- KINH
TÙY PHIỀN NÃO
- (Upakkilesasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Kosambi (Kiều-thưởng-di),
tại tịnh xá Ghosita (Cu-sư-la). Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo ở Kosambi sống cạnh
tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng
lưỡi. Rồi một Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến đảnh lễ Thế
Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo
ở Kosambi, sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng
những binh khí miệng lưỡi. Tốt lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn
vì lòng từ mẫn, đến các Tỷ-kheo ấy.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi
Thế Tôn đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến liền nói với họ :
– Thôi vừa rồi, các Tỷ-kheo ! Chớ
có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau !
Khi nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch
Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn bậc
Pháp Chủ, hãy dừng lại ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc lòng ! Thế
Tôn hãy an trú, chú tâm và hiện tại lạc trú ! Vì rằng chúng con chịu
trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh này.
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với
các Tỷ-kheo ấy :
– Thôi vừa rồi, này các Tỷ-kheo
! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau.
Lần thứ hai Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn :
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn bậc
Pháp Chủ hãy dừng lại ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc lòng ! Thế
Tôn hãy an trú, chú tâm và hiện tại lạc trú ! Vì rằng chúng con chịu
trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh này.
Lần thứ ba, Thế Tôn nói với các
Tỷ-kheo ấy :
– Thôi vừa rồi, này các Tỷ-kheo
! Chớ có cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh nhau !
Lần thứ ba, Tỷ-kheo ấy bạch Thế
Tôn :
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn bậc
Pháp Chủ hãy dừng lại ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có nhọc lòng ! Thế
Tôn hãy an trú, chú tâm vào hiện tại lạc trú ! Vì rằng chúng con chịu
trách nhiệm về sự cạnh tranh, luận tranh, phân tranh, đấu tranh này.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp
y, cầm y bát và đi vào Kosambi để khất thực. Sau khi đi khất thực ở
Kosambi, ăn xong, trên con đường khi khất thực trở về, sau khi dọn dẹp
chỗ nằm, lấy y bát, Ngài đứng và nói bài kệ:
- Giữa quần chúng la ó,
- Không ai nghĩ mình ngu,
- Giữa Tăng chúng phân ly
- Có ai nghĩ hướng thượng ?
- Thất niệm kẻ trí nói,
- Ba hoa trăm thứ chuyện,
- Miệng há, nói thả dàn,
- Dẫn đi đâu, ai biết ?
- "Nó mắng tôi, đánh tôi !
- Nó hại tôi, cướp tôi !"
- Ai ôm oán niệm ấy,
- Hận thù không thể nguôi.
- "Nó mắng tôi, đánh tôi !
- Nó hại tôi, cướp tôi !"
- Không ôm oán niệm ấy,
- Hận thù sẽ tự nguôi.
- Hận thù diệt hận thù,
- Không đời nào diệt được,
- Từ bi diệt hận thù,
- Là định luật ngàn thu.
- "Người khác không hiểu biết,
- Ở đây ta bị diệt",
- Những ai hiểu điều này,
- Nhờ vậy, tranh luận tiêu.
- Kẻ chủ xướng hại mạng,
- Cướp bò, ngựa tài sản,
- Kẻ cướp đoạt quốc độ,
- Họ còn biết đoàn kết,
- Sao các Ông không vậy ?
- Nếu được bạn hiền trí,
- Đồng hành, khéo an trú,
- Đả thắng mọi hiểm nạn,
- Sống hoan hỷ chánh niệm.
- Nếu không bạn hiền trí,
- Như vua bỏ quốc độ,
- Cô độc như voi rừng.
- Tốt hơn, sống một mình,
- Không bè bạn kẻ ngu,
- Cô độc không làm ác,
- Nhàn hạ, như voi rừng.
Rồi Thế Tôn đứng nói lên những
câu kệ này, rồi đi đến làng Balakalonakara. Khi ấy, Tôn giả Bhagu sống
ở trong làng Balakalonakara. Tôn giả Bhagu thấy Thế Tôn từ xa đi đến, liền
sắp đặt chỗ ngồi và nước rửa chân. Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã
soạn sẵn; sau khi ngồi, Ngài rửa chân. Tôn giả Bhagu đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Bhagu đang ngồi một
bên:
– Này Tỷ-kheo, có được an lành
không ? Có được sống yên vui không ? Đi khất thực, có khỏi mệt nhọc
không ?
– Bạch Thế Tôn, con được an lành.
Bạch Thế Tôn, con sống yên vui. Bạch Thế Tôn, con đi khất thực khỏi có
mệt nhọc.
Rồi Thế Tôn sau khi với thời thuyết
pháp khích lệ Tôn giả Bhagu, làm cho hân hoan, làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Pacinavamsadaya. Lúc bấy giờ,
Tôn giả Anurudha (A-na-luật), Tôn giả Nandiya (Nan-đề) và Tôn giả Kimbila
(Kim-ty- la) trú ở Pacinavamasadaya. Người giữ vườn thấy Thế Tôn từ xa
đi đến, khi thấy vậy liền bạch Thế Tôn:
Này Sa-môn, chớ có vào khu vườn này.
Có ba Thiện gia nam tử, rất ái luyến tự ngã (attakamanipa) trú tại đây.
Chớ có phiền nhiễu các vị ấy.
Tôn giả Anuruddha nghe người giữ
khu vườn nói chuyện với Thế Tôn, liền nói với người giữ vườn:
– Này người Giữ vườn, chớ có
ngăn chặn Thế Tôn ! Thế Tôn bậc Đạo sư của chúng tôi đã đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn
giả Nandiya và Tôn giả Kimbila và nói:
– Chư Tôn giả hãy đến ! Chư Tôn
giả hãy đến ! Thế Tôn, bậc Đạo sư của chúng ta đã đến.
Rồi Tôn giả Anuruddha, Tôn giả
Nandiya và Tôn giả Kimbila ra đón Thế Tôn, một người cầm y bát Thế
Tôn, một người sửa soạn chỗ ngồi, một người đặt sẵn nước rửa
chân. Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn; sau khi ngồi, Thế Tôn
rửa chân. Rồi các Tôn giả ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một
bên. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Anuruddha đang ngồi xuống một bên :
Này các Anuruddha, các Ông có được
an lành không ? Có được sống yên vui không ? Đi khất thực có khỏi mệt
nhọc không ?
– Bạch Thế Tôn, chúng con được
an lành. Bạch Thế Tôn, chúng con sống yên vui. Bạch Thế Tôn, chúng con đi
khất thực khỏi có mệt nhọc.
– Này các Anuruddha, các Ông có sống
hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau. Như nước với sữa, sống
nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm không ?
– Bạch Thế Tôn, thật sự chúng
con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, không có cãi nhau, như nước với sữa,
sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.
Này các Anuruddha, như thế nào các
Ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau
với cặp mắt thiện cảm ?
– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng
con nghe như sau : "Thật lợi ích thay cho ta ! Thật khéo lợi ích thay cho
ta, khi ta được sống với các đồng Phạm hạnh như vậy ! Bạch Thế Tôn,
do vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh này, con khởi lên từ thân
nghiệp, trước mặt và sau lưng; con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước mặt
và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng. Bạch Thế
Tôn do vậy chúng con nghĩ như sau : "Ta hãy từ bỏ tâm của ta và sống
thuận theo tâm của những Tôn giả này". Và bạch Thế Tôn, con từ bỏ
tâm của con, và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế
Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm.
Rồi Tôn giả Nandiya... (như trên)...
Rồi Tôn giả Kimbila bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng
con nghĩ như sau : "Thật lợi ích thay cho ta ! Thật khéo lợi ích thay
cho ta, khi ta được sống với các vị đồng Phạm hạnh như vậy !" Bạch
Thế Tôn, do vậy đối với các vị đồng Phạm hạnh này, con khởi lên từ
thân nghiệp, trước mặt và sau lưng; con khởi lên từ khẩu nghiệp, trước
mặt và sau lưng, con khởi lên từ ý nghiệp, trước mặt và sau lưng. Bạch
Thế Tôn, do vậy chúng con nghĩ như sau : "Ta hãy từ bỏ tâm của ta và
sống thuận theo tâm của những Tôn giả này". Và bạch Thế Tôn, con từ
bỏ tâm của con và sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy. Bạch Thế
Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. Bạch Thế
Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa,
sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm.
Lành thay, lành thay, này các
Anuruddha ! và này các Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần không ?
– Bạch Thế Tôn, thật sự chúng
con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần ?
– Này các Anuruddha, như thế nào,
các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn chúng
con ai đi vào làng khất thực về trước, người ấy sắp đặt các chỗ
ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát để bỏ
đồ dư. Ai đi vào làng khất thực về sau, người ấy, còn đồ ăn để lại,
nếu muốn thì ăn, nếu không muốn thời bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay
đổ vào nước không có loài côn trùng. Người ấy xếp dọn lại các chỗ
ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ
dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân,
hay ghè nước trong nhà cầu hết nước trống không, người ấy sẽ lo liệu
(nước). Nếu làm không nỗi với sức bàn tay của mình, người ấy dùng
tay ra hiệu gọi người thứ hai: "Chúng ta hãy lo liệu (nước)". Dầu
vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không vì vậy gây ra tiếng động. Và đến
ngày thứ năm, bạch Thế Tôn, suốt cả một đêm chúng con ngồi đàm luận
về đạo pháp. Như vậy, bạch Thế Tôn, chúng con sống không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần.
– Lành thay, lành thay, này các
Anurudda ! Này Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần
như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân tri kiến thù thắng,
xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái an lạc không ?
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng
con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, chúng con nhận thấy
được hào quang, cũng như sự hiện khởi các sắc pháp. Nhưng hào quang ấy
không bao lâu biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Chúng con
không được hiểu rõ tướng ấy là gì .
– Này các Anuruddha, tướng ấy các
Ông cần phải hiểu rõ. Ta cũng vậy, này các Anuruddha, trước khi giác ngộ,
chưa chứng Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta nhận thấy hào quang và sự
hiện khởi các sắc pháp. Nhưng hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi
Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như
sau : "Do nhân gì, do duyên gì hào quang biến mất đối với Ta, cùng với
sự hiện khởi các sắc pháp". Này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Nghi hoặc khởi lên nơi Ta. Vì có nghi hoặc nên định của Ta bị biến
diệt; khi định biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi
các sắc pháp. Vậy Ta sẽ phải làm thế nào để nghi hoặc không khởi
lên nơi Ta nữa". Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần, nhận thấy được hào quang cùng với sự hiện khởi các sắc
pháp. Nhưng hào quang ấy không bao lâu biến mất nơi Ta, cùng với sự hiện
khởi các sắc pháp. Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Do nhân
gì, do duyên gì, hào quang biến mất nơi Ta, cùng với sự hiện khởi của
các sắc pháp ?" Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Không
tác ý khởi lên nơi Ta Vì không có tác ý, nên định bị biến diệt nơi
Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi
các sắc pháp. Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi hoặc và không tác
ý không khởi lên nơi Ta nữa". Rồi này các Anuruddha, Ta sống không
phóng dật.. (như trên)... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Hôn
trầm, thụy miên, khởi lên nơi Ta. Vì có hôn trầm, thụy miên nên định
của Ta bị biến diệt; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất cùng
với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm như thế nào để nghi
hoặc, không tác ý và hôn trầm, thụy miên không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật... (như trên)... Rồi này
các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Sự sợ hãi khởi lên nơi Ta. Vì có
sợ hãi, nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào
quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp". Ví như, này
các Anuruddha, một người đang đi trên con đường, có kẻ giết người nhảy
đến (công kích) từ hai phía. Do nhân duyên từ hai phía, người ấy khởi
lên sợ hãi. Cũng vậy, này các Anuruddha, sợ hãi khởi lên nơi Ta. Vì có sợ
hãi, nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang
biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm thế
nào để nghi hoặc, không tác ý hôn trầm, thụy miên và sự sợ hãi không
khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta sống
không phóng dật.. (như trên)... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Sự phấn chấn (ubbilla) khởi lên nơi Ta. Vì có sự phấn chấn, nên
định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất
cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. (Ví như, này các Anuruddha, một người
đi tìm cửa miệng một kho tàng, và trong một lần tìm được năm cửa miệng
kho tàng, do nhân duyên này phấn chấn khởi lên. Cũng vậy, này các
Anuruddha, phấn chấn khởi lên nơi Ta). Vì có phấn chấn nên định bị biến
diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt mất cùng với sự hiện khởi các sắc
pháp. Vậy Ta phải làm thế nào, để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy
miên, sợ hãi và sự phấn chấn không khởi lên nơi Ta nữa". Rồi này
các Anuruddha, Ta sống không phóng dật... (như trên)... Rồi này các
Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Dâm ý (dutthullam) khởi lên nơi Ta. Vì có
dâm ý, nên định bị biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào
quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm
thế nào để nghi hoặc không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn
chấn, dâm ý không khởi lên nơi Ta nữa". Rồi này các Anuruddha, Ta sống
không phóng dật.... (như trên)... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Sự tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta, và vì có tinh cần quá độ, nên
định lực biến diệt nơi Ta; khi định bị biến diệt, hào quang biến mất
cùng với sự hiện khởi các sắc pháp (Ví như này các Anuruddha, một người
với hai tay bắt nắm quá chặt một con chim cáy khiến con chim chết liền tại
chỗ. Cũng vậy, này các Anuruddha, tinh cần quá độ khởi lên nơi Ta. Vì
có tinh cần quá độ... cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. ) Vậy Ta
phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ
hãi, phấn chấn, dâm ý, và tinh cần quá độ không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta sống không phóng dật... (như trên)... Rồi này
các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Tinh cần quá yếu đuối khởi lên nơi
Ta. Vì có tinh cần quá yếu đuối, nên định biến diệt nơi Ta; khi định
biến diệt, hào quang biến mất cùng với sự hiện khởi các sắc pháp.
(Ví như này các Anuruddha, một người bắt một con chim cáy quá lỏng lẻo,
con chim ấy bay khỏi hai tay của người ấy. Cũng vậy, này các Anuruddha,
... (như trên)... cùng với sự hiện khởi các sắc pháp). Vậy Ta phải làm
thế nào để nghi hoặc, không tác ý, hôn trầm, thụy miên, sợ hãi, phấn
chấn, dâm ý, tinh cần quá độ và tinh cần quá yếu đuối không khởi
lên nơi Ta nữa". Rồi này các Anuruddha, Ta sống phóng dật ... (như trên)
... Rồi này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Ái dục khởi lên nơi
Ta. Vì có ái dục.. với sự hiện khởi các sắc pháp... (như trên)... Vậy
Ta phải làm thế nào để nghi hoặc, không tác ý... (như trên)... tinh cần
quá yếu đuối và ái dục không khởi lên nơi Ta nữa". Rồi này các
Anuruddha, Ta sống... Rồi này các Anuruddha, Ta nghĩ như sau : "Sai biệt
tưởng khởi lên nơi Ta... cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta
phải làm thế nào để nghi hoặc... (như trên)... ái dục và sai biệt tưởng
không khởi lên nơi Ta nữa".
Rồi này các Anuruddha, Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và Ta nhận thấy được hào quang
cùng với sự hiện khởi sắc pháp. Những hào quang ấy không bao lâu biến
mất nơi Ta cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Rồi này các Anuruddha,
Ta suy nghĩ như sau : "Do nhân gì, do duyên gì, hào quang biến mất nơi Ta
cùng với sự hiện khởi các sắc pháp ?" Rồi này các Anuruddha, Ta suy
nghĩ như sau : "Một trạng thái quá chú tâm vào các sắc pháp khởi
lên nơi Ta... cùng với sự hiện khởi các sắc pháp. Vậy Ta phải làm như
thế nào để nghi hoặc.. (như trên)... các tưởng sai biệt và trạng thái
quá chú tâm vào các sắc pháp không khởi lên nơi Ta nữa". Rồi này
các Anuruddha, sau khi biết được nghi hoặc là một phiền não của tâm, Ta
đoạn trừ nghi hoặc, phiền não của tâm; sau khi biết được không tác ý
là một phiền não của tâm, Ta đoạn trừ không tác ý, phiền não của
tâm; sau khi biết được hôn trầm, thụy miên... sau khi biết được sợ hãi...
sau khi biết được phấn chấn.... sau khi biết được dâm ý... sau khi biết
được sự tinh cần quá độ... sau khi biết được sự tinh cần quá yếu
đuối... sau khi biết được dục ái... sau khi biết được tưởng sai biệt;
sau khi biết được trạng thái quá chú tâm đến sắc pháp là một phiền
não của tâm, Ta đoạn trừ trạng thái quá chú trọng vào các sắc pháp, một
phiền não của tâm.
Rồi này các Anuruddha, Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy được hào quang nhưng Ta
không thấy các sắc pháp cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày. Ta thấy
các sắc pháp nhưng không nhận thấy hào quang. Về vấn đề này, này các
Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Do nhân gì, do duyên gì, Ta chỉ nhận thấy
hào quang, nhưng không thấy sắc pháp : cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả
ngày ?" Ta chỉ thấy các sắc pháp nhưng không nhận thấy hào quang. Về
vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Trong khi Ta không
tác ý sắc tướng, nhưng có tác ý hào quang tướng, trong khi ấy ta nhận
thấy hào quang, (nhưng) không thấy sắc pháp. Còn trong khi Ta không tác ý
hào quang tướng (nhưng) tác ý sắc tướng; trong khi ấy Ta thấy các sắc
pháp, (nhưng) không nhận thấy hào quang, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả
ngày".
Rồi này các Anuruddha, Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, nhận thấy hào quang có hạn lượng
và thấy được các sắc pháp có hạn lượng; nhận thấy hào quang vô lượng
và nhận thấy được các sắc pháp vô lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm
và cả ngày. Về vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau :
"Do nhân gì, do duyên gì, Ta nhận thấy hào quang có hạn lượng và thấy
các sắc pháp có hạn lượng; nhận thấy hào quang vô lượng và thấy được
các sắc pháp vô lượng, cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả ngày ?" Về
vấn đề này, này các Anuruddha, Ta suy nghĩ như sau : "Khi nào định có
hạn lượng, khi ấy mắt của Ta có hạn lượng; với con mắt có hạn lượng.
Ta nhận thấy hào quang có hạn lượng và thấy sắc pháp có hạn lượng.
Nhưng khi nào định của Ta không hạn lượng, trong khi ấy mắt của Ta thành
vô lượng, và với con mắt vô lượng ấy, Ta nhận thấy hào quang vô lượng
và thấy các sắc pháp vô lượng cả đêm, cả ngày, cả đêm và cả
ngày".
Này các Anuruddha, khi nào biết được
nghi hoặc là một phiền não của tâm, thời nghi hoặc phiền não của tâm
được đoạn trừ; khi nào biết được không tác ý là một phiền não của
tâm, thời không tác ý phiền não của tâm được đoạn trừ; khi nào biết
được hôn trầm, thụy miên... ; khi nào biết được sợ hãi... ; khi nào
biết được phấn chấn... ; khi nào biết được dâm ý... ; khi nào biết
được tinh cần quá độ... ; khi nào biết được sự tinh cần quá yếu
đuối... ; khi nào biết được dục ái... ; khi nào biết được tưởng sai
biệt... ; khi nào biết được trạng thái quá chú tâm đến các sắc pháp
là một phiền não của tâm, thời trạng thái quá chú tâm đến các sắc
pháp một phiền não của tâm được đoạn trừ. Rồi này các Anuruddha, Ta
suy nghĩ như sau : "Những phiền não tâm của Ta đã được đoạn trừ.
Nay Ta tu tập ba loại định". Rồi này các Anuruddha, Ta tu tập định có
tầm, có tứ; Ta tu tập định không có tầm, chỉ có tứ; Ta tu tập định
không tầm không tứ; Ta tu tập định có hỷ; Ta tu tập định không có hỷ;
Ta tu tập định câu hữu với lạc; Ta tu tập định câu hữu với xả.
Này các Anuruddha, khi nào Ta tu tập định có tầm, có tứ; khi nào Ta tu tập
định không tầm chỉ có tứ; khi nào Ta tu tập định không có tầm, không
có tứ; khi nào Ta tu tập định có hỷ; khi nào Ta tu tập định không có hỷ;
khi nào Ta tu tập định câu hữu với xả, thời tri kiến khởi lên nơi Ta:
"Giải thoát của Ta là bất động, đây là đời sống cuối cùng của
Ta, nay không còn hiện hữu".
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn
giả Anuruddha hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn
dạy