suốt mười năm, ông chỉ ngồi, không nằm,
suốt cả ngày đêm. Năm 1820 bệnh đậu phát ra vùng, ông trì chú tụng kinh và
nguyện không ăn cho đến khi bệnh hết hoành hành và dân chúng được bình
yên. Năm 1846 ông tuyệt thực và tuyệt thủy trong bốn mươi chín ngày rồi
tịch.
·THIỀN SƯ PHƯỚC AN
Ông tạo lập chùa Hưng Long ở làng An Ðiềm, huyện Bình Dương, Gia Ðịnh vào
năm 1794. Một người lính trong làng tên Yển đi quyên góp để giúp ông trong
việc tạo dựng chùa này. Ðến năm 1803, chùa được thiền sư Chính Niệm trùng
tu.
·THIỀN SƯ LIỄU TRIỆT
Ông tên Ðoàn Thiên Thu, người làng An Truyền quận Phú Vang, Thừa Thiên,
pháp hiệu là Từ Minh, xuất thân từ chùa Quốc Ân, sau khi thiền sư Từ Hòa ở
Quốc Ân viên tịch, ông được lập làm trú trì chùa Quốc Ân. Ba năm sau, tức
là năm 1852, ông từ chức, ra lập một thảo am ở làng Phú Xuân tên là Viên
Quang Ðường. Trong số các đệ tử của ông, có hoàng hậu Lệ Thiên, chánh cung
của vua Tự Ðức. Am Viên Quang sau này biến thành chùa Linh Quang mà thiền
sư Liễu Triệt là vị tổ khai sơn. Ông cũng đã từng kiêm nhiệm chức tăng
cương chùa Giác Hoàng. Ông mất năm 1882.
Làng An Truyền quê ông là nơi xuất phát cuộc biến động năm 1866 chống lại
vua Tự Ðức do ba anh em Ðoàn Trưng, Ðoàn Tư Trực và Ðoàn Hữu Ái cầm đầu.
Cuộc biến động này sau được gọi là “Giặc Chày Vôi” vì khí giới chống chính
quyên là những chiếc chày giã vôi. Ðể những công trình xây cất được kiên
cố, người ta lấy vôi, rơm rạ, đường đen và giây tơ hồng trộn lại, bỏ vào
cối, và giã nhuyễn ra thành một thức vôi hồ đặc biệt. Vua Tự Ðức tiêu phí
không biết bao nhiêu nhân lực và tiền bạc trong việc xây dựng lăng Tự Ðức
trong khi dân tình đói khổ, dân chúng oán hận. Vua lại tỏ ra bất lực trong
việc ngoại giao, quân sự, để mất thành Gia Ðịnh, tỉnh Ðịnh Tường, Biên Hòa
và Vĩnh Long vào tay Pháp. Hậu quả là cuộc nổi loạn nói trên, đêm mồng tám
tháng tám âm lịch, quần chúng cách mạng đã cầm chày vôi đập phá tới nội
cung, và vua Tự Ðức suýt nữa là bị giết. Nhưng quan chưởng vệ là Hồ Oai đã
dập tắt được cuộc nổi loạn, và những người cầm đầu đều bị án tử hình.
Trong thời gian họat động bí mật Ðoàn Trưng đã liên kết được một số các
chùa như chùa Long Quang và Pháp Vân. Những chùa này đã là nơi hội họp và
chất chưa “chày vôi”. Vị trú trì chùa Long Quang tên Nguyễn Văn Trí và rất
nhiều vị tăng rải rác các chùa ở kinh sư đã bị bắt vì có tội có liên lạc
và hợp tác với “giặc”. Tăng Ni bị bắt và hoàn tục gần hết. Sự trả thù của
vua Tự Ðức cũng nặng nề như một vụ đàn áp lớn. Kinh sư lúc ấy chỉ còn hai
mươi bốn ngôi chùa với hai mươi bốn vị tự trưởng mà thôi. Hoàng hậu Lệ
Thiên, dưới ảnh hưởng của thiền sư Liễu Triệt, đã khẩn khoản xin tha tội
chết cho các tăng ni liên hệ tới cuộc cách mạng.
·THIỀN SƯ HUYỀN KHÊ
Thiền sư Huyền Khê pháp danh Giác Linh là người Quảng Ðông. Theo Ðại
Nam Liệt Truyện Tiền Biên, ông thuộc đời 35 phái Lâm Tế. Thuở nhỏ, ông
đánh nhau lỡ tay giết mất một người, nên sau đó ông xin vào chùa xin xuất
gia hành đạo. Sau một thời gian tu hành, ông theo đường biển vào tới Ðông
Phố, làm một vị du tăng. Sau cùng ông ra Thuận Hóa tu ở chùa Pháp Vân (sau
đổi thành chùa Thiên Phước). Giới hạnh thanh tịnh, ông có rất nhiều đệ tử.
Nghe nói ông tinh thông võ nghệ, nhiều người tới xin thụ giáo, ông cũng
không từ chối.
CÁC PHỤ BẢN
1. Bà
Pháp Vân, tượng gỗ phủ sơn, chù Dâu (Diên Ứng tự), Thuận Thành, Bắc Ninh,
Hà Bắc, thế kỷ XVIII (Ảnh: Tố Như).
2. Minh
Hành thiền sư, tượng đồng, chùa Trạch Lâm, Thanh Hóa, thế kỷ XVIII (Ảnh:
Tố Như).
3. Toàn
cảnh chùa Thầy (Thiên Phúc tự) Sài Sơn, Sơn Tây, Hà Tây (Ảnh: Tố Như).
4. Nhóm
tượng Phật, đá, ở hang chùa Trầm, Sơn Tây, Hà Tây (Ảnh chụp lại: Tố Như).
5. Chuẩn
Ðề Quan Âm, tượng gỗ phủ sơn, chùa Hạ, ở Tam Dương, Vĩnh Yên, Vĩnh Phú,
thế kỷ XVI (Ảnh: Lê Cường).
6. Toàn
cảnh chùa Bụt Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành, Bắc Ninh, Hà Bắc (Ảnh:
Tố Như).
7. Phía
trước tòa Cửu phẩm chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành, Bắc Ninh, Hà
Bắc (Ảnh: Tố Như).
8. Ðài
Cửu phẩm liên hoa, gỗ phủ sơn, chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành,
Bắc Ninh, Hà Bắc (Ảnh: Tố Như).
9. Hình
trang trí trên đài Cửu phẩm liên hoa, chùa Bút Tháp (Ảnh: Tố Như).
10. Bồ tát Phổ
Hiền, tượng gỗ phủ sơn, chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành, Bắc
Ninh, Hà Bắc, 1647 (Ảnh: Tố Như).
11. Tháp Báo
Nghiêm, đá, thời thiền sư Chuyết Chuyết, chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự),
Thuận Thành, Bắc Ninh, Hà Bắc (Ảnh: Tố Như).
12. Tòa thiêu
hương, chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành, Bắc Ninh, Hà Bắc (Ảnh:
Tố Như).
13. Một bàn
thờ tại chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành, Bắc Ninh, Hà Bắc, 1647
(Ảnh: Tố Như).
14. Tượng
Chuẩn Ðề, gỗ phủ sơn chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), Thuận Thành, Bắc Ninh,
Hà Bắc, 1653 (Ảnh: Lê Cường).
15. Ấn của
chúa Nguyễn Phúc Chu cuối bài Tựa chúa viết ở đầu sách Hải Ngoại
Kỷ Sự.
16. Thiền sư
Chân Nguyên, theo nét vẽ của sách Kế Ðăng Lục do Như Sơn biên soạn
năm 1734.
17. Trang đầu
sách Thiền Tông Bản Hạnh của thiền sư Chân Nguyên do Ni Cô Diệu
Thuần in lại năm 1763.
18. Trang đầu
bài Tựa của thiền sư Tuệ Nguyên viết cho sách Thượng Sĩ Ngữ Lục
năm 1763.
19. Trang đầu
sách Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục, bản in năm 1859 do
thiền sư Phúc Ðiền thực hiện.
20. Gác chuông
chùa Keo (Thần Quang Tự), Thái Bình, thế kỷ XVIII (Ảnh: Lê Cường).
21. Rahulata
(vị tổ thứ 16), tượng gỗ phủ sơn, chùa Tây Phương, Thạch Thất, Sơn Tây, Hà
Tây, 1794 (Ảnh chụp lại: Tố Như).
22. Tháp Phước
Duyên, chùa Thiên Mụ, ngoại thành Huế, 1748 (Ảnh: Lê Cường).
23. Chùa Từ
Ðàm, ngoại thành Huế, thế kỷ XIX (Ảnh: Lê Cường).
24. Chùa Giác
Lâm, Gia Ðịnh, thế kỷ XIX (Ảnh: Võ Văn Tường).
25. Tranh thập
điện, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam,thế kỷ XIX (Ảnh: Tố Như).
26. Quan Âm
tọa sơn, phù điêu gỗ, Bảo tàng Hà Nội, thế kỷ XIX (Ảnh chụp lại: Tố Như).
BẢNG TÊN
A
An Dưỡng Am
An Lạc Tàng Viện
An Tâm Quốc Sư
An Thiền
An
Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh
Ân Thanh
Ẩn Không
Ấn Tông
B
Báo Nghiêm
Bảo Từ Hoàng Thái Hậu
Bát Nhã Trực Giải
Bất Quả Thanh
Bất Tác Bất Thực
Bích Nham Lục
Biểu Lý Thanh
Bình Ðẳng Sám Hối Khoa Văn
Bồ Sơn
C
Chính Trung Lai
Chính Trung Thiên
Chính Vị Tiền
Chân Lý Ðề Mật
Chân Nghiêm
Chân Nguyên
Chân Nguyên Trạm Tịch
Chiếu Khoan
Chính Ðại
Chính Giác
Chu Liêm Khê
Chúc Thánh
Chuyết Chuyết
Chuyết Công
Cương Kỷ
Cứu Sinh Thượng Sĩ
D
Di Ðà
Diệu Ðế
Diệu Giác
Diệu Nghiêm
Diệu Thiện
Diệu Tuệ
Du
Già Khoa Nghi
Dư Thanh
Ð
Ðà Ðà
Ðại Ðăng
Ðại Hương Hải Aán Thi Tập
Ðại Nam Thiền Uyển Truyền
Ðăng Tập Lục
Ðại Sán Hán Oâng
Ðại Than
Ðại Thánh Ðông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư
Ðại Thành Toán Pháp
Ðại Tuệ Ngữ Lục
Ðạo Giáo Nguyên Lưu
Ðạo Thông
Ðạt Hiên
Ðịnh Thanh
Ðoàn Trực
Ðoàn Trưng
Ðộ Ðiệp
Ðộng Sơn Lương Giới
Ðộng Thanh
G
Giác Hải
Giác Hoàng
Giác Lãng
Giác Ngộ
Giác Phong
Giác Vương Nội Viện
H
Hải Âu
Hải Hòa
Hải Lượng
Hải Ngoại Kỷ Sự
Hải Quýnh
Hải Thiệu
Hải Thuận
Hàm Long
Hàm Long Sơn Chí
Hàn Dũ
Hạnh Ðoan Thiền Sư
Hành Thanh
Hi Doãn
Hoa Nghiêm Thạch Ðộng
Hoa Nghiêm Vân Ðộng
Hoán Bích
Hộ
Pháp Kim Thang Thư
Hộ Quốc
Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư
Hồng Phúc
Huệ Hiền
Huệ Nguyên
Huệ Pháp
Huyền Cơ Thiện Giác
Hưng Liên
Hưng Long
Hưng Thiên Ngự
Hưng Tín
Hương Hải
Hưởng Thanh
K
Kế
Ðăng Lục
Khóa Hư Lục
Không Lộ
Không Thanh
Kiến Thanh
Kiến Văn Tiểu Lục
Kim Chương
Kim Cương Trực Sớ
Kim Liên
Kim Tiên
L
Lâm Tế
Lâm Tế Lục
Lân Giác
Lê Quý Ðôn
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
Liêm Khê Viện
Liên Phái
Liễu Quán
Liễu Thông
Liễu Triệt
Linh Cơ
Linh Hựu
Lĩnh Nam Chích Quái
Long Biên Thành Thị Ðại
Ẩn Sĩ
Long Ðộng
Lương Duyên {Lãng Duyên?}
Lương Thế Vinh
Lưu Ðộng Thanh
Ly Lục Ðường
Ly
Lục Ðường Tập
M
Mật Hoằng
Minh Châu Hương Hải
Minh Chính
Minh Hải Pháp Bảo
Minh Hải Phật Bảo
Minh Hành
Minh Hoàng
Minh Không
Minh Lương
Minh Nam
Minh Thanh
Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế
Ðại Ðức Thiền Sư
N
Nam Dược Thần Hiệu
Nam Tông Tự Pháp Ðồ
Ngô Gia Thế Phả
Ngô Thì Nhậm
Ngô Thì Sĩ
Ngộ Ðạo Nhân Duyên
Ngộ Thanh
Ngũ Ðăng Hội Nguyên
Ngũ Giới Quốc Âm
Ngũ Vị Quân Thần
Nguyên Thiều
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Minh Không
Nguyễn Phúc Chu
Nguyễn Phúc Chú
Nguyễn Phúc Trăn
Nguyệt Ðường
Nguyệt Quang
Nhất Cú Trí Giáo
Nhất Ðịnh
Như Hiện
Như Nguyệt
Như Như
Như Sơn
Như Thị
Như Trí
Như Trừng
Niệm Như Trang
Ninh Phúc
P
Phan Huy Chú
Phan Huy Ích
Phán Thanh
Pháp Hoa Ðề Cương
Pháp Hóa
Pháp Sự Ðạo Trường Công Văn Cách Thức
Phát Tưởng Thanh
Phân Dương
Phật Thuyết Dục Tượng Công Ðức
Phật Tích
Phổ Ðồng
Phổ Tịnh
Phổ Tính
Phù Vân Quốc Sư
Phúc Thịnh
Phụng Sơn
Phước An
Phương Trượng
Phương Viên
Q
Quốc Ân
Quỳnh Lâm
S
Siêu Loại
Sơn Nhân Hòa Thượng
Sơn Tự
Sùng Phúc
Sự
Lý Dung Thông
T
Tam Bảo Nô
Tam Giáo Thông Khảo
Tam Thai
Tam Tổ Hành Trạng
Tàng Thanh
Tính Thiên
Tào Ðộng
Tào Sơn Bản Tịch
Tăng Già Toái Sự
Tăng Thống Thuần Giác Hòa Thượng
Tâm Kinh Trực Giải
Tâm Quảng
Tâm Thể
Tâm Tịnh
Tâm Truyền
Tiêu Sơn
Thạch Liêm
Thạch Thất Mỵ Ngữ
Thanh Cừ
Thanh Ðàm
Thanh Nguyên
Thanh Nguyên Hành Tư
Thánh Duyên
Thánh Ðăng Lục
Thập Giới Cô Hồn Quốc Văn Ngữ
Thập Giới Quốc Âm
Thập Tháp
Thập Tháp Di Ðà
Thực Diệu
Thích Huệ Từ
Thích Pháp Lâm
Thiên Ấn
Thiên Mụ
Thiên Nam Dư Hạ Tập
Thiên Quang
Thiên Thọ
Thiên Trung Chính
Thiên Trung Chí
Thiên Tượng
Thiện Hội
Thiền Dật
Thiền Ðiển Thống Yếu Kế Ðăng Lục
Thiền Lâm
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
Thiền Lâm
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục
Thiền Môn Khoa Giáo
Thiền Tịch Phú
Thiền Tĩnh Viện
Thiền Tông
Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục
Thiền Uyển Tập Anh
Thông Biện
Thông Giác
Thông Vinh
Thu Thanh
Thủy Lục Chư Khoa
Thủy Nguyệt
Thuyết Thanh
Thực Hành
Thường Chiếu
Tịch Nhiên Vô Thanh
Tịch Truyền
Tiêm Bút La
Tiêu Sơn
Tinh Kim
Tịnh Nhân
Tính Quang
Tính Bản
Tính Dược
Tính Hiện
Tính Ngạn
Tính Như
Tính Phái
Tính Quảng
Tính Tĩnh
Tính Tuyền
Tông Diễn
Trình Minh Ðạo
Trình Y Xuyên
Trúc Lâm Ðiều Ngự
Trúc Lâm Hậu Lục
Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh
Trung Minh
Trùng San Thánh Ðăng Lục Tịnh Tuyển Phật Ðồ Tự
Truyền Ðăng Ngũ Quyển Tân Tự
Trương Hán Siêu
Trường Thọ
Túc Thanh
Tuệ Ðăng
Tuệ Nhãn
Tuệ Tĩnh
Từ Ðàm
Từ Ðạo Hạnh
Từ Hiếu
Từ Lâm
Từ Vinh
Tử Sầm
Tự Tính Di Ðà Thuyết
Tường Quang
U
Ứng Chân
Ứng Phó Dư Biên
V
Vân Phong
Vân Trai
Viên Cảnh
Viên Khoan
Viên Ngộ
Viên Quang
Viên Thông
Viên Văn
Việt Ðiện U Linh Tập
Việt Quốc An Tử Sơn Chư Thánh Ðăng
Ngữ Lục
Vĩnh Minh Diên Thọ
Vĩnh Phúc
Vô Thượng Công
X
Xuân Thu Quản Kiến
---o0o---
[ Mục
Lục tập II]
[
Chương XVII ] [
Chương XVIII ] [
Chương XIX ]
[
Chương XX ] [
Chương XXI ] [
Chương XXII ]
[
Chương XXIII ] [
Chương XXIV ] [
Chương XXV
]
---o0o---
[ Mục Lục ] [ Tập I ]
[
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Vi Tính:
Nguyên Trang
Cập
nhật: 01-02-2004