- CHƯƠNG SÁU
- SÁU PHÁP
III.
PHẨM TRÊN TẤT CẢ
(I)
(21) TẠI SÀMAGÀMA
1. Một thời, Thế Tôn
trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Sàmagàma, gần hồ sen. Rồi
một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù
thắng chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Thế Tôn ; sau khi
đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên,
vị Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn :
- Có ba pháp này,
bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa. Thế nào là ba
? Ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích ngủ
nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa.
Vị Thiên nhân ấy nói
như vậy. Bậc Đạo Sư chấp nhận. Vị Thiên nhân ấy, với
ý nghĩ : "Bậc Đạo Sư đã chấp nhận ta", đảnh
lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất
tại chỗ.
2. Rồi Thế Tôn, sau
khi đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo, đêm
nay, một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc
thù thắng chói sáng toàn vùng hồ sen, đi đến Ta ; sau khi đến,
vị ấy đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Đứng một bên,
Thiên nhân ấy nói với Ta : "Bạch Thế Tôn, có ba pháp này,
bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa. Thế nào là ba
? Ưa thích công việc, ưa thích nói chuyện, ưa thích ngủ
nghỉ. Ba pháp này, bạch Thế Tôn, đưa đến Tỷ-kheo thối đọa".
Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy. Nói như vậy
xong, vị ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi
biến mất tại chỗ. Này các Tỷ-kheo, thật không được gì
cho các Thầy, thật không khéo được gì cho các Thầy, vì
rằng các Thiên nhân ấy biết được các pháp dắt dẫn các
Thầy thối đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, Ta
sẽ giảng ba pháp khác đưa đến thối đọa, hãy lắng nghe và
suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch
Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
3. - Này các Tỷ-kheo,
thế nào là ba pháp đưa đến thối đọa ? Ưa hội chúng, ác
ngôn, ác bạn hữu. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo đưa đến
thối đọa.
4. Này các Tỷ-kheo,
những ai trong quá khứ đã thối đọa trong các thiện pháp. Này
các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai sẽ bị thối đọa trong
các thiện pháp, tất cả đều vì sáu pháp này, sẽ bị
thối đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai
trong hiện tại bị thối đọa trong các thiện pháp, tất cả
đều vì sáu pháp này, bị thối đọa trong các thiện pháp.
(II)
(22) KHÔNG THỐI ĐỌA
1. - Này các Tỷ-kheo,
có sáu pháp không thối đọa này, Ta sẽ thuyết, hãy lắng
nghe.
2. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là sáu pháp không thối đọa ?
Không ưa công việc,
không ưa nói chuyện, không ưa ngủ nghỉ, không ưa hội chúng,
thiện ngôn, thiện bạn hữu.
Này các Tỷ-kheo, có sáu
pháp không thối đọa này.
3. Này các Tỷ-kheo,
những ai trong thời quá khứ không bị thối đọa, trong các
thiện pháp, tất cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối
đọa trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong
thời vị lai sẽ không bị thối đọa trong các thiện pháp,
tất cả đều nhờ sáu pháp này, sẽ không bị thối đọa
trong các thiện pháp. Này các Tỷ-kheo, những ai trong thời
hiện tại không bị thối đọa trong các thiện pháp, tất
cả đều nhờ sáu pháp này, không bị thối đọa trong các
thiện pháp.
(III)
(23) SỢ HÃI
1. - Sợ hãi, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Khổ, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghiệp với các dục. Bệnh, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Cục bướu, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Cục bướu, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Tham dính, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Bùn lầy, này các
Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
2. Và này các
Tỷ-kheo, vì sao sợ hãi là đồng nghĩa với các dục ?
Này các Tỷ-kheo, say
đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các tham ước muốn,
ngay trong hiện tại không thoát khỏi sợ hãi, đời sau cũng
không thoát khỏi sợ hãi. Do vậy, sợ hãi là đồng nghĩa
với các dục.
3. Này các Tỷ-kheo, vì
sao khổ... bệnh... cục bướu... tham dính... bùn lầy là đồng
nghĩa với các dục ?
Này các Tỷ-kheo, say
đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi tham dục, ngay trong
hiện tại không thoát khỏi bùn lầy, đời sau cũng không thoát
khỏi bùn lầy. Do vậy bùn lầy là đồng nghĩa với các
dục.
Sợ
hãi và khổ đau,
Bệnh
hoạn và cục bướu,
Cả
hai tham dính bùn,
Được
gọi là các dục,
Tại
đấy kẻ phàm phu,
Tham
đắm và chấp trước,
Thấy
sợ trong chấp thủ,
Nguồn
gốc của tử sanh,
Không
chấp thủ, giải thoát,
Đoạn
tận được sanh tử,
Chúng
đạt được an ổn,
Được
hiện tại tịnh lạc,
Vượt
sợ hãi oán thù,
Mọi
đau khổ vượt qua.
(IV)
(24) NÚI TUYẾT SƠN
1. - Thành tựu sáu pháp,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ vua núi Tuyết sơn,
còn nói gì vô minh hạ liệt. Thế nào là sáu ?
2. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thiện xảo nhập được Thiền định,
thiện xảo trú được Thiền định, thiện xao xuất khỏi
Thiền định, thiện xảo trong sự an lạc Thiền định,
thiện xảo trong cảnh giới Thiền định, thiện xảo trong
sự dẫn khởi đến Thiền định.
Thành tựu sáu pháp này,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể phá vỡ vua núi Tuyết sơn,
còn nói gì vô minh hạ liệt.
(V)
(25) TÙY NIỆM XỨ
1. - Này các Tỷ-kheo,
có sáu Tùy niệm xứ này. Thế nào là sáu ?
2. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai : "Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán... Phật, Thế Tôn". Khi nào, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không
bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị
si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi,
giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này các Tỷ-kheo, là đồng
nghĩa với năm dục trương dưỡng. Do lấy cái này làm đối
tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình
được thanh tịnh.
3. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Pháp : "Pháp được
Thế Tôn khéo thuyết... được người trí tự mình giác
hiểu". Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy
niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, trong khi
ấy, tâm được chánh trực... các loài hữu tình được thanh
tịnh.
4. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm Tăng : "Diệu hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn... là ruộng phước vô thượng ở đời".
Khi nào, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử niệm Tăng... các loài
hữu tình được thanh tịnh.
5. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm giới : "Giới không bị
bể vụn... đưa đến Thiền định". Khi nào, này các
Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử tùy niệm giới, trong khi ấy tâm
không bị tham chi phối... các loài hữu tình được thanh
tịnh.
6. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình tùy niệm thí của mình :
"Thật là được lợi cho ta ! Thật là khéo được lợi
cho ta... trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối... các loài
hữu tình được thanh tịnh".
7. Lại nữa, này các
Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Thiên : "Có bốn Thiên vương,
có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yàma, có chư
Thiên Tusità (Đâu-suất), có chư Thiên Hóa Lạc Thiên, có chư
Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên
cao hơn nữa. Đầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy,
sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như
vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Đầy đủ với giới, với
nghe pháp, với thí, với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi
chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng
có đầy đủ ở nơi ta". Khi vị ấy niệm tín, giới,
nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong
khi ấy, tâm không bị tham, chi phối, tâm không bị sân chi
phối, tâm không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm vị ấy
được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
Tham, này các Tỷ-kheo là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
Do lấy cái này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây,
một số các loài hữu tình được thanh tịnh.
Này các Tỷ-kheo, đây
là sau Tùy niệm xứ.
(VI)
(26) KACCÀNA
1. Tại đấy, Tôn
giả Mahàkaccàna gọi các Tỷ-kheo :
- Chư Hiền giả
Tỷ-kheo !
- Thưa vâng, Hiền
giả.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Tôn giả Mahàkaccàna. Tôn giả Mahàkaccàna nói như sau :
2. - Thật vi diệu
thay, chư Hiền giả ! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả ! Thế
Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị
trói buộc, nhờ vậy, các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt
khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ. Thế nào là
sáu ?
3. Ở đây, này các
Hiền giả, Thánh đệ tử niệm Như Lai : "Đây là Thế Tôn,
bậc A-la-hán... Phật, niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không
bị tham chi phối, tâm không bị sân hận chi phối, tâm không
bị si phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi,
giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa
với năm dục trưởng dưỡng. Thánh đệ tử ấy, này chư
Hiền, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư
không, rộng lớn quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một
số loài hữu tình được thanh tịnh.
4. Lại nữa, này chư
Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Pháp : "Pháp được Thế Tôn
khéo thuyết... được các người có trí tự mình giác
hiểu". Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Pháp,
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham
chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si phối,
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát,
xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm
dục trưởng dưỡng. Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời,
sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng
đại, vô lượng, không hận, không sân. Này chư Hiền, lấy cái
này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được
thanh tịnh.
5-8. Lại nữa, này chư
Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Tăng : "Diệu hạnh là chúng
đệ tử Thế Tôn... là ruộng phước vô thượng ở đời...
niệm các giới... niệm thí... niệm chư Thiên..." Thánh đệ
tử, này chư Hiền, trong khi niệm chư Thiên, trong khi ấy, tâm
không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không
bị si chi phối, trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra
khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham. Tham, này chư Hiền, là đồng
nghĩa với các dục trương dưỡng. Thánh đệ tử ấy, trong
tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không,
rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân. Này
chư Hiền, lấy tư tưởng này làm đối tượng, ở đây,
một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Thật vi diệu thay, này
chư Hiền ! Thật hy hữu thay, này chư Hiền, Thế Tôn, bậc Trí
giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đã
chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói
buộc, nhờ vậy các loài hữu tình được thanh tịnh vượt
khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý,
chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ.
(VII)
(27) CÁC THỜI GIAN (1)
1. Rồi một Tỷ-kheo
đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi
ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy
bạch Thế Tôn :
- Có bao nhiêu thời
gian để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý ?
2. - Có sáu thời gian,
này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu
tập về ý. Thế nào là sáu ?
3. Ở đây, này
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị dục tham chi
phối, bị dục tham ám ảnh, vị ấy không như thật rõ biết
dục tham đang khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau :
"Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục tham chi
phối, bị dục tham ám ảnh, tôi không như thật rõ biết
xuất ly khỏi dục tham. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp
cho tôi để đoạn tận dục tham". Và Tỷ-kheo đã được
tu tập về ý thuyết pháp để đoạn tham. Này Tỷ-kheo, đây
là thời thứ nhất để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được
tu tập về ý.
4. Lại nữa, này
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị sân chi phối,
bị sân ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân
được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được
tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau : "Thưa
Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục sân chi phối, bị
dục sân ám ảnh, tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi
sân. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn
tận sân". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp
để đoạn sân. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ hai để đi
đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
5-7. Lại nữa, này
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị hôn trầm thụy
miên chi phối, bị hôn trầm thụy miên ám ảnh... bị trạo
hối chi phối, bị trạo hối ám ảnh... bị nghi chi phối,
bị nghi ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi nghi
được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến, Tỷ-kheo đã được
tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau : "Thưa
Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục nghi chi phối, bị tâm
bị nghi ám ảnh. Tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi
nghi. Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn
tận nghi". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp
để đoạn tận nghi. Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ năm để
đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
8. Lại nữa, này
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo y cứ nơi tướng nào, do tác ý tướng
ấy, các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn,
vị ấy không biết, không thấy tướng ấy, trong khi ấy, sau
khi đi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần
được nói như sau : "Thưa Hiền giả, y cứ nơi tướng nào,
do tác ý tướng ấy các lậu hoặc được đoạn diệt, không
có gián đoạn, tôi không biết không thấy tướng ấy. Lành
thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn diệt các
lậu hoặc". Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết
pháp để đoạn diệt các lậu hoặc. Này Tỷ-kheo, đây là
thời thứ sáu để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu
tập về ý.
Đây là sái thời
gian, mày Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được
tu tập về ý.
(VIII)
(28) CÁC THỜI GIAN (2)
1. Một thời, rất
nhiều Tỷ-kheo trú tại Bàrànasi, chỗ chư Thiên đọa xứ, vườn
Lộc Uyển. Sau khi ăn xong, trên con đường đi khất thực
trở về, các vị Tỷ-kheo ngồi tụ họp lại trong căn nhà hình
tròn, và câu chuyện sau đây được khởi lên :
- Này chư Hiền, thời
giờ nào để đi đến yết kiến vị Tỷ-kheo đã được tu
tập về ý ?
2. Được nói vậy,
một Tỷ-kheo bạch với các Tỷ-kheo trưởng lão :
- Thưa chư Hiền, khi nào
vị Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, sau buổi ăn trưa, trên
con đường khất thực trở về, sau khi rửa chân, đã ngồi
xuống, kiết-già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, đấy
là thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập
về ý.
3. Được nói vậy,
một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy :
- Thưa Hiền giả, đây
không phải thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được
tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập
về ý, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, sau
khi rửa chân, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước
mặt, bị mệt mỏi vì đi bộ, trong khi ấy, không cảm thấy
khinh an, bị mệt mỏi vì ăn uống, trong khi ấy, không cảm
thấy khinh an. Do vậy, không phải thời để đi đến yết
kiến Tỷ-kheo được tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi
Tỷ-kheo được tu tập về ý. Này Hiền giả, trong khi
Tỷ-kheo được tu tập về ý, vào buổi chiều, từ Thiền
tịnh đứng dậy, dưới bóng của tịnh xá, ngồi kiết-già,
lưng thẳng, để niệm trước mặt, thời ấy chính là thời
để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
4. Được nói vậy,
một Tỷ-kheo khác nói với vị Tỷ-kheo ấy :
- Thời ấy không
phải thời để đi yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về
ý. Thưa Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về ý, vào
buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, dưới bóng ngôi
tịnh xá, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước
mặt, định tướng gì vị ấy tác ý ban ngày, định tướng
ấy trong khi ấy được hiện hành. Do vậy, đây không phải là
thời để đi yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Này
Hiền giả, Tỷ-kheo được tu tập về ý, sau khi đêm vừa mãn,
mới thức dậy, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước
mặt. Khi ấy là thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý.
5. Được nói vậy,
một Tỷ-kheo khác nói với Tỷ-kheo ấy :
- Khi ấy không phải
thời để đi đến yết kiến Tỷ-kheo được tu tập về ý.
Này Hiền giả, trong khi Tỷ-kheo được tu tập về ý, sau khi
đêm đã mãn, thức dậy, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để
niệm trước mặt, trong khi ấy, thân thể đầy nhựa sống,
vị ấy cảm giác thoải mái, tác ý đến lời dạy của các
đức Phật. Do vậy, khi ấy không phải là thời để yết
kiến Tỷ-kheo được tu tập về ý.
6. Được nói vậy, Tôn
giả Mahà Kaccàna nói với các Tỷ-kheo trưởng lão ấy :
- Thưa các Hiền giả,
tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh thọ như sau : Có
sáu thời này, Tỷ-kheo nên đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý. Thế nào là sáu ?
7-8. Mahàkaccàna (lặp
lại kinh 27, Kinh Bộ Tăng chi tập II).
- Thưa chư Hiền, chính
tôi tự thân nghe từ Thế Tôn, tự thân lãnh thọ như sau : Có
sáu thời này, Tỷ-kheo cần đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã
được tu tập về ý.
(IX)
(29) UDÀYI
1. Rồi Thế Tôn gọi
Tôn giả Udàyi :
- Này Udàyi, có bao nhiêu
chỗ để tùy niệm ?
Được nói vậy, Tôn
giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ hai, Thế Tôn bảo Tôn giả
Udàyi :
- Có bao nhiêu chỗ để
tùy niệm ?
Lần thứ hai, Tôn
giả Udàyi giữ im lặng. Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn giả
Udàyi :
- Có bao nhiêu chỗ để
tùy niệm ? Lần thứ ba, Tôn giả Udàyi giữ im lặng. Rồi Tôn
giả Ànanda nói với Tôn giả Udàyi :
- Này Hiền giả Udàyi,
Thế Tôn gọi Hiền giả !
- Thưa Hiền giả Ànanda,
tôi có nghe Thế Tôn gọi. Bạch Thế Tôn, khi Tỷ-kheo nhớ đến
nhiều đời trước ở quá khứ như một đời, hai đời...
vị ấy nhớ nhiều đời trước với các nét đại cương và
các chi tiết. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm.
Rồi Thế Tôn bảo Tôn
giả Ànanda :
- Ta đã biết, này Ànanda,
kẻ ngu Udàyi này không sống chuyên tâm vào tăng thượng tâm.
Này Ànanda, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm ?
- Bạch Thế Tôn, có năm
chỗ để tùy niệm. Thế nào là năm ?
2. Ở đây, bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt và an
trú Thiền thứ ba. Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy
niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, đưa đến
hiện tại lạc trú.
3. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo tác ý với tưởng ánh sáng, trú vào tưởng
ban ngày. Ngày như thế nào thời đêm như vậy. Đêm như thế
nào thời ngày như vậy. Như vậy, với tâm rộng mở, không có
hạn chế, vị ấy tu tập tâm với ánh sáng, chiếu sáng.
Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy,
làm cho sung mãn, đưa đến chúng đắc tri kiến.
4. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân trở lên trên,
từ đảnh tóc trở xuống, được da bọc và chứa đầy
những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách
mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm,
mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước
mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Bạch Thế Tôn, đây
là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm sung mãn như
vậy, đưa đến đoạn tận tham dục.
5. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, vị như vị Tỷ-kheo thấy một bài thi thể quăng
bỏ trong nghĩa địa, một ngày hay hai ngày, ba ngày, thi thể
ấy trương phồng lên, xanh ứ lại, thối ra mủ chảy.
Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau : "Thân này
tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loại quạ ăn ; hay bị các
loài diều hâu ăn ; hay bị các chim kêu ăn ; hay bị các loài
chó ăn ; hay bị các loài dã can ăn ; hay bị các loài côn trùng
ăn. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau : "Thân
này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy". Ví như vị ấy thấy một thi thể
quăng bỏ trong nghĩa địa, với các xương còn liên kết với
nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột
lại ; với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính
thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột
lại ; với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn
thịt và máu, còn được các đường gân cột lại ; chỉ còn
xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia.
Ở đây, là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương
ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở
đây là xương sống, ở đây là đầu. Tỷ-kheo ấy đem so sánh
với thân này như sau : "Thân này bản chất là như vậy,
bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy".
Hay ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa,
chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc, chỉ còn một đống
xương lâu hơn một năm, chỉ còn là xương thối trở thành
bột. Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau : : "Thân
này bản chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy". Đây là chỗ để tùy niệm, bạch
Thế Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như
vậy, đưa đến nhổ tận gốc kiêu mạn "Tôi là".
6. Lại nữa, bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo bỏ lạc, bỏ khổ... chứng đạt và an trú
Thiền thứ tư. Đây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn,
được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa
đến sự thể nhập hoàn toàn các giới sai khác nhau.
Bạch Thế Tôn, đây là
năm chỗ để tùy niệm.
- Lành thay, lành thay,
này A计nda ! Đây là chỗ tùy
niệm thứ sáu, hãy thọ trì ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo chánh
niệm đi ra, chánh niệm đi vào, chánh niệm ngồi, chánh niệm
nằm, chánh niệm trong khi làm việc. Này Ànanda, đây là chỗ
để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn,
được đưa đến chánh niệm tỉnh giác.
(X)
(30) TRÊN TẤT CẢ
1. - Này các Tỷ-kheo,
có sáu pháp vô thượng này. Thế nào là sáu ?
2. Thấy vô thượng,
nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô thượng,
phục vụ vô thượng, tùy niệm vô thượng. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là thấy vô thượng ?
3. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người đi xem voi báu, đi xem ngựa báu, đi xem châu
báu, hay đi xem các vật lớn nhỏ, hay đi xem Sa-môn, hay Bà-la-môn
có tà kiến, có tà hạnh. Này các Tỷ-kheo, đây có phải là
thấy không ? Ta nói rằng : Đây là không thấy". Sự
thấy ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ liệt, hà hèn hạ, là phàm
phù, không xứng Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích,
không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai đi yết kiến
Thế Tôn hay đệ tử Thế Tôn, với lòng tin an trú, với lòng
ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín thời này, các
Tỷ-kheo, đây là thấy vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các
loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt
được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là đi yết kiến
Như Lai hay đệ tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái
mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là thấy vô thượng, đây là thấy vô thượng. Còn nghe
vô thượng là gì ?
4. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người đi nghe tiếng trống, đi nghe tiếng sáo,
đi nghe tiếng ca, hay đi nghe tiếng cao thấp khác nhau, hay đi
nghe pháp các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các
Tỷ-kheo, đây có phải là nghe không ? Ta nói rằng : "Đây
là không nghe". Sự nghe ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ
liệt, hà hèn hạ, là phàm phù, không xứng Thánh hạnh, không
liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các
Tỷ-kheo, ai đi để nghe pháp của Như Lai hay của đệ tử Như
Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín thời này, các Tỷ-kheo, đây là nghe vô thượng,
đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu
bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ
Niết-bàn, tức là đi nghe pháp của Như Lai hay của đệ tử
Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là nghe vô thượng, đây
là thấy vô thượng, nghe vô thượng. Còn lợi đắc vô thượng
là gì ?
5. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người được con, được vợ, được tài sản,
được các vật cao thấp khác nhau, được lòng tin vào các
Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các Tỷ-kheo,
đây có lợi đắc hay không ? Ta nói rằng : "Đây là không
lợi đắc". Lợi đắc ấy, này các Tỷ-kheo, là hạ
liệt, hà hèn hạ, là phàm phù, không xứng Thánh hạnh, không
liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các
Tỷ-kheo, ai được lòng tin vào Như Lai hay của đệ tử Như
Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín thời này các Tỷ-kheo, đây là đắc lợi vô thượng,
đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu
bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ
Niết-bàn, tức là được lòng tin vào Như Lai hay của đệ
tử Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú,
nhứt hướng thuần tín. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đắc
lợi vô thượng, đây là thấy vô thượng, nghe vô thượng,
đắc lợi vô thượng. Còn học tập vô thượng là gì ?
6. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người học tập về voi, học tập về ngựa,
học tập về xe, học tập về cung pháp, học tập về kiếm
pháp, học tập về các nghề cao thấp sai biệt hay học tập
theo các Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các
Tỷ-kheo, đây là có học tập hay không ? Ta nói rằng : "Đây
là không học tập". Học tập ấy, này các Tỷ-kheo, là
hạ liệt, hà hèn hạ, là phàm phù, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này
các Tỷ-kheo, ai học tập Tăng thượng giới, học tập tăng
thượng định, học tập tăng thượng tuệ trong Pháp và
Luật do Như Lai tuyên thuyết, với lòng tin an trú, với lòng
ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, này các Tỷ-kheo, đây
là học tập vô thượng, đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng
sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh
lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là học tập Tăng thượng
giới, học tập tăng thượng định, học tập tăng thượng
tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, với lòng tin
an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là học tập vô thượng, đây là
thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng,
học tập vô thượng. Còn phục vụ vô thượng là như thế nào
?
7. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người phục vụ Sát-đế-ly, phục vụ Bà-la-môn,
phục vụ gia chủ, phục vụ các người cao thấp sai biệt hay
phục vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh. Này các
Tỷ-kheo, đây là có phục vụ hay không ? Ta nói rằng : "Đây
là không phục vụ". Phục vụ ấy, này các Tỷ-kheo, là
hạ liệt, hà hèn hạ, là phàm phù, không xứng Thánh hạnh,
không liên hệ đến mục đích, không đưa đến yếm ly, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này
các Tỷ-kheo, ai phục vụ Như Lai hay đệ tử Như Lai, với lòng
tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín, này
các Tỷ-kheo, đây là phục vụ vô thượng, đưa đến thanh
tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu bi, chấm dứt
khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là
phục vụ Như Lai hay đệ tự Như Lai, với lòng tin an trú,
với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là phục vụ vô thượng, đây là thấy vô
thượng, nghe vô thượng, lợi đắc vô thượng, học tập vô
thượng, phục vụ vô thượng. Và thế nào là tùy niệm vô
thượng ?
8. Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có người tùy niệm được con, tùy niệm được
vợ, tùy niệm được tài sản, tùy niệm được cao thấp sai
biệt hay phục vụ Sa-môn hay Bà-la-môn có tà kiến, tà hạnh.
Này các Tỷ-kheo, đây là có tùy niệm hay không ? Ta nói rằng
: "Đây là không tùy niệm". Tùy niệm ấy, này các
Tỷ-kheo, là hạ liệt, hà hèn hạ, là phàm phù, không xứng
Thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích, không đưa đến
yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ,
Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, ai tùy niệm Như Lai hay đệ tử
Như Lai, với lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng
thuần tín, này các Tỷ-kheo, đây là phục vụ vô thượng,
đưa đến thanh tịnh cho các loài chúng sanh, vượt qua sầu
bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ
Niết-bàn, tức là tùy niệm Như Lai hay đệ tự Như Lai, với
lòng tin an trú, với lòng ái mộ an trú, nhứt hướng thuần tín.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tùy niệm vô thượng.
Này các Tỷ-kheo, có sáu
tùy niệm này :
- Ai được thấy tối thắng,
- Và được nghe vô thượng,
- Được lợi đắc vô thượng,
- Vui học tập vô thượng,
- An trú trong phục vụ,
- Tu tập chuyên tùy niệm,
- Liên hệ đến viễn ly,
- Đạt an ổn, bất tử,
- Hoan hỷ, không phóng dật,
- Thận trọng, hộ trì giới,
- Khi thời đã chín muồi
- Đau khổ được đoạn tận.
-