I. PHẨM TỪ
(I)(1) TỪ
1. Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú ở
Sàvavatthì, tại Jetavanna, khu vườn Ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế
Tôn".
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
2. - Với từ tâm giải thoát, này
các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được
làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích
tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích. Thế nào
là tám ?
3. Ngủ được an lạc, dậy được
an lạc, không thấy ác mộng, được người ái mộ, được phi nhân ái mộ,
được chư Thiên hộ trì, lửa hay thuốc độc hay kiếm không gia hại, nếu
không thông đạt thượng vị, đạt được Phạm Thiên giới. Với từ tâm
giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm
cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy
trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi
ích này.
Ai tu tập từ tâm
Vô lượng thường ức niệm
Các kiết sử yếu dần
Thấy được sanh y diệt
Với tâm không ác độc
Từ mẫn mọi chúng sanh
Do vậy, vị ấy thành
Bậc thuần nhất chí thiện
Với tâm ý từ mẫn
Đối với mọi chúng sanh
Bậc Thánh khéo thực hiện
Nhiều công đức tốt lành
Sau khi đã chinh phục
Rất đông đảo loài người
Các ẩn sĩ vua chúa
Theo nghi lễ tế tự
Lễ tế ngựa tế người
Lễ uống nước thắng trận
Lề ném cầu may rủi
Lễ rút lui khóa cửa
Không được phần mười sáu
Bậc khéo tu từ tâm
Như ánh sáng mặt trăng
Đối với các quần sao
Không giết, không bảo giết
Không thắng, không bảo thắng
Từ tâm mọi chúng sanh
Không hận thù với ai
(II)(2) TUỆ
1. - Này các Tỷ-kheo, có tám nhân
này, có tám duyên này, khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể
chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng,
tăng rộng, được tu tập, được viên mãn. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống dựa trên bậc Đạo sư hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ
sư, ở đây được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được
kính trọng. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất khiến
căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng được với trí tuệ,
nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập,
được viên mãn.
3. Vị ấy do sống dựa trên bậc
Đạo sư hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được
an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng, thường
đi đến họ hỏi đi hỏi lại : "Thưa Tôn giả, cái này là thế nào ?
Ý nghĩa cái này là gì ? " Các Tôn giả ấy mở rộng cái gì không được
mở rộng, phơi bày những gì không được phơi bày, và đối với những
pháp còn đang nghi vấn, họ giải tỏa những nghi vấn. Này các Tỷ-kheo, đây
là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được
có thể chứng được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến
tăng trưởng, tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
4. Vị ấy sau khi nghe pháp, cố gắng
thành tựu hai sự an tịnh : Thân an tịnh và tâm an tịnh. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ ba … được viên mãn.
5. Vị ấy có giới đức, sống chế
ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy
sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học
pháp. Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tư … được viên mãn.
6. Vị ấy nghe nhiều, thọ trì điều
đã nghe, chất chứa điều đã nghe ; những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện,
hậu thiện, nghĩa lý văn cú tự túc đề cao đời sống Phạm hạnh đầy
đủ thanh tịnh ; những pháp ấy, vị ất đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã
ghi nhớ tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thể nhập chánh kiến.
Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ năm … được viên mãn.
7. Vị ấy tinh cần tinh tấn, để
đoạn tận các pháp bất thiện, đề làm sanh khởi các pháp thiện, nỗ lực
kiên trì, không bỏ rơi gánh nặng đối với các pháp thiện. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ sáu… được viên mãn.
8. Vị ấy đi đến chư Tăng, không
là người nói nhiều, không nói chuyện phù phiếm, tự mình nói pháp hay mời
người khác nói, không khinh thường sự im lặng của bậc Thánh. Này các Tỷ-kheo,
đây là nhân thứ bảy … được viên mãn.
9. Vị ấy sống tùy quán sanh diệt
trong năm thù uẩn : "Đây là sắc, đây là sắc tập khởi ; đây là sắc
chấm dứt ; Đây là thọ, đây là thọ tập khởi ; đây là thọ chấm dứt
; đây là tưởng … đây là hành … Đây là thức, đây là thức tập khởi
; đây là thức chấm dứt". Này các Tỷ-kheo, đây là nhân thứ tám,
duyên thứ tám, khiến căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng
được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng,
tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
10. Các vị đồng Phạm hạnh quý mến
vị ấy như sau : " Tôn giả này sống nương tựa vào bậc Đạo sư hay
một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây được an trú
tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng. Thật vậy,
Tôn giả này biết điều đáng biết thấy điều đáng thấy". Đây là
pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đếm
Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
11. Tôn giả này sống nương tựa vào
bậc Đạo sư, hay bậc đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, ở đây
được an trú tàm quý một cách sắc sảo, được ái mộ, được kính trọng
… (như số 3 ở trên) … họ giải tỏa những nghi vấn ấy. Đây là pháp
đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn
hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
12. Tôn giả này sau khi nghe pháp (như
số 4 ở trên) … tâm an tịnh. Đây là pháp đưa đến được ái mộ, được
cung kính, được tu tập, đưa đếm Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
13. Tôn giả này có giới đức …
(như số 5 ở trên) … học tập trong các học pháp. Này các Tỷ-kheo, đây
là pháp … thuần nhất.
14. Tôn giả này nghe nhiều … (như
số 6) … khéo thành tựu chánh kiến. Đây là pháp … thuần nhất.
15. Tôn giả này sống tinh cần tinh
tấn … (như số 7 ở trên) … đối với các pháp thiện. Đây là pháp …
thuần nhất.
16. Tôn giả này đi đến Tăng chúng
… (như số 8 ở trên) … sự im lặng của bậc Thánh. Đây là pháp … thuần
nhất.
17. Tôn giả này sống tùy quán sanh
diệt trong năm thù uẩn… (như số 9 ở trên) … đây là thức chấm dứt,
đây là pháp đưa đến được ái mộ, được cung kính, được tu tập,
đưa đến Sa-môn hạnh, nhứt tâm thuần nhất.
Này các Tỷ-kheo, tám nhân này, tám
duyên này khiến cho căn bản Phạm hạnh chưa chứng được có thể chứng
được với trí tuệ, nếu chứng được thời đưa đến tăng trưởng,
tăng rộng, được tu tập, được viên mãn.
(III)(3) CÁC PHÁP KHÔNG ĐƯỢC ÁI MỘ
(1)
1. - Thành tựu tám pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý,
kính trọng và bắt chước. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tán thán những người không được ái mộ, chỉ trích những người được
ái mộ, ưa lợi dưỡng, ưa được cung kính, không có lòng xấu hổ, không
có sợ hãi, ác dục và có tà kiến.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tám ?
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không tán thán những người không được ái mộ, không chỉ trích những
người được ái mộ, không ưa lợi dưỡng, không ưa được cung kính, có
lòng xấu hổ, có sợ hãi, ít dục và có chánh kiến.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt
chước.
(IV) (4) CÁC PHÁP KHÔNG ĐƯỢC ÁI MỘ
(2)
1. - Thành tựu tám pháp này, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý,
kính trọng và bắt chước. Thế nào là tám ?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ưa lợi dưỡng, ưa cung kính, ưa được tán thán, không biết thời, không
biết vừa đủ, không trong sạch, nói nhiều, mắng nhiếc quở trách đối
với các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước.
3. Thành tựu tám pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng
và bắt chước. Thế nào là tám ?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
không ưa lợi dưỡng, không ưa cung kính, không ưa được tán thán, biết
thời, biết vừa đủ, trong sạch, không nói nhiều, không mắng nhiếc quở
trách đối với các đồng Phạm hạnh.
Thành tựu tám pháp này, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo được các đồng Phạm hạnh ái mộ, thích ý, kính trọng và bắt
chước.
(V詠(5)
TÙY CHUYỂN THẾ GIỚI (1)
1. - Tám pháp thế gian này, này các
Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế
gian này. Thế nào là tám ?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng,
danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán thán, lạc và khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo,
tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Chỉ trích và tán thán
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Được tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trấn cấu không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Đi đến bờ bên kia
(VI)(6) TÙY CHUYỂN THẾ GIỚI (2)
1.- Tám thế gian pháp này, này các
Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế
gian này. Thế nào là tám ?
2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng,
danh vọng và không danh vọng, chỉ trích và tán thán, an lạc và đau khổ.
Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo,
tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
3. Với kẻ phàm phu không nghe pháp,
này các Tỷ-kheo, sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, chỉ trích,
tán thán, an lạc, đau khổ. Với vị Thánh đệ tử nghe pháp, cũng sanh ra lợi
dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, chỉ trích, tán thán, an lạc, đau khổ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có đặc
thù gì, thù thắng gì, có sai khác gì giữa vị Thánh có nghe pháp và kẻ
phàm phu có không nghe pháp ?
- Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế
Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương
tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói
này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng
nghe và suy niệm kỹ, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế
Tôn. Thế tôn nói như sau :
4. - Với kẻ phàm phu không nghe
pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy không có suy tư :
"Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, biến
hoại". Vị ấy không như thật rõ biết … khởi lên không lợi dưỡng
… khởi lên danh vọng … khởi lên không danh vọng … khởi lên chỉ
trích … khởi lên tán thán … khởi lên an lạc … khởi lên khổ đau. Vị
ấy không có suy tư : "Khổ này khởi lên nơi ta, khổ ấy là vô thường
khổ, biến hoại". Vị ấy không như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng
xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không lợi dưỡng xâm nhập tâm của
người ấy và an trú, danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú,
không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, tán thán xâm nhập tâm của người ấy và
an trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập
tâm của người ấy và an trú". Người ấy thuận ứng với lợi dưỡng
được khởi lên và nghịch ứng với không lợi dưỡng ; thuận ứng với
danh vọng được khởi lên và nghịch ứng với không danh vọng ; thuận ứng
với tán thán được khởi lên và nghịch ứng với chỉ trích ; thuận ứng
với an lạc được khởi lên và nghịch ứng với đau khổ ; Người ấy đầy
đủ thuận ứng, nghịch ứng như vậy, không có giải thoát khỏi sanh,
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, người ấy không thoát khỏi
khổ.
5. Với vị Thánh đệ tử có nghe
pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng. Vị ấy có suy tư : "Lợi
dưỡng này khởi lên nơi ta, lợi dưỡng ấy vô thường, biến hoại".
Vị ấy như thật rõ biết … khởi lên không lợi dưỡng … khởi lên
danh vọng … khởi lên không danh vọng … khởi lên chỉ trích … khởi
lên tán thán … khởi lên an lạc … khởi lên khổ đau. Vị ấy có suy tư
: "Khổ này khởi lên nơi ta, khổ ấy là vô thường khổ, biến hoại".
Vị ấy như thật rõ biết, rằng lợi dưỡng này không xâm nhập tâm của
vị ấy và an trú, lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú,
danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và
an trú, tán thán xâm nhập tâm của người ấy và an trú, an lạc xâm nhập
tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập tâm của người ấy và
an trú". Người ấy không thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên
và không nghịch ứng với không lợi dưỡng ; không thuận ứng với danh vọng
được khởi lên và không nghịch ứng với không danh vọng ; không thuận
ứng với tán thán được khởi lên và không nghịch ứng với chỉ trích ;
không thuận ứng với an lạc được khởi lên và không nghịch ứng với
đau khổ ; Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, nên giải
thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, vị ấy
thoát khỏi khổ.
Đây là đặc thù, này các Tỷ-kheo,
đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp
và kẻ phàm phu không nghe pháp.
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Chỉ trích và tán thán
An lạc và đau khổ
Những pháp này vô thường
Không thường hằng biến diệt
Biết chúng giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Được tiêu tan không còn
Sau khi biết con đường
Không trấn cấu không sầu
Chơn chánh biết sanh hữu
Đi đến bờ bên kia
(VII)(7) DEVADATTA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Ràjagaha (Vương Xá) trên núi Gijjhakùta (Linh Thứu) sau khi Devadatta bỏ đi không
bao lâu. Tại đấy, nhân việc Devadatta, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự vi phạm của mình. Lành thay, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thường thường quan sát sự vi phạm của người khác. Lành thay,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt của mình.
Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự chứng đạt
của người khác. Do bị tám phi diệu pháp chinh phục, tâm bị xâm chiếm,
này các Tỷ-kheo, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy
cả một kiếp, không được cứu khỏi. Thế nào là tám ?
3. Này các Tỷ-kheo, bị lợi dưỡng
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, Devadatta bị sanh vào đọa xứ, địa ngục
sống tại đấy cả một kiếp, không được cứu khỏi. Này các Tỷ-kheo,
không bị lợi dưỡng chinh phục, … bị danh vọng chinh phục … bị không
danh vọng chinh phục … bị cung kính chinh phục … bị không cung kính chinh
phục… bị ác dục chinh phục … bị ác bằng hữu chinh phục, tâm bị
xâm chiếm, Devadatta bị rơi vào đọa xứ, địa ngục, sống tại đấy cả
một kiếp, không được cứu khỏi.
4. Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi … không lợi dưỡng được
sanh khởi … danh vọng được sanh khởi … không danh vọng được sanh khởi
… cung kính được sanh khởi … không cung kính được ác dục được sanh
khởi … ác bằng hữu được sanh khởi … Và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do
duyên mục đích gì cần phải sống chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi
… ?
Này các Tỷ-kheo, do sống không
chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên, các lậu hoặc tổn hại nhiệt
não sanh khởi. Do sống chinh phục, lợi dưỡng được khởi lên, các lậu
hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do sống
không chinh phục không lợi dưỡng được khởi lên, … danh vọng được
khởi lên … cung kính được khởi lên … không cung kính được khởi lên
… ác dục được khởi lên … ác bằng hữu được khởi lên, các lậu
hoặc hại nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục ác bằng hữu khởi
lên, như vậy các lậu hoặc tổn hại nhiệt não ấy không có mặt. Này
các Tỷ-kheo, do duyên mục đích này, Tỷ-kheo sống chinh phục, lợi dưỡng
được khởi lên, … danh vọng được khởi lên … cung kính được khởi
lên … không cung kính được khởi lên … ác dục được khởi lên … ác
bằng hữu được khởi lên. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập như sau :
5. "Ta sẽ sống chinh phục lợi
dưỡng được khởi lên … không lợi dưỡng được khởi lên … danh vọng
được khởi lên … không danh vọng được khởi lên … cung kính được
khởi lên … không cung kính được khởi lên … ác dục được khởi lên
… ác bằng hữu được khởi lên". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy
cần phải học tập.
(VIII) (8) TÔN GIẢ UTTARA
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà. Lúc bấy giờ, Tôn giả
Uttara bảo các Tỷ-kheo …
2. Lành thay, này chư hiền, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự vi phạm của mình. Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo
thường thường quan sát sự vi phạm của người khác. Lành thay, này chư
Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành đạt của mình. Lành
thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát sự thành đạt của
người khác.
3. Lúc bấy giờ, đại vương
Vessavana đang đi từ phương Bắc đến phương nam, vì một vài công việc,
đại vương Vessavana nghe Tôn giả Uttara trú ở Mahisavatth, trên núi
Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp như vậy cho các Tỷ-kheo, :
"Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường quan sát … sự
thành đạt của người khác".
4. Rồi đại vương Vessavana như
người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi
ra, cũng vậy biến mất ở Mahisavatthu, trên núi Sankheyyaka, ở Dhavajàlikà
và hiện ra trước mặt chư Thiên ở cõi Ba mươi ba. Rồi đại vương
Vessavana đi đến Thiên chủ Sakka ; sau khi đến nói với Thiên chủ Sakka :
- Ngài có biết chăng tham gia Uttara
tại Mahisavatthu, trên núi trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà thuyết pháp
cho các Tỷ-kheo như sau : "Lành thay, này chư Hiền, Tỷ-kheo thường thường
quan sát … sự thành đạt của người khác".
5. Rồi Thiên chủ Sakka như người
lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy
biến mất trước chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở Mahisavatthu, trên
núi trên núi Sankheyyaka, tại Dhavajàlikà, trước mặt Tôn giả Uttara. Rồi
Thiên chủ Sakka đi đến Tôn giả Uttara ; sau khi đến đảnh lễ tôn giả
Uttara rồi đứng một bên. Đứng một bên, Thiên chủ Sakka nói với Tôn giả
Uttara :
- Thưa Tôn giả, đây là Tôn giả
Uttara tự nói hay là lời của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ?
6. - Vậy này Thiên chủ, ta sẽ làm
một ví dụ cho người. nhờ ví dụ ở đây, một số những người có
trí hiểu rõ ý nghĩa của lời nói. Ví như, này Thiên chủ, có một đống
lúa lớn không xa làng, hay thị trấn, và quần chúng từ nơi đống lúa ấy
mang lúa đi, hoặc trên đòn gánh, hoặc trong thùng, hoặc bên hông, hoặc với
bàn tay. Này Thiên chủ, nếu có ai đến đám quần chúng ấy và hỏi như
sau : "Các người mang lúa này từ đâu ? " Này Thiên chủ, đám quần
chúng ấy phải đáp như thế nào để có thể đáp một cách chơn chánh ?
- Thưa Tôn giả, đám quần chúng
ấy muốn đáp một cách chơn chánh, cần phải đáp như sau : "Thưa Tôn
giả, chúng tôi mang lúa từ nơi đống lúa lớn này".
Cũng vậy, này Thiên chủng, điều
gì khéo nói, tất cả là lời nói của Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Chánh Giác. Dựa trên lời ấy, dựa lên trên ấy, chúng tôi và các
người khác nói lên.
7. Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả
! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả ! Thật là khéo nói là lời nói này của
Tôn giả Uttara : "Tất cả là lời nói của Thế Tôn ấy, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác. Dựa trên lời ấy, dựa lên trên ấy,
chúng tôi và các người khác nói lên ". Một thời, thưa Tôn giả
Uttara, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá) tại núi Gijjhakùta, sau khi
Devadatta bỏ đi không bao lâu. Tại đấy, Thế Tôn nhân việc Devadatta, bảo
các Tỷ-kheo :
Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
thường thường quan sát … sự vi phạm của mình … (xem 7, 2) … sống tại
đấy cả một kiếp, không thể cứu khỏi.
"Lành thay, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
sống có thể chinh phục lợi dưỡng được sanh khởi, … không lợi dưỡng
được sanh khởi … danh vọng được sanh khởi … không danh vọng được
sanh khởi … cung kính được sanh khởi … không cung kính được sanh khởi
… ác dục được sanh khởi … ác bằng hữu được sanh khởi … "
8. "và này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
do duyên mục đích gì phải sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên
? Này các Tỷ-kheo, do sống không chinh phục lợi dưỡng được khởi lên,
các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt não sanh khởi. Do sống chinh phục lợi
dưỡng được khởi lên, như vậy, các lậu hoặc, các tổn hại, nhiệt
não không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do sống chinh phục không lợi dưỡng
được khởi lên … danh vọng được khởi lên … không danh vọng được
khởi lên …cung kính được khởi lên … không cung kính được khởi lên
… ác dục được khởi lên … ác bằng hữu được khởi lên, các lậu
hoặc, các tổn hại, nhiệt não khởi lên, như vậy các lậu hoặc, các tổn
hại, nhiệt não ấy không có mặt. Này các Tỷ-kheo, do duyên mục đích
này, Tỷ-kheo phải sống chinh phục lợi dưỡng được khởi lên … không
lợi dưỡng được khởi lên … danh vọng được khởi lên … không danh vọng
được khởi lên …cung kính được khởi lên … không cung kính được khởi
lên … ác dục được khởi lên … ác bằng hữu được khởi lên. Do vậy,
này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập như sau :
9. Ta sẽ sống chinh phục lợi dưỡng
được khởi lên … không lợi dưỡng được khởi lên … danh vọng được
khởi lên … không danh vọng được khởi lên … cung kính được khởi lên
… không cung kính được khởi lên … ác dục được khởi lên … ác bằng
hữu được khởi lên". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải
học tập.
10. Cho đến, thưa Tôn giả Uttara,
trong bốn hội chúng giữa loài người : Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-Niganthà, nam cư
sĩ, nữ cư sĩ, pháp môn này không được một ai thiết lập. Thưa Tôn giả,
Tôn giả Uttara hãy học thuộc lòng pháp môn này. Thưa Tôn giả, Tôn giả
Uttara hãy thọ trì pháp môn này. Thưa Tôn giả, pháp môn này liên hệ đến
mục đích, là căn bản Phạm hạnh.
(XI) (9) TÔN GIẢ NANDA
1. - Này các Tỷ-kheo, nói mộ cách
chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau : "Là Thiện nam tử". Này
các Tỷ-kheo, nói mộ cách chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau : "Là
vị có sức mạnh". Này các Tỷ-kheo, nói mộ cách chơn chánh về Nanda,
có thể nói như sau : "Là vị có tịnh tín". Này các Tỷ-kheo, nói
mộ cách chơn chánh về Nanda, có thể nói như sau : "Là vị có ái dục
sắc bén".
Ai khác ngoài Nanda, này các Tỷ-kheo,
thành tựu chế ngự các căn, biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh
giác, chánh niệm tỉnh giác ? Nhờ vậy, Nanda có thể hành Phạm hạnh đầy
đủ thanh tịnh.
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là sự chế ngự
các căn của Nanda. Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải
nhìn về phương Đông, tập trung tất cả tâm, Nanda nhìn về hướng Đông
và suy nghĩ : "Như vậy, khi Ta đang nhìn về hường Đông, thời tham,
ưu, các ác bất thiện pháp sẽ không có xâm nhập". Như vậy, vị ấy
tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, nếu Nanda phải nhìn về phương Tây … nhìn về
phương Bắc … về phương Nam … ngước nhìn lên Trên … cúi nhìn về phương
Dưới … hay nhìn về hướng giữa các phương chính, tập trung tất cả
tâm, Nanda nhìn về hướng giữa các phương chính và suy nghĩ : "Như vậy,
khi ta đang nhìn về hướng giữa các phương chính, thời tham, ưu, các ác bất
thiện pháp sẽ không có xâm nhập ". Như vậy, ở đây, vị ấy tỉnh
giác.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda
chế ngự các căn.
3. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda tiết độ trong
ăn uống. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda với
chánh tư duy thọ dụng các món ăn, không phải để vui đùa, không phải để
đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà
chỉ để thân này được an trú và được bảo dưỡng, để thân này khỏi
bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng : "Như vậy chúng
ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới,
và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Nanda
tiết độ trong ăn uống.
4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda
chú tâm cảnh giác.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda ban
ngày đi kinh hành hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp
chướng ngại. Ban đêm canh một đi kinh hành, hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch
tâm tư khỏi các pháp chướng ngại. Ban đêm, canh giữa, Nanda nằm dáng con
sư tử, bên hông tay phải, một chân đặt trên chân kia, chánh niệm tỉnh
giác, tâm nghĩ đến thức dậy lại. Ban đêm, canh cuối thức dậy, đi kinh
hành hay trong khi ngồi, Nanda tẩy sạch tâm tư khỏi các pháp chướng ngại.
Này các Tỷ-kheo, như vậy Nanda chú
tâm cảnh giác.
5. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda
chánh niệm tỉnh giác.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Nanda rõ
biết khi các thọ khởi lên, rõ biết khi các thọ an trú, rõ biết khi các
thọ chấm dứt … rõ biết khi các tưởng … rõ biết khi các tầm nổi
lên, rõ biết khi các tầm an trú, rõ biết khi các tầm chấm dứt.
Này các Tỷ-kheo, đây là Nanda
chánh niệm tỉnh giác.
Này các Tỷ-kheo, ai khác ngoài
Nanda, này các Tỷ-kheo, thành tựu chế ngự các căn, biết tiết độ trong
ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác ? Nhờ vậy, Nanda có thể
hành Phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
(X) (10) CÁC ĐỒ RÁC
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Campà, trên bờ hồ Gaggarà. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo buộc tội một Tỷ-kheo
phạm tội. Vị ấy bị các Tỷ-kheo buộc tội, tránh né vấn đề với một
vấn đề khác, hướng câu chuyện ra ngoài, và hiện tướng phẫn nộ, sân
hận và bất mãn. Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo :
2. - Này các Tỷ-kheo, hãy đuổi
người này ra ! Này các Tỷ-kheo, hãy tân xuất người này ra ! Này các Tỷ-kheo,
người này đáng bị khai trừ.
Sao để con cháu người khác làm
phiền nhiễu các Ông ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, khi nào một người đi
ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi tay, mang y sanghàti, bát và
y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác, cho đến không các Tỷ-kheo
không thấy phạm tội. Nhưng khi các Tỷ-kheo thấy phạm tội, họ biết người
này là như sau : "Người này là Sa-môn ô uế, họ là Sa-môn rơm rạ, là
Sa-môn rác rưởi. Khi biết như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì sao
? Chớ để cho người ấy làm ô uế các Sa-môn hiền thiện khác.
3. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một
ruộng lúa mì đã đầy đủ cây lúa mì ô nhiễm, cây lúa mì rơm rạ, cây
lúa mì rác rưởi được mọc lên với rễ như vậy, giống như các cây
lúa mì hiền thiện khác. Với cành lá như vậy, giống như những cây lúa
mì hiền thiện khác ; Với lá là như vậy, giống như những cây lúa mì hiền
thiện khác, cho đến khi nào đầu ngọn lúa chưa mọc ra. Khi đầu ngọn lúa
mọc ra, họ biết : "Đây là cây lúa mì hoang, đây là cây lúa mì rơm
rạ, cây lúa mì rác rưởi". Sau khi biết như vậy, họ nhổ cây lúa
mì ấy lên, luôn cả rễ, và quăng cây lúa mì ấy ra khỏi ruộng lúa. Vì
cớ sao ? Họ nói : "Đừng để cho cây lúa mì làm uế nhiễm các cây
lúa mì hiền thiện khác".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi
tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác,
cho đến không các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các
Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được : "Người này
là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm, Sa-môn rác". Sau khi biết người ấy là
như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao ? "Chớ để cho
người ấy làm uế nhiễm các Sa-môn hiền thiện khác ".
4. Ví như, này các Tỷ-kheo, khi một
đống lúa lớn đang được sàng quạt, tại đấy, các hột lúa nào chắc
cứng, có hạt, chúng được chất thành đống một bên ; còn những hạt
lúa nào yếu kém, chỉ là rơm, thời được gió thổi tạt qua một bên,
và người chủ, với cây chổi, quét chúng còn xa hơn nữa. Vì cớ sao ?
"Chớ để cho lúa ấy làm uế nhiễm các hạt lúa hiền thiện khác
".
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi
tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác,
cho đến không các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các
Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được : "Người này
là Sa-môn ô uế, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi". Sau khi biết người
ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao ? "Chớ để
cho người ấy làm uế nhiễm các Sa-môn hiền thiện khác ".
5. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
cần một số ống nước, lấy một cây búa sắc bén và đi vào rừng, và
với cán cây búa ấy, gõ vào thân cây này hay thân cây khác. Ở đây, những
cây nào chắc cứng, có lõi, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội
được tròn cứng. Còn những cây nào ở giữa bị mục nát, không có lõi
(đầy ứ bất tịnh) nhơ bẩn, khi được cán búa gõ vào, tiếng vang dội
lép xẹp. Người ấy chặt cây ấy, gốc ấy ; sau khi chặt gốc, người
ấy chặt ngọn ; sau khi chặt ngọn, người ấy rửa phía trong của cây cho
thật sạch ; khi rửa phía trong cho thật sạch rồi, người ấy nối liền
các ống ấy lại.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây,
khi nào một người đi ra, đi vào, nhìn lên, nhìn xung quanh, co tay, duỗi
tay, mang y sanghàti, bát và y, như vậy, như các Tỷ-kheo hiền thiện khác,
cho đến không các Tỷ-kheo không thấy người ấy phạm tội. Nhưng khi các
Tỷ-kheo thấy người ấy phạm tội, họ biết được : "Người này
là Sa-môn giả hiệu, Sa-môn rơm rạ, Sa-môn rác rưởi". Sau khi biết
người ấy là như vậy, họ đuổi người ấy ra ngoài. Vì cớ sao ?
"Chớ để cho người ấy làm uế nhiễm các Sa-môn hiền thiện khác
".
Thầy có thể biết được
Người này Thầy chung sống
Ái dục và phẫn nộ
Dèm pha và ngoan cố
Não hại và tật đố
Xan tham và man trá
Nói nhu hòa giữa người
Nói như lời Sa-môn
Che giấu, làm việc ác
Ác kiến, thiếu kính trọng
Quanh co và nói láo
Biết vậy, người làm gì ?
Tất cả phải đồng tình
Cùng tránh né người ấy
Hãy tẩn xuất rơm rác
Hãy tống cổ uế trược
Từ nay hãy đuổi xa
Kẻ nói nhiều vô ích
Không phải là Sa-môn
Nhưng hiện tướng Sa-môn
Tẩn xuất kẻ ác dục
Ác hạnh, ác uy nghi
Sống với người thanh tịnh
Sống trong sạch chánh niệm
Hòa hợp biết khôn khéo
Hãy chấm dứt khổ đau
*
* *