- CHƯƠNG NĂM
- NĂM PHÁP
XX. PHẨM BÀ-LA-MÔN
(I) (191) VÍ DỤ CON CHÓ
1. Có năm cựu Bà-la-môn pháp này,
này các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các con chó, không được thấy giữa
các Bà-la-môn. Thế nào là năm?
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn, không đến phi nữ Bà-la-môn.
Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các nam Bà-la-môn đi đến Bà-la-môn đi đến nữ
Bà-la-môn, cũng đi đến phi nữ Bà-la-môn. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các
con chó đực chỉ đi đến con chó cái, không đi đến không phải con chó
cái. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được
thấy giữa các loài chó, không thấy được giữa các Bà-la-môn.
2. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn chỉ đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai,
không có đi trong thời kỳ không thể thụ thai. Ngày nay, này các Tỷ-kheo,
các nam Bà-la-môn đi đến nữ Bà-la-môn trong thời có thể thụ thai và cũng
trong thời không thể thụ thai. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó đực
chỉ đi đến con chó cái trong thời có thể thụ thai, không đi đến trong
thời kỳ không thể thụ thai. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ hai, này
các Tỷ-kheo, nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không thấy được
giữa các Bà-la-môn.
4. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
nam Bà-la-môn không mua, không bán nữ Bà-la-môn cọng trú trong tình tương
ái, tiếp tục trong sự thuận hòa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các nam
Bà-la-môn mua và bán nữ Bà-la-môn, cọng trú trong tình ái, tiếp tục trong
sự thuận hòa. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các con chó đực không mua, không
bán con chó cái cọng trú trong tình tương ái, tiếp tục trong sự thuận
hòa. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, nay chỉ được
thấy giữa các loài chó, không thấy được giữa các Bà-la-môn.
5. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn không cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng. Ngày nay, này
các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn cất chứa tài sản, ngũ cốc, bạc và vàng.
Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các loài chó không cất chứa tài sản, ngũ cốc,
bạc và vàng. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ tư, này các Tỷ-kheo, nay chỉ
được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa các Bà-la-môn.
6. Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, các
Bà-la-môn vào buổi chiều tìm đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng tìm đồ
ăn buổi sáng. Ngày nay, này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn ăn cho đến no nê
thỏa bụng, rồi lấy các đồ ăn còn lại và mang đi. Ngày nay, này các Tỷ-kheo,
các con chó, vào buổi chiều tìm đồ ăn buổi chiều, vào buổi sáng tìm
đồ ăn buổi sáng. Đây là cựu Bà-la-môn pháp thứ năm, này các Tỷ-kheo,
nay chỉ được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa các
Bà-la-môn.
Năm cựu Bà-la-môn pháp này, này
các Tỷ-kheo, nay được thấy giữa các loài chó, không được thấy giữa
các Bà-la-môn.
(II) (192) BÀ-LA-MÔN DONA
1. Rồi Bà-la-môn Dona đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Dona bạch Thế Tôn:
2. - Thưa Tôn giả Gotama, tôi có
nghe như sau: "Sa-môn Gotama không đảnh lễ, hay không đứng dậy, hay không
mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão, đời đã
được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời." Thưa Tôn giả
Gotama, sự thể là như vậy; Tôn giả Gotama không đảnh lễ, hay không đứng
dậy, hay không mời ghế các vị Bà-la-môn già yếu, tuổi lớn, trưởng lão,
đời đã được trải qua, đã đến đoạn cuối cuộc đời. Như vậy,
thưa Tôn giả Gotama, thật là không tốt đẹp.
- Này Dona, Ông có tự cho mình là
Bà-la-môn không?
- Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai
nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với
danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống là thứ
năm, thông hiểu pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học)
và tướng của vị Đại nhân". Thưa Tôn giả Gotama, nói về tôi, nói
một cách chơn chánh là nói như vầy. Thưa Tôn giả Gotama, tôi là
Bà-la-môn, thiện sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh
cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về
vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu
ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử
truyền thống là thứ năm, thông hiểu pháp và văn phạm, biện tài về thuận
thế và tướng của vị Đại nhân.
- Này Dona, có phải các vị
Bà-la-môn thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả
các chú thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên,
đã sưu tầm những Thánh cú mà nay những Bà-la-môn hiện tại cũng hát
lên, nói lên, đọc lên giống như các vị tước đã làm? Những vị ẩn sĩ
ấy tên là Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Angìrasa, Bharadvàja,
Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này:
"Đồng đẳng với Phạm thiên, đồng đẳng với chư Thiên, các vị biết
giới hạn, các vị vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn bị vứt
bỏ". Này Dona, Ông là ai giữa các vị ấy?
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
không biết năm vị Bà-la-môn này. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi là
Bà-la-môn. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho tôi để tôi biết
được năm vị Bà-la-môn này.
- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và
khéo tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Dona vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
3. - Thế nào, này Dona, là
Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm Thiên?
Ở đây, này Dona, vị Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ đến phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy
đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết
thống thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập
chân ngôn (chú thuật). Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học
tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho bậc Đạo Sư một
cách đúng pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không
phải nhờ cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò,
không phải do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một
nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của
người khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư, sau khi cạo bỏ râu
tóc, đắp áo cà sà, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Vị ấy xuất gia như vậy, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ,
cũng vậy, phương thứ hai, cũng vậy, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy
phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với
tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Với
tâm câu hữu với bi... với hỷ... với xả. Cũng vậy phương thứ hai,
cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế
giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới,
vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xã, quảng đại, vô biên,
không hận, không sân. Vị ấy, sau khi tụ tập bốn phạm trú này, khi thân
hoại mạng chung, được sanh thiện phú Phạm thiên giới. Như vậy, này
Dona, là vị Bà-la-môn đồng đẳng với Phạm Thiên.
4. Và này Dona, thế nào là
Bà-la-môn đồng đẳng với Chư Thiên?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả tử mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập châm
ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân
ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng
pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ
cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải
do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì
khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người
khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm
vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này Dona, ở đây, pháp
là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn
đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, không đi đến
nữ sát-đế-ly, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn bắn,
nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi đến người đàn bà có
mang, không đi đến người đàn bà cho con bú, không đi đến người đàn
bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này Dona, vì sao người Bà-la-môn
không đi đến người đàn bà có mang? Này Dona, nếu người Bà-la-môn đi
đến người đàn bà có mang, thời đứa đồng nam hay đồng nữ được
sanh hoàn toàn bị ô uế; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi đến
người đàn bà có mang. Và vì sao, này Dona, Bà-la-môn không đi đến người
đàn bà cho con bú? Này Dona, nếu Bà-la-môn đi đến người đàn bà cho con
bú, thời này Dona, đứa đồng nam hay đồng nữ bú sữa không được thanh
tịnh; do vậy, này Dona, vị Bà-la-môn không đi đến người đàn bà cho con
bú. Và vì sao, này Dona, Bà-la-môn không đi đến người đàn bà trong thời
kỳ không thể thụ thai? Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến người đàn
bà trong thời không thể thụ thai, thời nữ Bà-la-môn ấy trở thành một
phương tiện để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ
Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ
dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi, liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vị ấy xuất gia như vậy,
ly dục, ly pháp bất thiện... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy,
sau khi tu tập bốn Thiền, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi
lành, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn đồng đẳng
với chư Thiên.
5. Và thế nào, này Dona, là một
Bà-la-môn có giới hạn?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân
ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân
ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng
pháp, không phải phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ
cày bừa, không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải
do cung tên, không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì
khác, hoàn toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người
khất sĩ. Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm
vợ một cách đúng pháp, không phải phi pháp. Và này Dona, ở đây, pháp
là gì? Không phải do mua, không phải do bán, nhưng chỉ với một nữ Bà-la-môn
đã được nước tưới lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, không đi đến
nữ sát-đế-ly, nữ Tỳ-xá, nữ Thủ-đà, nữ Chiên-đà-la, nữ săn bắn,
nữ đan tre, nữ làm xe, nữ thổ dân, không đi đến người đàn bà có
mang, không đi đến người đàn bà cho con bú, không đi đến người đàn
bà trong thời kỳ không thể thụ thai. Và này Dona, vì sao người Bà-la-môn
không đi đến người đàn bà có mang? Này Dona, nếu vị Bà-la-môn đi đến
người đàn bà có mang...(như trên)...Nữ Bà-la-môn đối với nam Bà-la-môn
chỉ có mục đích đẻ con. Vị ấy từ dâm dục (đúng pháp) sinh con rồi,
do ưa thích con nít, sống trong gia đình, không xuất gia từ bỏ gia đình.
Cho đến sự giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng tại
đấy, không vượt qua giới hạn ấy. Cho đến giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy đứng ở đấy, không vượt qua giới hạn ấy.
Này Dona, do vậy Bà-la-môn được gọi là có giới hạn. Như vậy, này
Dona, là Bà-la-môn có giới hạn.
6. Và này Dona, thế nào là một
Bà-la-môn vượt qua giới hạn?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ... về vấn đề huyết thống thọ sanh. Vị
ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân ngôn. Sau khi sống
48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân ngôn, vị ấy tìm kiếm
tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng pháp, không phải phi
pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa, không phải
nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên, không phải
do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn toàn chỉ do
khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ. Sau khi giao lại
tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một cách đúng
pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước tưới lên,
vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ sát-đế-ly, cũng đi đến
nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la, cũng
đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm xe,
cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng đi
đến người đàn bà cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong thời kỳ
không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện để
thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với
nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Cho đến sự giới hạn của các
Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không đứng tại đấy, vị ấy vượt qua giới
hạn ấy. Cho đến giới hạn của các Bà-la-môn thời xưa, vị ấy không
đứng ở đấy, vị ấy vượt qua giới hạn ấy. Này Dona, do vậy
Bà-la-môn được gọi vị đã vượt qua giới hạn. Như vậy, này Dona, là
Bà-la-môn vượt qua giới hạn.
7. Và này Dona, thế nào là
Bà-la-môn Chiên-đà-la?
Ở đây, này Dona, Bà-la-môn thiện
sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời
tổ phụ, không một vết nhơ nào, một gièm pha nào về vấn đề huyết thống
thọ sanh. Vị ấy trong 48 năm sống Phạm hạnh đồng trinh, học tập chân
ngôn. Sau khi sống 48 năm Phạm hạnh đồng trinh, sau khi học tập chân
ngôn, vị ấy tìm kiếm tài sản Đạo Sư cho vị Đạo Sư một cách đúng
pháp và phi pháp. Ở đây, này Dona, pháp là gì? Không phải nhờ cày bừa,
không phải nhờ buôn bán, không phải nhờ chăn bò, không phải do cung tên,
không phải do làm người của vua, không phải do một nghề gì khác, hoàn
toàn chỉ do khất thực, không khinh thường bình bát của người khất sĩ.
Sau khi giao lại tài sản Đạo sư cho bậc Đạo sư, vị ấy đi tìm vợ một
cách đúng pháp và phi pháp. Do mua, do bán với nữ Bà-la-môn được nước
lên, vị ấy đi đến nữ Bà-la-môn, cũng đi đến nữ sát-đế-ly, cũng
đi đến nữ Tỳ-xá, cũng đi đến nữ Thủ-đà, cũng đi đến nữ Chiên-đà-la,
cũng đi đến nữ săn bắn, cũng đi đến nữ đan tre, cũng đi đến nữ làm
xe, cũng đi đến nữ thổ dân, cũng đi đến người đàn bà có mang, cũng
đi đến người đàn bà cho con bú, cũng đi đến người đàn bà trong thời
kỳ không thể thụ thai. Nữ Bà-la-môn đối với vị ấy là phương tiện
để thỏa lòng dục, để vui đùa, để thỏa thích. Nữ Bà-la-môn đối với
nam Bà-la-môn có mục đích đẻ con. Vị ấy để nuôi mạng sống, làm tất
nghề. Rồi các Bà-la-môn nói với vị ấy như sau: "Sao Tôn giả tự
cho mình là Bà-la-môn, lại làm tất cả nghề để nuôi mạng sống?" Vị
ấy trả lời như sau: "Như lửa đốt vật sạch, cũng đốt vật nhớp,
nhưng không phải vì vậy mà ngọn lửa bị uế nhiễm". Cũng vậy, này
các Tôn giả, nếu Bà-la-môn làm tất cả nghề để nuôi mạng sống, nhưng
không phải vì vậy mà Bà-la-môn bị uế nhiễm. Vì làm tất cả nghề để
nuôi mạng sống, này Dona, nên Bà-la-môn được gọi là Bà-la-môn Chiên-đà-la.
Như vậy, này Dona, là Bà-la-môn Chiên-đà-la.
8. Này Dona, có phải các Bà-la-môn
thời xưa, những vị ẩn sĩ giữa các Bà-la-môn, những tác giả các chú
thuật, những nhà tụng tán các chú thuật đã hát, đã nói lên, đã sưu tầm
những Thánh cú mà nay, những Bà-la-môn hiện tại cũng hát lên, đọc lên
giống như các vị trước đã làm. Những vị ấy tên là Atthaka, Vàmaka,
Vàmadeva, Vessàmitta, Yamadaggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu. Những
vị ấy tuyên bố có năm hạng Bà-la-môn này: "Vị đồng đẳng với
Phạm thiên, vị đồng đẳng với chư Thiên, các vị có giới hạn, các vị
vượt lên giới hạn và thứ năm là Bà-la-môn Chiên-đà-la". Này Dona,
Ông là ai giữa các vị ấy?
- Như vậy, thưa Tôn giả Gotama,
chúng con chưa thành tựu đầy đủ Bà-la-môn Chiên-đà-la. Thật vi diệu
thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả
Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ. Từ nay cho đến mạng chung con trọn đời
quy ngưỡng.
(III) (193) BÀ-LA-MÔN SANGÀRAVA
1. Rồi Bà-la-môn Sangàrava đi đến
Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm,
sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sangàrava thưa với Thế Tôn:
2. - Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn
giả Gotama, có khi các chú thuật học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại
không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, có khi các chú thuật
không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được, còn nói
gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
3. - Này Bà-la-môn, khi trú với tâm
bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi phối, và không như thật biết rõ
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy lợi ích cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng
lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không
được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh hay màu
vàng và ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt của
mình, không có thể như thật biết được, thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi
phối, không như thật rõ biết sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên;
trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của mình;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi
ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên
các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không nhớ lên được,
còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
4. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị sân xâm chiếm, bị sân chi phối, không như thật biết sự xuất
ly khỏi sân đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và
thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi
ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi
ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại
không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
được lửa đun sôi, sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một
người có mắt muốn ngắm nghía bóng mặt của mình, không thể như thật
biết và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị
sân xâm chiếm...cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại
không nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc
lòng!
5. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, bị hôn trầm thụy miên chi
phối, không như thật biết sự xuất ly khỏi hôn trầm thụy miên, đã khởi
lên; trong khi ấy, người ấy không như thật biết và thấy lợi ích của
mình; trong khi ấy, không như thật biết và thấy lợi ích của người;
trong khi ấy, không như thật biết và thấy được lợi ích của cả hai,
cho nên các chú thuật được học thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ
lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn
mặt của mình, không thể như thật biết được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị dục tham xâm chiếm... còn nói gì các
chú thuật không được học thuộc lòng!
6. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị trạo hối xâm chiếm, bị trạo hối chi phối, không như thật
biết sự xuất ly khỏi trạo hối đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học
thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú
thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị gió thổi, dao động, chấn động, nổi sóng. Ở đây, một người có
mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, không thể như thật biết được
và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm bị trạo
hối xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
7. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị nghi hoặc xâm chiếm, bị nghi hoặc chi phối, không như thật
biết sự xuất ly khỏi nghi hoặc đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy
không như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như
thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật được học
thuộc lòng lâu ngày lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú
thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị khuấy động, khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một
người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, không thể như thật
biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với
tâm bị nghi hoặc xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật không được học
thuộc lòng!
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm bị dục tham xâm chiếm, bị dục tham chi phối, không như thật biết
sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên; trong khi ấy, người ấy không như
thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy, không như thật biết
và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, không như thật biết và thấy
được lợi ích của cả hai, cho nên các chú thuật không được học thuộc
lòng lâu ngày lại được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được
học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị trộn lẫn với thuốc nhuộm hoặc gôm lặc, hay màu đỏ tía, hay
màu xanh, hay màu vàng, và ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía
khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng
vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị dục tham xâm chiếm...
còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
8. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi trú
với tâm không bị sân xâm chiếm... còn nói gì các chú thuật đã được
học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị lửa đun sôi, không sôi lên sùng sục, không nổi lên cuồn cuộn.
Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của mình, có thể
như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này Bà-la-môn, trong khi
trú với tâm không bị sân xâm chiếm, không bị sân chi phối... còn nói
gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
10. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên xâm chiếm, không bị hôn trầm
thụy miên chi phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía
khuôn mặt của mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng
vậy, này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên
xâm chiếm, không bị hôn trầm thụy miên chi phối... còn nói gì các chú
thuật đã được học thuộc lòng!
11. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị trạo hối xâm chiếm, không bị trạo hối chi phối...
còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
không bị gió thổi, không bị dao động, không bị chấn động, không bị
nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm nghía khuôn mặt của
mình, có thể như thật biết được và thấy được. Cũng vậy, này
Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị trạo hối miên xâm chiếm, không
bị trạo hối chi phối... còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
12. Lại nữa, này Bà-la-môn, khi
trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị nghi hoặc chi phối...
còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng!
Ví như, này Bà-la-môn, một bát nước
bị khuấy động, đặt giữa ánh sáng. Ở đây, một người có mắt muốn
ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết và thấy được. Cũng vậy,
này Bà-la-môn, trong khi trú với tâm không bị nghi hoặc xâm chiếm, không bị
nghi hoặc chi phối và như thật biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi
lên; trong khi ấy, như thật biết và thấy lợi ích của mình; trong khi ấy
như thật biết và thấy lợi ích của người; trong khi ấy, như thật biết
và thấy lợi ích cả hai. Cho nên các chú thuật không được học thuộc lòng
lâu ngày được nhớ lên, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
Đây là nhân, đây là duyên, này
Bà-la-môn, có khi các chú thuật không được học thuộc lòng lâu ngày, lại
có thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc
lòng!
13. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thật vi diệu thay, bạch Thế
Tôn...từ này cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(IV) (194) BÀ-LA-MÔN KÀRANAPÀLI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàlì, tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn. Lúc bấy giờ,
Bà-la-môn Kàranapàli đang xây dựng nhà cho Licchavì. Bà-la-môn Kàranapàli thấy
Bà-la-môn Pingiyàni từ đường xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với
Bà-la-môn Karanapàli:
- Tôn giả Pingiyàni đi từ đâu đến
sớm như vậy?
- Thưa Tôn giả, tôi đi từ chỗ
Sa-môn Gotama về.
- Tôn giả Pingiyàni nghĩ thế nào về
trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama? Ngài có nghĩ vị ấy là một bậc Hiền
trí chăng?
- Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có
thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama. Chỉ có ai như vị
ấy, mới có thể biết được trí tuệ sáng suốt của Sa-môn Gotama.
Thật là cao thượng lời Tôn giả
Pingiyàni tán thán Sa-môn Gotama. "Tôi là ai, thưa Tôn giả, lại có nói
lời tán thán Sa-môn Gotama". Được tán thán bởi những bậc được tán
thán là Tôn giả Gotama, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người. Tôn
giả Pingyiàni thấy những lợi ích gì lại cực lực tin tưởng Sa-môn
Gotama như vậy?
- Thưa Tôn giả, ví như một người
đã thỏa mãn với vị ngọt tối thượng sẽ không còn thèm muốn các vị
ngọt hạ liệt khác. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã nghe pháp của Tôn giả
Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp.., thời
không còn thèm muốn các lý thuyết của những người khác, của các
Sa-môn, Bà-la-môn thấp kém. Ví như, thưa Tôn giả, một người bị đói lả
và mệt mỏi, tìm được một bánh mật, cứ mỗi miếng vị ấy được nếm,
cứ mỗi miếng vị ấy được thưởng thức vị ngọt thuần nhất. Cũng vậy,
thưa Tôn giả, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh,
Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp...vị ấy được hoan hỷ, tâm
được tịnh tín. Ví như, thưa Tôn giả, một người tìm được một cành
cây chiên-đàn, chiên-đàn vàng hay chiên-đàn đỏ, chỗ nào người ấy ngửi
hoặc từ nơi rễ, hoặc từ nơi chặng giữa, hoặc từ nơi ngọn, người
ấy được hương thơm thuần diệu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã được
nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng
hữu pháp...thời vị ấy được thưởng thức hân hoan, được thưởng thức
hoan hỷ. Ví như, thưa Tôn giả, một người bị bệnh, khổ đau, bị trọng
bệnh, rồi có vị lương y lập tức chữa cho khỏi bệnh. Cũng vậy, thưa
Tôn giả, khi đã được nghe pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng
tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu pháp...khi ấy, sầu bi khổ ưu não đi đến
tiêu diệt. Ví như, thưa Tôn giả, một hồ sen, có nước trong, có nước
ngọt, có nước mát, có nước mát trong, có bờ hồ khéo sắp đặt, đẹp
đẽ, rồi một người đi đến, bị nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt
mỏi, thèm uống nước, khát nước. Người ấy, sau khi lặn xuống trong hồ
sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước, tất cả khổ cực mệt mỏi, nhiệt
não đều được lắng dịu. Cũng vậy, thưa Tôn giả, khi đã được nghe
pháp của Tôn giả Gotama, như Khế kinh, Phúng tụng, Ký thuyết, Vị tằng hữu
pháp...khi ấy tất cả khổ cực, mệt mỏi, nhiệt não đều được chỉ tức.
2. Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Karanapàli từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, đầu
gối bên phải quỳ trên mặt đất, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và ba
lần thốt lên lời cảm hứng sau đây:
- Đảnh lễ Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác! Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Pingiyàni! Thật vi diệu thay, Tôn giả Pingiyàni! Thưa Tôn giả Pingiyàni, như
người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những
gì bị che kín, chỉ đường cho những kẻ đi lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Thưa
Tôn giả Pingiyàni, con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo.
Tôn giả Pingyàni hãy chấp nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng
chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(V) (195) BÀ-LA-MÔN PINGIYÀNI
1. Một thời, Thế Tôn trú ở
Vesàlì, tại Mahàvana, chỗ giảng đường có nóc nhọn, có khoảng 500 người
Licchavi hầu hạ Thế Tôn. Một số người Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh,
mặc vải màu xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Một số người Licchavi toàn
vàng, màu sắc vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Một
số người Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ, mang đồ
trang sức màu đỏ. Một số người Licchavi toàn trắng, màu sắc trắng, mặc
vải màu trắng, mang đồ trang sức màu trắng. Nhưng thật sự Thế Tôn đã
chói sáng với dung sắc và sự huy hoàng. Rồi Bà-la-môn Pingiyàni từ chỗ
ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến
Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Điều này được nói lên cho con,
bạch Thế Tôn! Điều này được nói lên cho con, bạch Thế Tôn!
- Hãy nói lên, này Pingiyàni!
Thế Tôn nói như vậy. Rồi Bà-la-môn
Pingiyàni trước mặt Thế Tôn, nói lên bài kệ thích đáng:
Như loại hoa sen hồng,
Buổi sáng hương ngào ngạt,
Khi đóa hoa càng nở,
Hương thơm càng ngát hương.
Xem Angìrasa,
Chiếu hào quang sáng chói,
Chói sáng thật rực rỡ,
Như mặt trời trên không.
Rồi các người Licchavi ấy đem 500
thượng y dâng đắp cho Bà-la-môn Pingiyàni. Và Bà-la-môn Pingiyàni đem 500
thượng y ấy dâng đắp cho Thế Tôn. Thế Tôn nói với các vị ấy:
2. - Này các Licchavì, sự xuất hiện
của năm châu báu khó tìm được ở đời. Thế nào là năm?
3. Sự xuất hiện của Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khó tìm được ở đời. Người thuyết được
Pháp Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người hiểu được
Pháp Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời. Người thực hành
pháp và tùy pháp, sau khi đã hiểu rõ lời thuyết giảng về Pháp và Luật
do Như Lai tuyên thuyết, khó tìm được ở đời. Người biết ơn, nhớ ơn
khó tìm được ở đời.
Này các Licchavi, sự xuất hiện của
năm loại châu báu này khó tìm được ở đời.
(VI) (196) MỘNG
1. - Trước khi Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, này các Tỷ-kheo, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát, có năm mộng lớn hiện ra. Thế nào là năm?
2. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy đất lớn này là giường lớn, Tuyết
sơn, vua các loài núi là các gối, tay trái đặt nằm trên biển phía Đông,
tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân nằm trên biển phía Nam. Trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra,
mọc cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Trước khi Như Lai,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác,
còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, bò ra
từ chân cho đến đầu gối và che đậy chúng. Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau, từ
bốn phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát. Trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trước
khi Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh
đẳng giác, còn là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên hòn
núi đầy phân, nhưng không bị nhớp vì phân. Trước khi Như Lai, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng giác, còn
là Bồ-tát, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
7. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy quả đất lớn này làm giường nằm lớn,
núi Tuyết sơn, vua các loài núi làm các gối, tay trái đặt nằm trên biển
phía Đông, tay mặt nằm trên biển phía Tây, hai chân đặt nằm trên biển
phía Nam. Này các Tỷ-kheo, đối với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
Ngài chứng được Vô thượng Chánh giác ngộ, Chánh Đẳng Giác. Trong khi
Ngài Chánh Đẳng giác ngộ, mộng lớn thứ nhất này được hiện ra.
8. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy từ nơi lỗ rún, cỏ tiriya mọc ra, mọc
cho đến khi chạm đến trời rồi mới dừng lại. Này các Tỷ-kheo, đối
với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Thánh đạo tám ngành được
hoàn toàn giác ngộ và khéo tuyên bố cho chư Thiên và loài Người. Trong
khi Ngài chánh giác ngộ, mộng lớn thứ hai này được hiện ra.
9. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy các con sâu trắng, đầu đen, bò ra từ
chân cho đến đầu gối và che đậy chúng. Này các Tỷ-kheo, nhiều gia chủ
bận áo trắng quy y Như Lai cho đến trọn đời. Trong khi Ngài chánh giác ngộ,
mộng lớn thứ ba này được hiện ra.
10. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy bốn con chim màu sắc khác nhau, từ bốn
phương bay đến, rơi xuống chân Ngài và trở thành trắng toát. Bốn giai cấp
này, này các Tỷ-kheo, Sát-đế-ly, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, sau khi xuất
gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên
thuyết, các vị ấy chứng ngộ vô thượng giải thoát. Trong khi Ngài chánh
giác ngộ, mộng lớn thứ tư này được hiện ra.
11. Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, khi chưa chánh đẳng
giác, còn là Bồ-tát mộng thấy Ngài đi kinh hành qua lại trên hòn núi đầy
phân, nhưng không bị nhớp vì phân. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn được các
vật dụng cần thiết như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Và ở đây, Như Lai thọ hưởng không bị trói buộc không bị tham
đắm, không bị mê say, thấy sự nguy hại có trí tuệ và xuất ly. Trong
khi Ngài chánh giác ngộ, mộng lớn thứ năm này được hiện ra.
Này các Tỷ-kheo, trước khi Như
Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác được giác ngộ, trước khi thành
Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát năm mộng lớn này được hiện ra.
(VII) (197) MƯA
1. - Có năm chướng ngại cho mưa này,
các người đoán tướng không biết được, ở đây, mắt của những người
đoán tướng không thể kham nhẫn. Thế nào là năm?
2. Trên hư không, này các Tỷ-kheo,
hỏa giới phẫn nộ, do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn. Này các
Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ nhất cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể
kham nhẫn.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trên
hư không, phong giới phẫn nộ, do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn.
Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ hai cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể
kham nhẫn.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Ràhu, vua các loài A-tu-la dùng tay thây lấy nước rồi đổ xuống biển lớn.
Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ ba cho mưa, các người đoán tướng
không biết được, ở đây mắt của những người đoán tưởng không thể
kham nhẫn.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chư
Thiên của các loại mây đem mưa trở thành biếng nhác. Đây là chướng ngại
thứ tư cho mưa, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt
của những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
loài Người trở thành phi pháp, này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ
năm cho mưa, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt của
những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
Này các Tỷ-kheo, có năm chướng ngại
cho mưa này, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt của
những người đoán tưởng không thể kham nhẫn.
(VIII) (198) LỜI NÓI
1. - Thành tựu năm chi phần, này
các Tỷ-kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm
tội và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là năm?
2. Nói đúng thời, nói đúng sự thật,
nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm.
Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ-kheo,
các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm tội và
không bị những người có trí chỉ trích.
(IX) (199) GIA ĐÌNH
1. - Khi nào, này các Tỷ-kheo, các
người xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, tại đấy các người
do năm trường hợp, được nhiều công đức. Thế nào là năm?
2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người sau khi thấy họ tâm
được tịnh tín. Này các Tỷ-kheo, như vậy là đưa đến cõi Trời, và
gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường ấy.
3. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người đứng dậy, đảnh
lễ họ, mời họ ngồi. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến được sanh vào
các gia đình cao sang, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên
con đường ấy.
4. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người từ bỏ cấu uế của
xan tham. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại uy lực, và gia đình ấy
trong lúc ấy, đã bước được trên con đường ấy.
5. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người tùy theo khả năng,
tùy theo năng lực, san sẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến
tài sản lớn, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường
ấy.
6. Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, các người hỏi những câu hỏi,
đặt những câu hỏi, nghe pháp. Này các Tỷ-kheo, như vậy đưa đến đại
trí tuệ, và gia đình ấy trong lúc ấy đã bước được trên con đường
ấy.
Khi nào, này các Tỷ-kheo, các người
xuất gia giữ giới đi đến với gia đình, tại đấy các người do năm
trường hợp này được nhiều công đức.
(X) (200) XUẤT LY
1. - Này các Tỷ-kheo, có năm giới
đưa đến xuất ly này. Thế nào là năm?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về dục tâm không phấn chấn trong các dục, không tịnh tín, không
an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến viễn ly, tâm liền phấn
chấn trong viễn ly, được tịnh tín, được an trú, được quyết định.
Tâm ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo
giải thoát, khéo không liên hệ đến dục. Và do duyên với dục, khởi
lên các lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng,
không cảm giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi cái dục.
3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về sân, tâm không phấn chấn trong sân, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô sân, tâm liền phấn chấn
trong vô sân, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm ấy
của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải
thoát, khéo không liên hệ đến sân. Và do duyên với sân, khởi lên các lậu
hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác
thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi sân.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về hại, tâm không phấn chấn trong hại, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô hại, tâm liền phấn chấn
trong vô hại, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm
ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải
thoát, khéo không liên hệ đến hại. Và do duyên với hại, khởi lên các
lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm
giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi hại.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về sắc, tâm không phấn chấn trong sắc, không tịnh tín, không an
trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến vô sắc, tâm liền phấn chấn
trong vô sắc, được tịnh tín, được an trú, được quyết định. Tâm
ấy của vị ấy là khéo làm, khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải
thoát, khéo không liên hệ đến sắc. Và do duyên với sắc, khởi lên các
lậu hoặc não hại, nhiệt não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm
giác thọ ấy. Đây gọi là xuất ly khỏi sắc.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
tác ý về có thân, tâm không phấn chấn trong có thân, không tịnh tín,
không an trú, không quyết định. Nhưng khi tác ý đến đoạn diệt có
thân, tâm liền phấn chấn trong đoạn diệt có thân, được tịnh tín,
được an trú, được quyết định. Tâm ấy của vị ấy là khéo làm,
khéo tụ tập, khéo tăng trưởng, khéo giải thoát, khéo không liên hệ đến
có thân. Và do duyên với có thân, khởi lên các lậu hoặc não hại, nhiệt
não, vị ấy giải thoát khỏi chúng, không cảm giác thọ ấy. Đây gọi
là xuất ly khỏi có thân.
Đối với vị ấy, dục hỷ không
có tùy miên, sân hỷ không có tùy miên, hại hỷ không có tùy miên, sắc hỷ
không có tùy miên, hữu thân hỷ không có tùy miên. Vị ấy không có tùy
miên đối với dục hỷ, không có tùy miên đối với sân hỷ, không có
tùy miên đối với hại hỷ, không có tùy miên đối với sắc hỷ, không
có tùy miên đối với hữu thân hỷ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo
được giải thoát khỏi tùy miên, đã chặt đứt khát ái, giải tỏa kiết
sử, do chánh pháp nhiếp phục kiêu mạn, đoạn tận khổ đau.
Này các Tỷ-kheo, có năm giới đưa
đến xuất ly này.