SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ 15
PHẨM SONG
188. KINH A-DI-NA[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du
hóa tại nước Xá-vệ, trú tại Đông viên, giảng đường Lộc tử mẫu.
Bấy giờ, vào lúc xế
chiều, Đức Thế Tôn từ tĩnh tọa đứng dậy, bước xuống giảng đường, đi kinh
hành trên khoảng đất trống, trong bóng mát của giảng đường và thuyết giảng
rộng rãi về pháp thậm thâm vi diệu cho các Tỳ-kheo nghe.
Lúc ấy, dị học
A-di-na,
đệ tử của Sa-môn Man-đầu,
từ xa thấy Đức Thế Tôn từ tĩnh tọa dậy, bước xuống giảng đường, đi kinh
hành trên khoảng đất trống, trong bóng mát của giảng đường và thuyết giảng
rộng rãi về pháp thậm thâm vi diệu cho các Tỳ-kheo nghe; Dị học A-di-na,
đệ tử của Sa-môn Man-đầu đến chỗ Phật, chào hỏi và kinh hành theo Phật.
“Đức Thế Tôn quay
lại hỏi rằng:
“Dị học A-di-na,
Sa-môn Man-đầu có thật sự tư duy với năm trăm tư duy; nếu có dị học,
Sa-môn, Phạm chí nào là vị nhất thiết tri, nhất thiết kiến, tự cho là ‘Ta
biết không sót cái gì’,
nhưng nếu có lầm lẫn thì cũng phải tự nhận là lầm lẫn.”
Dị học A-di-na, đệ
tử của Sa-môn Man-đầu đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm, Sa-môn
Man-đầu thật sự tư duy với năm trăm tư duy; nếu có dị học, Sa-môn, Phạm
chí nào là vị nhất thiết tri, nhất thiết kiến, tự cho là “Ta biết không
sót thứ gì’, nhưng nếu có lầm lẫn thì cũng phải tự nhận là lầm lẫn.”
Đức Thế Tôn lại hỏi
rằng:
“A-di-na, thế nào là
Sa-môn Man-đầu thật sự tư duy với năm trăm tư duy; nếu có dị học, Sa-môn,
Phạm chí nào là vị nhất thiết tri, nhất thiết kiến, tự cho là “Ta biết
không sót cái gì’, nhưng nếu có lầm lẫn thì cũng phải tự nhận là lầm lẫn?”
Dị học A-di-na, đệ
tử của Sa-môn Man-đầu, đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm! Sa-môn Man-đầu nói như vầy, ‘Nếu khi đi, khi đứng, khi nằm,
khi ngồi, khi ngủ, khi thức, lúc tối hay ban ngày vẫn thường không chướng
ngại tri kiến. Nhưng cũng có khi gặp voi chạy càn, ngựa phóng đại, xe ruỗi
nhanh, lính bại trận, con trai chạy trốn, con gái chạy trốn, hoặc đi trên
con đường nào đó mà gặp voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, hoặc gặp ổ rắn,
hoặc bị ném đất, hoặc bị gậy đánh, hoặc lọt xuống rãnh, hoặc rơi vào hầm
xí, hoặc đạp lên bò đang nằm, hoặc sa xuống hầm sâu, hoặc đâm vào bụi gai,
hoặc thấy thôn ấp mà phải hỏi tên đường, hoặc gặp kẻ trai người gái phải
hỏi họ hỏi tên, hoặc nhìn lầm nhà trống, hoặc vào dòng họ nào đó và khi
vào rồi được hỏi rằng: ‘Ông ở đâu đến?’ Ta đáp rằng, ‘Này chư Hiền, tôi đi
lộn đường’.’
“Thưa Cù-đàm! Sa-môn
Man-đầu đại loại như vậy, tư duy với năm trăm tư duy, và nếu có dị học
Sa-môn, Phạm chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến, tự cho rằng:
“Ta biết không sót cái gì’, nhưng vị ấy cũng có những lầm lẫn như vậy.”
Rồi Đức Thế Tôn đi
kinh hành đến mút đường, dừng lại, trải tọa cụ, ngồi kiết già, hỏi các
Tỳ-kheo:
“Những sự kiện trí
tuệ
được Ta nói đến, các người thọ trì chăng?
Các Tỳ-kheo im lặng
không đáp. Đức Thế Tôn hỏi như vậy đến ba lần:
“Những sự kiện trí
tuệ được Ta nói đến, các ngươi thọ trì chăng?”
Các Tỳ-kheo cũng ba
lần im lặng không đáp.
Lúc ấy có một
Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo, chắp tay hướng đến Phật
bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nay
thật là đúng lúc! Bạch Thiện Thệ, nay thật là đúng lúc! Nếu Thế Tôn nói
những sự kiện trí tuệ cho các Tỳ-kheo nghe thì các Tỳ-kheo sau khi nghe
Thế Tôn nói sẽ khéo léo thọ trì.”
Thế Tôn nói:
“Này Tỳ-kheo, hãy
nghe rõ và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ phân tích đầy đủ cho các ngươi.”
Bấy giờ các Tỳ-kheo
bạch rằng:
“Chúng con kính vâng
lời, lắng nghe.”
Đức Phật lại bảo
rằng:
“Có hai chúng, một
là chúng pháp, hai là chúng phi pháp.
“Sao gọi là chúng
phi pháp? Hoặc có người làm việc phi pháp, nói lời phi pháp và chúng ấy
cũng làm việc phi pháp, nói lời phi pháp. Người phi pháp ấy đứng đầu trong
chúng phi pháp, theo những điều chính mình đã biết, nhưng lại bằng những
lời hư vọng, không chân thật mà hiển thị, phân biệt, quy định hành vi, lưu
bố, tuần tự thuyết pháp, muốn đoạn trừ sự xấu xa trong tâm ý người khác,
bị cật vấn thì không thể trả lời được. Đối với trong Chánh pháp luật không
thể xứng lập những điều chính mình đã biết. Nhưng người phi pháp đứng đầu
trong chúng phi pháp, tự cho là ‘Ta có trí tuệ, hiểu biết tất cả’. Ở nơi
nào mà sự kiện trí tuệ được nói đến như vậy, ở đó được gọi là chúng phi
pháp.
“Sao gọi là chúng
pháp? Hoặc có người làm đúng pháp, nói như pháp và chúng ấy cũng làm đúng
pháp, nói như pháp. Người đúng pháp ấy đứng đầu trong chúng pháp, theo
những điều chính mình đã biết, không bằng những lời hư vọng mà bằng sự
chắc thật, hiển thị, phân biệt, quy định hành vi, lưu bố, tuần tự thuyết
pháp, muốn đoạn trừ sự xấu xa trong tâm ý người khác, khi bị cật vấn thì
có thể trả lời được, đối với Chánh pháp luật có thể xứng lập những điều
chính mình đã biết, và người ấy đứng đầu trong chúng pháp, tự cho là ta có
trí tuệ, hiểu biết tất cả’. Ở nơi nào mà sự kiện trí tuệ được nói đến như
vậy, ở đó được gọi là chúng pháp.
“Cho nên, các ngươi
nên biết pháp và phi pháp, nghĩa và phi nghĩa. Sau khi đã chứng biết pháp
và phi pháp, nghĩa và phi nghĩa rồi, các ngươi nên học pháp như thật và
nghĩa như thật.”
Phật thuyết như vậy
rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vào tịnh thất tĩnh tọa.
Bấy giờ các Tỳ-kheo
liền suy nghĩ: “Chư Hiền nên biết, Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt ý nghĩa
này, không phân biệt rộng rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vào tịnh thất
tĩnh tọa; nói rằng, ‘Cho nên các ngươi nên biết pháp và phi pháp, nghĩa và
phi nghĩa. Sau khi đã biết pháp và phi pháp, nghĩa và phi nghĩa rồi, các
ngươi nên học pháp như thật và nghĩa như thật’.”
Họ lại nghĩ rằng:
“Này chư Hiền, ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn đã
thuyết vắn tắt?”
Họ lại nghĩ rằng:
“Tôn giả A-nan là thị giả của Phật, hiểu biết ý Phật, thường được Thế Tôn
và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Tôn giả A-nan có thể phân biệt rộng
rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn đã thuyết vắn tắt. Này chư Hiền, chúng ta cùng
nhau đi đến chỗ Tôn giả A-nan để yêu cầu nói ý nghĩa bày. Nếu được Tôn giả
A-nan phân biệt cho, chúng ta sẽ khéo léo thọ trì.”
Rồi các Tỳ-kheo đi
đến chỗ Tôn giả A-nan, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Bạch Tôn giả A-nan,
xin biết cho! Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt ý nghĩa này, không phân biệt
rộng rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vào tịnh thất tĩnh tọa, rằng ‘Cho nên
các ngươi nên biết pháp và phi pháp, nghĩa và phi nghĩa. Sau khi đã biết
pháp và phi pháp, nghĩa và phi nghĩa rồi, các ngươi nên học pháp như thật
và nghĩa như thật’.
“Chúng tôi lại nghĩ,
‘Này chư Hiền! Ai có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn đã
thuyết vắn tắt?’ Chúng tôi lại nghĩ rằng: ‘Tôn giả A-nan là thị giả của
Phật, hiểu biết ý Phật, thường được Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí
khen ngợi. Tôn giả A-nan có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn
đã thuyết vắn tắt’. Cúi mong Tôn giả A-nan vì lòng từ mẫn mà phân biệt
rộng rãi cho.”
Tôn giả A-nan bảo
rằng:
“Này chư Hiền, hãy
lắng nghe tôi nói ví dụ. Người có trí sau khi nghe ví dụ thì sẽ hiểu rõ ý
nghĩa:
“Này chư Hiền, ví
như có người muốn tìm lõi cây, vì muốn tìm lõi cây nên xách búa vào rừng.
Người ấy thấy một gốc cây to, đã đầy đủ rễ, thân, đốt, cành, lá, hoa và
lõi. Người ấy không đụng đến rễ, thân, đốt, lõi, mà chỉ đụng đến cành, lá.
Những điều mà chư Hiền nói cũng giống như vậy. Đức Thế Tôn đang còn đó,
sao chư Hiền lại bỏ đi mà tìm đến tôi để hỏi ý nghĩa này? Vì sao vậy?
Chư Hiền nên
biết,Thế Tôn là Con Mắt, là Trí, là Nghĩa, là Pháp, là Pháp chủ, là Pháp
tướng, là Bậc nói nghĩa Chân đế. Mọi cứu cánh được chỉ bày do bởi Thế Tôn
ấy. Chư Hiền nên đến chỗ Đức Thế Tôn mà hỏi ý nghĩa này, ‘Bạch Thế Tôn,
điều này là thế nào? Điều này có ý nghĩa gì?’ Đúng như những lời Thế Tôn
nói, chư Hiền hãy khéo léo thọ trì.”
Lúc ấy các Tỳ-kheo
bạch rằng:
“Bạch Tôn giả A-nan,
vâng, Đức Thế Tôn là Con Mắt, là Trí, là Nghĩa, là Pháp, là Pháp chủ, là
Pháp tướng, là bậc nói nghĩa Chân đế. Mọi cứu cánh được chỉ bày do bởi Thế
Tôn ấy. Nhưng Tôn giả A-nan là thị giả của Phật, hiểu biết ý Phật, thường
được Thế Tôn và các vị Phạm hạnh có trí khen ngợi. Bạch Tôn giả A-nan, Tôn
giả có thể phân biệt rộng rãi ý nghĩa mà Đức Thế Tôn đã thuyết một cách
vắn tắt. Cúi mong Tôn giả A-nan vì lòng từ mẫn mà phân biệt rộng rãi cho.”
Tôn giả A-nan nói
với các Tỳ-kheo rằng:
“Này chư Hiền, vậy
hãy cùng nghe tôi nói.
“Này chư Hiền, tà
kiến là phi pháp, chánh kiến là pháp. Nếu điều nào nhân bởi tà kiến mà
sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện, đó gọi là phi nghĩa. Nếu nhân bởi
chánh kiến mà sanh ra vô lượng pháp thiện, đó gọi là nghĩa.
“Này chư Hiền, cho
đến tà trí là phi pháp, chánh trí là pháp. Nếu nhân bởi tà trí mà sanh ra
vô lượng pháp ác bất thiện, đó gọi là phi nghĩa. Nếu nhân bởi chánh trí mà
sanh ra vô lượng pháp thiện, đó gọi là nghĩa.
“Này chư Hiền! Sự
kiện Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt ý nghĩa này, không phân biệt rộng rãi,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vào tịnh thất tĩnh tọa, rằng ‘Cho nên các ngươi
nên biết pháp và phi pháp, nghĩa và phi nghĩa. Sau khi đã biết pháp và phi
pháp, nghĩa và phi nghĩa rồi, các ngươi nên học pháp như thật và nghĩa như
thật’.
“Ý nghĩa mà Đức Thế
Tôn chỉ nói vắn tắt chứ không phân biệt rộng rãi này, tôi bằng câu ấy,
bằng văn ấy mà diễn rộng ra như vậy. Chư Hiền có thể đến trình bày đầy đủ
lên Đức Phật. Nếu đúng như ý nghĩa mà Đức Thế Tôn nói thí chư Hiền hãy thọ
trì.”
Bấy giờ các Tỳ-kheo
sau khi nghe những gì Tôn giả A-nan nói, khéo léo thọ trì, đọc thuộc, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Tôn giả A-nan ba vòng rồi đi. Khi đến
chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, vừa
rồi Thế Tôn chỉ nói vắn tắt ý nghĩa này, không phân biệt rộng rãi, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, vào tịnh thất tĩnh tọa. Tôn giả A-nan đã bằng câu ấy,
bằng văn ấy mà diễn rộng ra.
Đức Thế Tôn nghe
xong, khen rằng:
“Lành thay! Lành
thay! Trong hàng đệ tử của Ta có những vị có Mắt, có Trí, có Pháp, có
Nghĩa. Vì sao vậy? Vì Tôn sư nói ý nghĩa này cho đệ tử một cách vắn tắt mà
không phân biệt rộng rãi, đệ tử ấy bằng câu ấy, bằng văn ấy mà diễn rộng
ra.
“Đúng như những gì
A-nan nói, các ngươi hãy như vậy mà thọ trì. Vì sao vậy? –Vì thuyết quán
nghĩa phải như vậy.”
Phật thuyết như vậy,
các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ 15
182
|
183
|
184
|
185
|
186
|
187
|
188
|
189
|
190
|
191
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003