SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 16
PHẨM ĐẠI (phần sau)
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa
tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Tỳ-kheo
Trà-đế Kê-hòa-đa Tử
sanh ác kiến như vầy: “Tôi hiểu Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này
luân chuyển và tái sanh, nhưng không đổi khác’.”
Các Tỳ-kheo nghe như
vậy, liền đi đến chỗ Tỳ-kheo Trà-đế hỏi:
“Này Trà-đế, thầy
thật có nói như vầy: Tôi biết Đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây thức
này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác’ chăng?”
Tỳ-kheo Trà-đế đáp:
“Này chư Hiền, tôi
thực sự hiểu Đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức này luân chuyển,
và tái sanh nhưng không đổi khác’.”
Bấy giờ các Tỳ-kheo
khiển trách:
“Thầy chớ nói như
vậy, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn, xuyên tạc Đức Thế Tôn là không tốt. Đức
Thế Tôn cũng không nói như vậy. Này Trà-đế, thức này do duyên mà khởi, Đức
Thế Tôn dùng vô lượng phương tiện nói thức này do duyên mà khởi, có duyên
thì sanh, không duyên thì diệt. Này Trà-đế thầy nên xả bỏ ác kiến này đi.”
Tỳ-kheo Trà-đế bị
các Tỳ-kheo khiển trách nhưng vẫn cố chấp ác kiến của mình và nhất quyết
nói: “Đây là điều chân thật, ngoài ra đều hư vọng” và lặp lại ba lần như
vậy.
Các Tỳ-kheo không
thể khuyên Trà-đế xả bỏ ác kiến ấy, liền đứng dậy ra về, và đến chỗ Phật.
Đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn,
Tỳ-kheo Trà-đế sanh ác kiến như vầy: Tôi hiểu Đức Thế Tôn nói pháp như
vầy, ‘Ở đây thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác.’ Bạch
Thế Tôn, chúng con nghe vậy liền đến chỗ Tỳ-kheo ấy và hỏi: Này Trà-đế,
thật thầy có nói như vầy, ‘Tôi hiểu Thế Tôn nói như vầy, ‘Ở đây, thức này
luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác’ chăng?’ Trà-đế đáp chúng con
rằng: Này chư Hiền, tôi thật sự hiểu Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây,
thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi khác’. Chúng con khiển
trách: ‘Thầy chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn, xuyên tạc Đức Thế
Tôn là không tốt, Đức Thế Tôn cũng không nói như vậy. Này Trà-đế, thức này
do duyên mà khởi, Đức Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện nói thức này do
duyên mà khởi, có duyên thì sanh, không duyên thì diệt. Này Trà-đế, thầy
nên xả bỏ ác kiến ấy đi.’ Chúng con khiển trách như vậy, nhưng Tỳ-kheo ấy
vẫn cố chấp ác kiến của mình và nhất quyết nói: ‘Đây là chân thật, ngoài
ra là hư vọng’, và lặp lại ba lần như vậy. Bạch Thế Tôn, chúng con không
thể khuyên Tỳ-kheo Trà-đế bỏ ác kiến ấy, liền đứng dậy ra về.”
Đức Thế Tôn nghe
xong, bảo một Tỳ-kheo:
“Hãy đến chỗ Tỳ-kheo
Trà-đế nói như vầy: ‘Đức Thế Tôn gọi thầy’.”
Lúc bấy giờ Tỳ-kheo
ấy vâng lời Đức Thế Tôn, từ chỗ ngối đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu
quanh ba vòng rồi đi. Đến chỗ Tỳ-kheo Trà-đế, nói lại lời Phật dạy: “Đức
Thế Tôn gọi thầy.”
Tỳ-kheo Trà-đế liền
đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân rồi ngồi sang một bên.
Đức Thế Tôn hỏi:
“Ngươi có thật nói
như vầy: Tôi hiểu Đức Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Ở đây, thức luân chuyển,
và tái sanh nhưng không đổi khác’ chăng?”
Tỳ-kheo Trà-đế đáp:
“Bạch Thế Tôn, con
thật sự hiểu Thế Tôn nói pháp như vầy: ‘Thức này luân chuyển và tái sanh
không đổi khác’.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Thế nào là thức?”
Tỳ-kheo Trà-đế đáp:
“Thức này nói năng,
cảm thọ, hành động, và sai bảo hành động. Đứng dậy và sai bảo đứng dậy, nó
tạo tác các nghiệp thiện ác chỗ này chỗ kia để rồi thọ báo.”
Đức Thế Tôn quở:
“Này Trà-đế, do đâu mà ngươi hiểu Ta thuyết pháp như vầy? Người nghe từ
miệng người nào mà nói Ta thuyết pháp như vậy? Ngươi là kẻ ngu si. Ta
không nói một chiều, ngươi lại nói một chiều chăng? Khi nghe các Tỳ-kheo
khiển trách, ngươi bấy giờ phải đúng như pháp mà trả lời. Để Ta hỏi lại
các Tỳ-kheo đã.”
Bấy giờ Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:
“Các thầy cũng hiểu
Ta nói pháp như vậy, ‘Thức này luân chuyển và tái sanh nhưng không đổi
khác chăng?’.”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Các ngươi hiểu Ta
nói pháp như thế nào?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Chúng con hiểu Thế
Tôn nói pháp như vầy: ‘Thức do duyên mà khởi, Thế Tôn nói thức do duyên mà
khởi. Thức có duyên thì sanh, không duyên thì diệt’. Chúng con hiểu Thế
Tôn nói pháp như vậy.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành thay! Này các Tỳ-kheo, các ngươi hiểu Ta nói pháp như
vậy. Vì sao? Ta cũng nói pháp như vậy: ‘Thức do duyên mà sanh. Ta nói thức
do duyên là khởi. Thức có duyên thì sanh, không duyên thì diệt’. Thức tùy
theo những gì nó duyên vào để sanh khởi mà gọi tên theo duyên ấy. Mắt
duyên sắc sanh thức, thức sanh khởi ấy được gọi là nhãn thức. Tai, mũi,
lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Pháp duyên ý sanh thức, thức sanh khởi ấy được
gọi là ý thức. Ví như lửa tùy theo những gì nó duyên vào để sanh khởi mà
gọi theo duyên đó. Lửa duyên cây mà khởi được gọi là lửa cây. Lửa duyên cỏ
rác mà sanh được gọi là lửa cỏ, lửa rác. Cũng vậy, thức tùy theo những gì
nó duyên vào đó để sanh thì gọi tên theo duyên đó. Mắt duyên sắc sanh
thức, thức sanh khởi ấy được gọi là nhãn thức. Tai mũi, lưỡi, thân, ý cũng
như vậy. Pháp duyên ý sanh thức, thức sanh khởi ấy gọi là ý thức.”
Đức Thế Tôn lại
khen:
“Lành thay! Lành
thay! Các ngươi hiểu Ta nói pháp như vậy. Nhưng Tỳ-kheo Trà-đế này là
người ngu si, ghi nhớ và hiểu biết điên đảo văn và nghĩa. Rồi do ghi nhớ
và hiểu biết điên đảo văn và nghĩa, cho nên xuyên tạc Ta, để tự làm tổn
thương. Có phạm có tội là điều mà các vị Phạm hạnh có trí không hoan hỷ,
và cũng là một đại tội.
“Này người ngu si,
ngươi có biết chỗ ác bất thiện này chăng?”
Bấy giờ Tỳ-kheo
Trà-đế bị Thế Tôn trách mắng ngay mặt, trong lòng buồn rầu, cúi đầu im
lặng, không có lời để biện bạch, suy nghĩ mông lung.
Đức Thế Tôn sau khi
quở trách ngay mặt Tỳ-kheo Trà-đế, nói với các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói pháp
rốt ráo không phiền, không nhiệt, hằng hữu, bất biến cho các ngươi nghe.
Những người có trí phải quán như vậy. Hãy lắng nghe. Hãy lắng nghe. Hãy
khéo suy niệm.”
Bấy giờ các Tỳ-kheo
vâng lời lắng nghe.
Đức Phật nói:
“Đây là một chân thể
các ngươi có thấy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
thấy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Như Lai là một chân
thể, các ngươi có thấy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
thấy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Khi Như Lai diệt
rồi, cái được gọi là chân thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các ngươi thấy
chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
thấy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Đây là một chân
thể, các ngươi đã thấy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đã
thấy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Như Lai là một chân
thể, các ngươi đã thấy chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đã
thấy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Khi Như Lai diệt
rồi, cái được gọi là chân thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các ngươi đã thấy
chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đã
thấy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Đây là một chân thể
các ngươi có nghi hoặc chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn nói:
“Như Lai là một chân
thể, các ngươi có nghi hoặc chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn nói:
“Khi Như Lai diệt
rồi, cái được gọi là chân thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các ngươi có nghi
hoặc chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn nói:
“Đây là một chân
thể, do tuệ mà thấy chân thật như vậy, thì những gì nghi hoặc kia bị tiêu
diệt chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, bị
tiêu diệt.”
Đức Thế Tôn nói:
“Như Lai là một chân
thể, do tuệ mà thấy chân thật như vậy, thì những gì nghi hoặc kia bị tiêu
diệt chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, bị
tiêu diệt.”
Đức Thế Tôn nói:
“Khi Như Lai diệt
rồi, cái được gọi là chân thể ấy, cũng là pháp hủy diệt, do tuệ mà thấy
chân thật như vậy, thì những gì nghi hoặc kia bị tiêu diệt chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, bị
tiêu diệt.”
Đức Thế Tôn nói:
“Đây là một chân
thể, các ngươi đã không còn nghi hoặc chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn nói:
“Như Lai là một chân
thể, các ngươi đã không còn nghi hoặc chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn nói:
“Khi Như Lai diệt
rồi, cái được gọi là chân thể ấy cũng là pháp hủy diệt, các ngươi đã không
còn nghi hoặc chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi thấy như vậy, biết như vậy, tức là nói: ‘Tri kiến này
của tôi, nó thanh tịnh như vậy, nên chấp trước nó, tiếc nuối nó, thủ trì
nó, không muốn xả bỏ’ và các ngươi biết Ta thường nói thí dụ chiếc bè, khi
qua rồi, những gì bị bít kín, có thể được mở cho chảy xuôi chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, tức là nói: ‘Tri kiến này
của tôi, nó thanh tịnh như vậy, nhưng không chấp trước nó, không tiếc nuối
nó, không chủ trì nó, muốn xả bỏ nó’ và các ngươi biết Ta thường nói thí
dụ chiếc bè, khi biết rồi những gì bị bít kín, có thể được mở chảy xuôi
chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng
vậy.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu có kẻ dị học đến hỏi các ngươi: ‘Này Hiền giả, các ngài có tri
kiến thanh tịnh như vậy, nhưng nó có nghĩa lợi gì, có công đức gì?’ Các
ngươi trả lời thế nào?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, nếu
có kẻ dị học đến hỏi chúng con: ‘Này Hiền giả, các ngài tri kiến thanh
tịnh, như vậy, nhưng nó có nghĩa lợi gì? Có công đức gì?’ Chúng con sẽ đáp
như sau: ‘Này chư Hiền, nghĩa lợi đó là yểm ly, nghĩa lợi đó là vô dục,
nghĩa lợi đó là thấy biết như thật.’ Bạch Thế Tôn, nếu có kẻ dị học đến
hỏi, chúng con sẽ đáp như vậy.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu có kẻ dị học đến hỏi các ngươi, các ngươi nên đáp như vậy. Vì
sao? Đây được nói là sự quán sát: một là thực phẩm phần đoạn, thô hoặc tế,
nghi hoặc xúc; ba là ý niệm, bốn là thức. Bốn loại thực phẩm này lấy gì
làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, do đâu mà có? Bốn loại
thực phẩm ấy, lấy ái làm nhân, do ái mà tập khởi, từ ái mà sanh, duyên ái
mà có. Ái lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên gì
mà có? Ái lấy thọ làm nhân, do thọ tập khởi, từ thọ mà sanh, duyên thọ mà
có. Thọ lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu
mà có? Thọ lấy xúc làm nhân, do xúc mà tập khởi, từ xúc mà sanh, duyên xúc
mà có. Xúc lấy gì làm nhân, do gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu
mà có? Xúc lấy sáu xứ làm nhân, do sáu xứ mà tập khởi, từ sáu xứ mà sanh,
duyên sáu xứ mà có. Sáu xứ lấy gì làm nhân, do gì tập khởi, từ đâu mà
sanh, duyên đâu mà có? Sáu xứ lấy danh sắc làm nhân, do danh sắc mà tập
khởi, từ danh sắc mà sanh, duyên danh sắc mà có. Danh sắc lấy gì làm nhân,
lấy gì tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Danh sắc lấy thức làm
nhân, do thức mà tập khởi, từ thức mà sanh, duyên thức mà có. Thức lấy gì
làm nhân, do cái gì tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà có? Thức lấy
hành làm nhân, do hành mà tập khởi, từ hành mà sanh, duyên hành mà có.
Hành lấy gì làm nhân, do cái gì mà tập khởi, từ đâu mà sanh, duyên đâu mà
có? Hành lấy vô minh làm nhân, do vô minh mà tập khởi, từ vô minh mà sanh,
duyên vô minh mà có. Đó là duyên vô minh có hành, duyên hành có thức,
duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục nhập, duyên lục nhập có xúc,
duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu,
duyên hữu có sanh, duyên sanh có già, chết, sầu bi khóc lóc, ưu khổ, ác
não. Như vậy, toàn vẹn khối lớn, khổ đau này phát sanh.
“Duyên sanh có già,
chết. Ở đây nói là duyên sanh có già, chết, ý các ngươi nghĩ sao?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, duyên
sanh có già, chết, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên sanh, có già,
chết.”
“Duyên hữu có sanh,
ở đây nói là duyên hữu có sanh, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
hữu có sanh, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên hữu có sanh.”
“Duyên thủ có hữu, ở
đây nói là duyên thủ có hữu, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
thủ có hữu, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên thủ có hữu.”
“Duyên ái có thủ, ở
đây nói là duyên ái có thủ, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
ái có thủ, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên ái có thủ.”
“Duyên thọ có ái, ở
đây nói là duyên thọ có ái, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
thọ có ái, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên thọ có ái.”
“Duyên xúc có thọ, ở
đây nói duyên xúc có thọ, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
xúc có thọ, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên xúc có thọ.”
“Duyên sáu xứ có
xúc, ở đây nói là duyên sáu xứ có xúc, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
sáu xứ có xúc, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên sáu xứ có xúc.”
“Duyên danh sắc có
sáu xứ, ở đây nói là duyên danh sắc có sáu xứ, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
danh sắc có sáu xứ, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên danh sắc có sáu
xứ.”
“Duyên thức có danh
sắc, ở đây nói là duyên thức có danh sắc, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
thức có danh sắc, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên thức có danh sắc.”
“Duyên hành có thức,
ở đây nói duyên hành có thức, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Duyên hành có thức,
ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên hành có thức.”
“Duyên vô minh có
hành, ở đây nói duyên vô minh có hành, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, duyên
vô minh có hành, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì duyên vô minh có hành.”
Đây là duyên vô minh
có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu
xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có
thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già, chết, sầu bi,
khóc lóc, ưu khổ, áo não. Như vậy, toàn bộ khối lớn khổ đau này phát sanh.
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Này các Tỳ-kheo, các ngươi nói như vậy. Vì sao? Ta cũng nói như vậy.
Duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên
danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có
ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có
già, chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ão não. Như vậy, toàn vẹn khối lớn
đau khổ này phát sanh.
“Sanh diệt thì già
chết diệt, ở đây nói là sanh diệt thì già, chết diệt, ý các ngươi nghĩ
sao?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, sanh
diệt thì già, chết diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì sanh diệt thì
già, chết diệt.”
“Hữu diệt thì sanh
diệt, ở đây nói hữu diệt thì sanh diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, hữu
diệt thì sanh diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì hữu diệt thì sanh
diệt.”
“Thủ diệt thì hữu
diệt, ở đây nói là thủ diệt thì hữu diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, thủ
diệt thì hữu diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì thủ diệt thì hữu diệt.”
“Ái diệt thì thủ
diệt, ở đây nói ái diệt thì thủ diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, ái
diệt thì thủ diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì ái diệt thì thủ diệt.”
“Thọ diệt thì ái
diệt, ở đây nói thọ diệt thì ái diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, thọ
diệt thì ái diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì thọ diệt thì ái diệt.”
“Xúc diệt thì thọ
diệt, ở đây nói xúc diệt thì thọ diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, xúc
diệt thì thọ diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì xúc diệt thì thọ diệt.”
“Sáu xứ diệt thì xúc
diệt, ở đây nói sáu xứ diệt thì xúc diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, sáu
xứ diệt thì xúc diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì sáu xứ diệt thì xúc
diệt.”
“Danh sắc diệt thì
sáu xứ diệt, ở đây nói danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, ý các ngươi nghĩ
sao?”
“Bạch Thế Tôn, danh
sắc diệt thì sáu xứ diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì danh sắc diệt
thì sáu xứ diệt.”
“Thức diệt thì danh
sắc diệt, ở đây nói thức diệt thì danh sắc diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, thức
diệt thì danh sắc diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì thức diệt thì danh
sắc diệt.”
“Hành diệt thì thức
diệt, ở đây nói hành diệt thì danh sắc diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, hành
diệt thì thức diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì hành diệt thì thức
diệt.”
“Vô minh diệt thì
hành diệt, ở đây nói vô minh diệt thì hành diệt, ý các ngươi nghĩ sao?”
“Bạch Thế Tôn, vô
minh diệt thì hành diệt, ý chúng con như vậy. Vì sao? Vì vô minh diệt thì
hành diệt.”
Đây là vô minh diệt
thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh
sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt,
thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu
diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già, chết diệt, sầu bi, khóc lóc, ưu não
diệt. Như vậy, toàn vẹn khối lớn khổ này bị diệt.
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Này Tỳ-kheo, các ngươi nói như vậy. Vì sao? Ta cũng nói như vậy. Vô
minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc
diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt
thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu
diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết diệt, sầu bi, khóc
lóc, ưu khổ, ảo não diệt. Như vậy toàn vẹn khối lớn đau khổ này cũng
diệt.”
Đức Thế Tôn lại
khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi đối với quá khứ
có nghĩ: “Ta có trong thời quá khứ, hay ta không có trong thời quá khứ? Ta
có trong thời quá khứ như thế nào? Do gì mà có trong thời quá khứ chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi đối với vị lai
có nghĩ rằng: Ta sẽ có trong đời vị lai hay sẽ không có trong đời vị lai?
Có trong đời vị lai như thế nào? Do đâu mà có trong đời vị lai chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi đối với bên
trong mà có nghi hoặc rằng: Đây là thế nào? Đây là cái gì? Chúng sanh này
từ đâu đến? Sẽ đi về đâu? Do nhân gì mà đã có? Do nhân gì mà sẽ có chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có giết cha mẹ,
hại đệ tử Phật, giết A-la-hán, phá hoại Thánh chúng, có ác ý với Phật, làm
đổ máu Như Lai chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có phạm giới, xả
giới, bỏ đạo chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi thấy như vậy, biết như vậy, các ngươi có bỏ nội đạo mà
tìm đến ngoại đạo để tìm ruộng phước chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có đối với
Sa-môn Phạm chí mà nói như vầy: ‘Chư Tôn, các ngài thấy điều đáng thấy,
biết điều đáng biết’ chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có cho lễ cát
tường
là thanh tịnh chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có thấy những
kiến chấp liên hệ đến lễ cát tường của các Sa-môn Phạm chí xen lẫn khổ,
xen lẫn độc hại, xen lẫn phiền nhiệt, xen lẫn ảo não, là chân thật chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi
khi thân thể bệnh hoạn, rất là đau đớn, đến gần như tuyệt mạng bèn bỏ nội
đạo tìm đến ngoại đạo, tìm đến những Sa-môn Phạm chí kia những người trì
loại chú một câu, chú hai câu, ba câu, bốn câu, nhiều câu, trăm câu, nói
rằng: ‘Xin trì chú này để tôi thoát khổ.’ Đó là tìm đến sự khổ, tập khởi
sự khổ mà mang diệt tận khổ được chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có chấp thủ sự
tái sanh không?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Nếu các ngươi biết như vậy, thấy như vậy, các ngươi có nói như vầy:
‘Chúng ta cung kính Sa-môn, kính trọng Sa-môn, Sa-môn Cù-đàm là Bậc Tôn Sư
của chúng ta chăng?’.”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Các ngươi bằng sự tự biết, tự thấy, tự giác đối với sự chứng đắc tôi
chánh giác, các ngươi có tùy theo những điều được hỏi mà trả lời chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn,
không.”
Đức Thế Tôn khen:
“Lành thay! Lành
thay! Ta chân chánh điều ngự các ngươi đối với pháp hoàn toàn rốt ráo,
không phiền, không nhiệt, thường hằng, không biến đổi, được biết bởi chánh
trí, được thấy bởi chánh trí, được giác ngộ bởi chánh trí, vì lý do đó mà
Ta đã nói rằng: Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về pháp hoàn toàn rốt ráo,
không phiền, không nhiệt, thường hằng, không biến đổi, được biết bởi chánh
trí, được thấy bởi chánh trí, được giác ngộ bởi chánh trí.
“Lại nữa, có ba sự
kiện hội hợp để thác vào thai mẹ. Đó là cha mẹ tụ tập tại một chỗ, người
mẹ trong thời kỳ có thể thọ thai, và hương ấm đã đến. Do ba sự kiện này
hợp hội mà thác vào thai mẹ. Thai mẹ kéo dài chín tháng hay mười tháng rồi
sanh. Sau rồi được nuôi dưỡng bằng máu. Máu đó ở trong Thánh pháp gọi là
sữa mẹ. Rồi thì các căn lớn dần cho đến thành tựu, ăn cơm, ăn cháo, dầu tô
thoa mình, rồi mắt nó thấy sắc, ưa thích sắc đẹp, ghét bỏ sắc xấu. Nó
không lập niệm tại thân, với một tâm nhỏ mọn; nó không như thật biết tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, những pháp ác bất thiện được sanh ra, không bị
diệt tận vô dư, không bị hủy hoại, không dư tàn. Tai, mũi, lưỡi, thân ý
cũng như vậy. Ý biết pháp, ưa thích cái đẹp, ghét bỏ cái xấu. Nó không lập
niệm tại thân, với một tâm nhỏ mọn. Nó không biết như thật tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Những pháp ác bất thiện được sanh ra, không bị diệt tận vô
dư, không bị hủy hoại, không dư tàn. Nó tùy những gì ưa, ghét mà lãnh nạp
cảm thọ, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không lạc, không khổ. Nó hoan lạc với
cảm lạc ấy, tìm cầu, chấp trước, chấp thủ cảm thọ ấy. Nó sau khi hoan lạc
với cảm thọ ấy, tìm cầu chấp trước, chấp thủ cảm thọ ấy rồi. Nếu nó là cảm
thọ lạc, vì do chấp thủ và duyên thủ mà có hữu, duyên hữu có sanh, duyên
sanh có già chết, ưu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não. Như vậy toàn vẹn khối
lớn khổ đau này phát sanh.
“Này Tỳ-kheo, như
vậy há không phải là đầy đủ để sự tương tục trói buộc bởi ái như Tỳ-kheo
Trà-đế Kê-hòa-đa Tử chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, như
vậy là đầy đủ để sự tương tục bị trói buộc bởi ái như Tỳ-kheo Trà-đế
Kê-hòa-đa Tử.”
“Nếu khi Như Lai
xuất thế, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật,
Chúng Hựu. Mắt vị ấy thấy sắc, nhưng đối với sắc đẹp không hoan lạc chấp
trước, đối với sắc xấu không ghét bỏ. Vị ấy lập niệm tại thân với một tâm
vô lượng, biết như thật là tâm giải thoát, tuệ giải thoát, các pháp ác bất
thiện đã sanh bị tận diệt vô dư, bị hủy hoại không dư tàn. Tai, mũi, lưỡi,
thân và ý cũng như vậy. Ý biết pháp đối với cái đẹp không hoan lạc, chấp
trước, đối với cái xấu không ghét bỏ. Lập niệm tại thân với một tâm vô
lượng. Biết như thật là tâm giải thoát, tuệ giải thoát, các pháp bất thiện
đã sanh bị tận diệt vô dư, bị hủy hoại không dư tàn. Vị ấy như vậy, diệt
những gì yêu ghét được lãnh nạp bởi thọ, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc không
lạc không khổ. Vị ấy không hoan lạc theo cảm thọ ấy, không tìm cầu, không
chấp trước, không chấp thủ cảm thọ ấy. Do không hoan lạc theo cảm thọ ấy,
không tìm cầu, không chấp trước, không chấp thủ theo cảm thọ ấy, nếu có
cảm thọ lạc, nó liền diệt. Lạc diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt,
hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì già chết diệt, sầu bi, khóc lóc, ưu
khổ, ảo não cũng diệt. Như vậy, toàn vẹn khối lớn khổ đau này đều diệt.
“Này Tỳ-kheo, đây há
không phải là đầy đủ về ái diệt, giải thoát chăng?”
Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, như
vậy là đầy đủ về ái diệt giải thoát.”
Khi nói pháp này, ba
ngàn đại thiên thế giới ba lần chấn động, hết động lại động nữa, hết rung
lại rung nữa, hết rền lại rền nữa. Cho nên kinh này gọi là: “Ái tận giải
thoát.”
Đức Phật thuyết
giảng như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 16
192
|
193
|
194
|
195
|
196
|
197
|
198
|
199
|
200
|
201
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003