3
CHƯƠNG BA
BA
PHÁP
VIII.
PHẨM ÀNANDA
CHANNA
1. Nhân duyên ở Sàvatthi
Rồi du sĩ Channa đi đến
Tôn giả Ànanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả những
lời chào đón thăm hỏi ; sau khi nói lên với Tôn giả những
lời chào đón thăm hỏi thân hữu, rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, du sĩ Channa nói với Tôn giả Ànanda :
- Thưa Hiền giả Ànanda,
có phải các người tuyên thuyết về đoạn tận tham, đoạn
tận sân, đoạn tận si ?
- Vâng, thưa Hiền
giả, chúng tôi tuyên thuyết về đoạn tận tham, đoạn tận
sân, đoạn tận si.
- Thưa Hiền giả, do
thấy nguy hại của tham như thế nào, các Người tuyên
thuyết về đoạn tận tham ? Do thấy nguy hại của sân như
thế nào, các Người tuyên thuyết về đoạn tận sân ? Do
thấy nguy hại của si như thế nào, các Người tuyên thuyết
về đoạn tận si ?
- Người có tham, thưa
Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến
hại mình, nghĩ đến hại người, nghĩ đến hại cả hai,
cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi tham được đoạn tận,
không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không
nghĩ đến hại cả hai, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có tham, thưa
Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, thân làm ác,
miệng nói ác, ý nghĩ ác. Khi tham được đoạn tận, thân không
làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Người có tham, thưa
Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, không như
thật rõ biết lợi mình, không như thật rõ biết lợi người,
không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi tham được đoạn
tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người,
như thật rõ biết lợi cả hai.
Tham, thưa Hiền giả,
làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn
diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến
Niết-bàn.
Người có sân, thưa
Hiền giả, bị sân chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến
hại mình … như thật rõ biết lợi cả hai.
Sân, thưa Hiền giả,
làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn
diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến
Niết-bàn.
Người có si, thưa
Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến
hại mình … Khi si được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình
… không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. như thật rõ biết
lợi cả hai. Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh phục,
tâm mất tự chủ, làm ác hạnh với thân … làm ác hạnh
với ý. Khi si được đoạn tận, không làm ác hạnh với thân
… với ý.
Người có si, thưa
Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, không như
thật rõ biết lợi mình, … không như thật rõ biết lợi
cả hai. Khi si được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình
… như thật rõ biết lợi cả hai.
Si, thưa Hiền giả, làm
thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn
diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến
Niết-bàn.
Thấy sự nguy hại này
của tham, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận
tham. Thấy sự nguy hại này của sân, thưa Hiền giả, chúng tôi
tuyên thuyết đoạn tận sân. Thấy sự nguy hại này của si,
thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận si.
- Có con đường nào,
thưa Hiền giả, có đạo lộ nào đưa đến đoạn tận tham,
sân, si ?
- Có con đường, thưa
Hiền giả, có đạo lộ đưa đến đoạn tận tham, sân, si.
- Con đường ấy là gì,
thưa Hiền giả, đạo lộ ấy là gì đưa đến đoạn tận
tham, sân, si ?
- Chính là Thánh đạo
tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, … chánh định.
Đây là con đường, thưa Hiền giả, đây là đạo lộ đưa
đến đoạn tận tham, sân, si.
- Hiền thiện là con
đường, thưa Hiền giả ! Hiền thiện là đạo lộ đưa đến
đoạn tận tham, sân, si ! Thật là vừa đủ, thưa Hiền giả
Ànanda, để áp dụng không phóng dật.
TÀ
MẠNG ĐỆ TỬ
1. Môt thời, tham gia
Ànanda trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosità
Rồi một tà mạng đệ
tử gia chủ đi đến Tôn giả Ànanda ; sau khi đến, đảnh
lễ Tôn giả Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, tà mạng đệ tử gia chủ nói với Tôn giả Ànanda
:
- Thưa Tôn giả Ànanda,
pháp của những ai được khéo thuyết ? Những ai khéo hành trì
ở đời ? Những ai khéo vượt qua ở đời ?
- Vậy này gia chủ,
về vấn đề này Ta sẽ hỏi Ông. Ông kham nhẫn thế nào, hãy
trả lời như vậy. Ông nghĩ thế nào, này gia chủ, những ai
thuyết pháp để đoạn tận tham, thuyết pháp để đoạn
tận sân, thuyết pháp để đoạn tận si, pháp có được các
vị ấy khéo thuyết hay không ? Hay ở đây, Ông nghĩ thế nào
?
- Thưa Tôn giả, ai
thuyết pháp để đoạn tận tham, thuyết pháp để đoạn
tận sân, thuyết pháp để đoạn tận si, pháp ấy được khéo
thuyết. Và ở đây, tôi nghĩ như vậy.
2. - Ông nghĩ thế nào,
này gia chủ, những ai thực hành đoạn tham, thực hành đoạn
sân, thực hành đoạn si, những vị ấy có khéo thực hành
ở đời hay không ? Hay ở đây, Ông nghĩ thế nào ?
- Thưa Tôn giả,
những ai thực hành đoạn tham, thực hành đoạn sân, thực hành
đoạn si, những vị ấy khéo thực hành ở đời. Và ở đây,
tôi nghĩ như vậy.
3. - Ông nghĩ thế nào,
này gia chủ, với những ai tham được đoạn tận, cắt đứt
từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai ; với
những ai, sân được đoạn tận … với những ai, si được
đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai ; Những vị ấy có khéo vượt qua ở đời
hay không ? Hay ở đây, Ông nghĩ thế nào ?
- Thưa Tôn giả, với
những ai tham được đoạn tận, … với những ai, sân được
đoạn tận … với những ai, si được đoạn tận, cắt đứt
từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể
hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai ;
Những vị ấy có khéo vượt qua ở đời. Và ở đây, tôi
nghĩ như vậy.
- Như vậy, Ông đã
trả lời như sau : "Thưa Tôn giả, những ai thuyết pháp
để đoạn tận tham, thuyết pháp để đoạn tận sân,
thuyết pháp để đoạn tận si, pháp được các vị ấy khéo
thuyết." Và Ông đa trả lời như sau : "Thưa Tôn
giả, những ai đã thực hành đoạn tận tham … đoạn tận sân
… đoạn tận si, những vị ấy đã khéo thực hành ở đời".
Và Ông đã trả lời như sau : "Thưa Tôn giả, những ai đã
đoạn tận tham, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai. Những ai đã đoạn tận sân … Những
ai đã đoạn tận si, đã cắt đứt từ gốc rễ … làm cho
không thể sanh khởi trong tương lai. Những vị ấy có khéo vượt
qua ở đời".
- Thật vi diệu thay,
thưa Tôn giả ! Thật hy hữu thay, thưa Tôn giả ! Ở đây sẽ
không có tự khen pháp của mình, không có chê trách pháp của
người khác, chỉ có thuyết pháp trong giới xứ, chỉ nói đến
mục đích mà không đề cập đến tự ngã.
Thưa Tôn giả, Tôn
giả thuyết pháp để đoạn tham, thuyết pháp để đoạn sân,
thuyết pháp để đoạn si, và thưa Tôn giả, pháp được Tôn
giả khéo thuyết. Thưa Tôn giả Ànanda, Tôn giả thực hành đoạn
tham, … đoạn sân, … Tôn giả thực đoạn si, Tôn giả đã
khéo thực hành ở đời. Thưa Tôn giả Ànanda, tham đã được
Tôn giả đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân
cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh
khởi trong tương lai … sân đã được Tôn giả đoạn tận
… si đã được Tôn giả đoạn tận, cắt đứt từ gốc
rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm
cho không thể sanh khởi trong tương lai. Tôn giả đã khéo vượt
qua ở đời.
Thật vi diệu thay, thưa
Tôn giả ! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả ! Thưa Tôn giả,
người như dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống
… Thưa Tôn giả Ànanda, con nay xin quy y Thế Tôn, quy y pháp và
chúng Tăng. Mong Tôn giả Ànanda nhận con làm đệ tử cơ sở,
từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng !
NGƯỜI
HỌ THÍCH
1. Một thời, Thế Tôn
trú giữa dân chúng Thích tử, tại Kapilavatthu, ở khu vườn
Nigrodha.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn
khỏi bệnh, được khỏi bệnh không bao lâu. Rồi họ Thích
Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích
(Sakka) bạch Thế Tôn :
- Đã lâu ngày, bạch
Thế Tôn, con biết pháp đã do đó dạy như sau : "Trí đến
với người định tĩnh, không đến với người không định
tĩnh". Bạch Thế Tôn, định đến trước rồi trí đến
sau ? Hay trí đến trước rồi định đến sau ?
Rồi Tôn giả Ànanda
suy nghĩ như sau : "Thế Tôn mới khỏi bệnh, khỏi bệnh
không bao lâu. Họ Thích Mahànàma này hỏi một câu rất thâm
sâu. Vậy ta hãy đưa họ Thích Mahànàma qua một bên và
thuyết pháp cho họ Thích".
Rồi Tôn giả Ànanda
cầm tay họ Thích Mahànàma, kéo qua một bên rồi nói với
họ Thích Mahànàma :
- Giới của bậc hưu
học, này Mahànàma, được Thế Tôn nói đến. Và giới của
bậc vô học cũng được Thế Tôn nói đến. Định bậc hữu
học được Thế Tôn nói đến. Định bậc vô học cũng được
Thế Tôn nói đến. Tuệ bậc hữu học được Thế Tôn nói
đến. Tuệ bậc vô học cũng được Thế Tôn nói đến
Này Mahànàma, thế nào
là bậc hữu học ?
Ở đây, này Mahànàma,
vị Tỷ-kheo giữ giới, sống hộ trì với sự hộ trì của
giới bổn, đầy đủ quy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong
những lỗi nhỏ nhặt, cấp nhận và học tập các học
giới. Này Mahànàma, đây là giới bậc hữu học.
Và này Mahànàma, thế
nào là định bậc hữu học ?
Ở đây, này Mahànàma,
ly dục, ly bất thiện pháp, vị Tỷ-kheo chứng đạt và an trú
sơ Thiền … chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Này Mahànàma,
đây là định của bậc hữu học.
Và này Mahànàma, thế
nào là trí tuệ của bậc hữu học ?
Ở đây, này Mahànàma,
vị Tỷ-kheo như thật quán tri : "Đây là khổ" … như
thật quán tri : "Đây là con đường đưa đến Khổ
diệt". Này Mahànàma, đây gọi là trí tuệ của bậc
Hữu học. Vị Thánh đệ tử như vậy đầy đủ giới, như
vậy đầy đủ định, như vậy đầy đủ tuệ, do đoạn
tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Như vậy, này Mahànàma, là giới bậc Hữu
học được Thế Tôn thuyết, là giới bậc Vô học được
Thế Tôn thuyết, là định bậc Hữu học được Thế Tôn
thuyết, là định bậc Vô học được Thế Tôn thuyết, là
tuệ bậc Hữu học được Thế Tôn thuyết, là tuệ bậc Vô
học được Thế Tôn thuyết.
VỊ
LÕA THỂ
1. Một thời, Tôn
giả Ànanda trú tại Vesàli, rừng Đại Lâm, trong ngôi giảng
đường có góc nhọn. Rồi Abhaya người Licchavi và Panditakumàrako
người Licchiva, đi đến Tôn giả Ànanda, sau khi đến, đảnh
lễ Tôn giả Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Abhaya người Licchiva thưa với Tôn giả Ànanda :
- Niganthà Nàthaputta,
thưa Tôn giả, tự cho là toàn tri, toàn kiến, có tri kiến toàn
diện : "Khi ta đi, ta đứng, ta ngủ, ta thức, tri kiến luôn
luôn được an trú, không có gián đoạn". Vị ấy tuyên
bố chấm dứt các nghiệp cũ với khổ hạnh, và phá hoại các
nghiệp mới với vô Visàkhà (không hành động). Như vậy, do
nghiệp đoạn diệt nên khổ đoạn diệt ; do khổ đoạn
diệt nên thọ đoạn diệt ; do thọ đoạn diệt nên tất cả
khổ sẽ được tiêu diệt. Như vầy là (pháp môn) siêu thoát,
thanh tịnh, diệt nhiệt não, thiết thực hiện tại. Ở đây,
thưa Tôn giả, Thế Tôn nói thế nào ?
- Này Abhaya, có ba (pháp
môn) thanh tịnh, diệt nhiệt não, được Thế Tôn, bậc Trí
giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh
tuyên bố, khiến chúng sanh được thanh tịnh, khiến vượt
qua sầu bi, khiến chấm dứt khổ ưu, khiến đạt được chánh
lý, khiến chứng được Niết bàn. Thế nào là ba ?
Ở đây, này Abhaya,
vị Tỷ-kheo giữ giới, sống hộ trì với sự hộ trì của
giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong
những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học
giới. Vị ấy không làm các nghiệp mới, và với các nghiệp
cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các nghiệp ấy. Đây là
(sự thanh tịnh thứ nhất), thiết thực hiện tại, diệt
nhiệt não, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.
Vị Tỷ-kheo ấy, này
Abhaya, đầy đủ với giới như vậy, ly dục, ly pháp bất
thiện, chứng đạt và an trú sơ thiền … chứng đạt và an
trú thiền thứ tư. Vị ấy không làm các nghiệp mới, và
với các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các
nghiệp ấy. Đây là (sự thanh tịnh thứ hai), thiết thực
hiện tại, diệt nhiệt não, không có thời gian, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình
giác hiểu.
Vị Tỷ-kheo ấy, này
Abhaya, đầy đủ với giới như vậy, với sự đoạn diệt các
lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí,
chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Vị ấy không làm các nghiệp mới, và với
các nghiệp cũ ảnh hưởng đến mình, chấm dứt các nghiệp
ấy. Đây là (sự thanh tịnh thứ ba), thiết thực hiện tại,
diệt nhiệt não, không có thời gian, đến để mà thấy, có
khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác
hiểu.
Này Abhaya, có ba sự
thanh tịnh, diệt nhiệt não này, được Thế Tôn, bậc Trí
giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác chơn chánh
tuyên bố, khiến chúng sanh được thanh tịnh, vượt qua sầu
bi, chấm dứt ưu khổ, đạt được chánh lý, chứng được
Niết bàn.
Khi được nói như
vậy, Panditakumàrako người Licchavi nói với Abhaya người
Licchavi:
- Này bạn Abhaya, bạn
có tín thọ lời khéo nói của Tôn giả Ànanda là khéo nói không?
- Này bạn, tôi là ai
lại không tín thọ lời khéo nói của Tôn giả Ànanda là khéo
nói. Đầu người ấy sẽ vỡ tan, nếu ai không tín thọ lời
khéo nói của Tôn giả Ànanda là khéo nói.
- CẦN PHẢI KHÍCH LỆ
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn
nói với Tôn giả Ànanda đang ngồi xuống một bên :
- Này Ànanda, với ai, Thầy có lòng
từ mẫn, và với những ai, Thầy nghĩ là nên nghe theo, các bạn bè, thân hữu,
bà con hay cùng một huyết thống ? Với những người ấy, này Ànanda, Thầy
cần phải khích lệ, cần phải hướng dẫn, cần phải an trú trong ba điểm.
Thế nào là ba ?
Hãy khích lệ, hướng dẫn và an
trú vào tịnh tín bất động đối với Đức Phật : "Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Mạng Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Nghị Trượng Phu, Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn".
Hãy khích lệ, hướng dẫn và an trú vào tịnh tín bất động đối với
pháp : "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến đề mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự mình giác hiểu". Hãy khích lệ, hướng dẫn và an trú
vào tịnh tín bất động đối với chúng Tăng : "Diệu hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Ứng
lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử
của Thế Tôn. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, được cúng
dường, đáng tôn trọng, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng
ở đời".
Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ànanda, địa đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh đệ tử
thành tựu tịnh tín bất động đối với Phật không có đổi khác. Ở đây,
đổi khác là như thế này : Vị Thánh đệ tử ấy, này Ànanda, thành tựu
tịnh tín bất động đối với đức Phật, sẽ sanh vào địa ngục, loại
bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ànanda, địa đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh đệ tử
thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp không có đổi khác. Ở đây,
đổi khác là như thế này : Vị Thánh đệ tử ấy, này Ànanda, thành tựu
tịnh tín bất động đối với đức Pháp, sẽ sanh vào địa ngục, loại
bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Dầu cho bốn đại chúng có đổi
khác, này Ànanda, địa đại, hỏa đại, phong đại, nhưng vị thánh đệ tử
thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng không có đổi khác.
Ở đây, đổi khác là như thế này : Vị Thánh đệ tử ấy, này Ànanda,
thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng, sẽ sanh vào địa ngục,
loại bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Sự kiện này không xảy ra.
Này Ànanda, với ai Thầy có lòng từ
mẫn, và với những ai Thầy nghĩ là nên nghe theo, các bạn bè, thân hữu,
bà con hay cùng một huyết thống ? Với những người ấy, này Ànanda, Thầy
cần phải khích lệ, cần phải hướng dẫn, cần phải an trú trong ba điểm
này.
HIỆN HỮU
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Hữu, hữu, bạch Thế Tôn, được
nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, được xem là
có hữu ?
- Này Ànanda, nếu không có hành động
(nghiệp) và sự chín muồi của dục giới thời dục hữu có thể trình
bày được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới thấp
kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này
Ànanda, hữu có mặt.
Và này Ànanda, nếu không có hành
động và sự chín muồi của sắc giới, thời sắc hữu có thể trình bày
được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc
trung. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này
Ànanda, hữu có mặt.
Và này Ànanda, nếu không có hành
động và sự chín muồi của vô sắc giới, thời vô sắc hữu có thể
trình bày được không ?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên thức được an lập trong giới bậc
thù thắng. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh khởi. Như vậy, này
Ànanda, hữu có mặt.
TƯ VÀ KHỞI ĐIỂM
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả
Ànanda bạch Thế Tôn :
(như kinh trên cho đến) …
- Như vậy, này Ànanda, nghiệp là
thửa ruộng, thức là hột giống, ái là sự nhuận ướt. Chúng sanh bị
vô minh che lấp, bị ái trói buộc, nên tư được an lập, khởi điểm được
an lập trong giới thấp kém. Như vậy, trong tương lai có sự tái sanh sanh
khởi. Như vậy, này Ànanda, hữu có mặt.
- (Đoạn còn lại như kinh trên, chỉ
khác thức được tư và khởi điểm thay thế) …
SỰ HẦU HẠ GIÚP ĐỠ
(Nhân duyên như kinh trên). Thế Tôn
nói với Tôn giả Ànanda đang ngồi một bên :
- Này Ànanda, mọi giới cấm, sinh sống
Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản đều có quả phải không ?
- Ở đây, bạch Thế Tôn, không thể
trả lời một chiều được.
- Vậy này Ànanda, hãy phân tích
thêm !
- Bạch Thế Tôn, phàm giới cấm,
sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản nào được áp dụng, khiến
pháp không thiện tăng trưởng, pháp thiện đoạn tận, thời giới cấm,
sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản như vậy không có kết quả.
Và bạch Thế Tôn, phàm giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn
bản nào được áp dụng, khiến pháp không thiện đoạn tận, pháp thiện
tăng trưởng, thời giới cấm, sinh sống Phạm hạnh, sự hầu hạ căn bản
như vậy có kết quả.
Tôn giả Ànanda nói như vậy và bậc
Đạo Sư đồng ý.
Rồi Tôn giả Ànanda nghĩ : "Bậc
Đạo Sư đã đồng ý với ta", từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía hữu
hướng về ngài rồi ra đi.
Rồi Thế Tôn, khi Tôn giả Ànanda
ra đi không bao lâu, nói với các Tỷ-kheo :
- Này các Tỷ-kheo, Ànanda còn là hữu
học, nhưng không dễ gì tìm được người có trí tuệ ngang bằng.
HƯƠNG
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :
- Có ba loại cây hương này, bạch
Thế Tôn, hương của chúng bay theo gió, không bay ngược gió. Thế nào là
ba ? Cây hương rễ, cây hương lõi và cây hương hoa. Có ba loại cây hương
này, bạch Thế Tôn, hương của chúng bay theo chiều gió, không bay ngược
gió. Bạch Thế Tôn, có thể có loại cây hương nào, có hương bay thuận
gió, có hương bay ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió ?
- Có loại cây hương, có hương bay
thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió.
2. - Bạch Thế Tôn, loại cây hương
ấy là gì, có hương bay thuận gió, có hương bay ngược gió, có hương bay
thuận gió ngược gió ?
- Ở đây, này Ànanda, tại làng
nào hay tại thị trấn nào, có nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp,
quy y chúng Tăng, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống
tà hạnh trong dục vọng, từ bỏ nói láo, từ bỏ dùng rượu, men rượu nấu
làm say người, giữ giới, tâm tánh hiền lương, sống trong nhà với tâm
không nhiễm xan tham, bố thí không luyến tiếc với tay rộng mở, thích
thú từ bỏ, sẵn sàng được yêu cầu, ưa thích chia xẻ đồ bố thí. Người
như vậy, được các Sa-môn, Bà-la-môn tán thán khắp bốn phương : tại làng
ấy, hay tại thị trấn ấy, có nữ nhân hay nam nhân quy y Phật, quy y Pháp,
quy y chúng Tăng, … ưa thích chia xẻ đồ bố thí. Chư Thiên và các phi
nhân cũng tán thán : tại làng ấy, hay tại thị trấn ấy, có nữ nhân hay
nam nhân quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, … ưa thích chia xẻ đồ bố
thí. Cây hương như vậy, này Ànanda, có hương bay thuận gió, có hương bay
ngược gió, có hương bay thuận gió ngược gió.
Không một hương hoa nào
Bay ngược chiều gió thổi
Dầu là hoa chiên-đàn
Già-là hay mạt-ly
Chỉ hương người đức hạnh
Bay ngược chiều gió thổi
Chỉ có Bậc Chân nhân
Biến mãn mọi phương trời.
ABHIBHÙ
1. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế
Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống
một bên, Tôn giả bạch Thế Tôn :
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn,
con được nắm giữ trước mặt Thế Tôn : "Abhibhù đệ tử Đức Phật
Sikhi, đứng ở Phạm Thiên Giới, có thể làm cho ngàn thế giới nghe tiếng
của mình". Nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào ?
- Vị ấy chỉ là một đệ tử, này
Ànanda. Các Như Lai là vô lượng.
Lần thứ hai, Tôn giả Ànanda bạch
Thế Tôn :
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn,
… có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào ?
- Vị ấy chỉ là một đệ tử, này
Ànanda. Các Như Lai là vô lượng.
2. Lần thứ ba, Tôn giả Ànanda bạch
Thế Tôn :
- Con được nghe trước mặt Thế Tôn,
… có thể làm cho nghe tiếng xa như thế nào ?
- Này Ànanda, Thầy có được nghe nói
đến tiển thiên thế giới không ?
- Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn
! Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn Thiên Thệ, để Thế Tôn nói về vấn
đề này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này Ànanda, hãy nghe và khéo
tác ý, ta sẽ nói.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ànanda vâng đáp Thế Tôn,
Thế Tôn nói như sau :
3. - Xa cho đến mặt trăng, mặt trời
chạy trong quỹ đạo của chúng và chói sáng khắp bốn phương với ánh
sáng của chúng, xa như vậy là một ngàn thế giới. Trong ấy có một ngàn
mặt trăng, một ngàn mặt trời, một ngàn núi Sinêru (Tu-di), một ngàn
Jambudìta (Diêm phù đề), một ngàn Aparagoyànà (Tây ngưu hóa châu), một
ngàn Uttarakurù (Bắc-cu-vô châu), một ngàn Pubbavidehà (Đông thắng thần
châu), bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn đại vương, 1000 cõi trời Bốn
thiên vương, 1000 cõi trời ba mươi ba, 1000 Dạ ma thiên, 1000 Tusità (Đâu suất
thiên), 1000 Hóa Lạc thiên, 1000 Tha Hóa Tự tại thiên, 1000 Phạm Thiên. Này
Ànanda, đây gọi là một tiểu thiên thế giới. Này Ànanda, cho đến 1000 lần
một tiểu thiên thế giới, được gọi là, này Ànanda, ba Đại thiên thế
giới. Này Ànanda, Như Lai có thể làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn
Đại thiên thế giới hay xa hơn nữa nếu muốn.
4. - Làm sao, bạch Thế Tôn, Thế
Tôn có thể làm cho tiếng mình nghe xa cho đến ba ngàn Đại thiên thế giới
hay xa hơn nữa nếu muốn ?
- Ở đây, này Ànanda, Như Lai chiếu
ánh sáng cho đến ba ngàn Đại thiên thế giới, cho đến khi các chúng sanh
nhận thức được ánh sáng ấy. Rồi Thế Tôn phát âm và làm cho tiếng
mình được nghe. Như vậy, này Ànanda, Như Lai làm cho tiếng mình nghe xa cho
đến ba ngàn Đại thiên thế giới hay xa hơn nữa nếu muốn.
5. Khi được nói như vậy, Tôn giả
Ànanda nói với Tôn giả Udàyi :
- Được lợi thay cho tôi, khéo được
lợi thay cho tôi, có được bậc Đạo sư có thần lực như vậy, có uy lực
như vậy !
Khi được nghe nói như vậy, Tôn giả
Udàyi nói với Tôn giả Ànanda :
- Này Hiền giả Ànanda, ở đây Hiền
giả nghĩ có được gì, nếu bậc Đạo sư của Hiền giả có đại thần
lực như vậy, có đại uy lực như vậy ?
Khi được nghe nói như vậy, Thế Tôn
nói với Tôn giả Udàyi :
- Chớ có nói như vậy, này Udàyi ;
chớ nói vậy, này Udàyi. Này Udàyi, nếu Ànanda chưa có đoạn tận tham và
mệnh chung, nhưng với tâm tịnh tín của mình, vị ấy có thể bảy lần
ngự trị trên thế giới chư Thiên, có thể bảy lần ngự trị trên cõi
Jambudìpa này. Nhưng này Udàyi, Ànanda ngay trong hiện tại sẽ được Bát-Niết-bàn.