SỐ 26 – KINH TRUNG
A-HÀM (I)
Hán dịch:
Phật Đà
Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú:
Thích Tuệ
Sỹ
---o0o---
PHẨM THỨ
4
PHẨM VỊ TẰNG
HỮU PHÁP
37. KINH CHIÊM-BA[1]
Tôi
nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa
tại Chiêm-ba, ở bên hồ Hằng-già.
Bấy giờ là ngày mười
lăm trong tháng, là ngày Thế Tôn thuyết Tùng giải thoát,
trải tọa ngồi trước chúng Tỳ-kheo. Khi Đức Thế Tôn ngồi xong, liền nhập
định và bằng tha tâm trí Ngài quan sát tâm đại chúng. Khi quan sát tâm đại
chúng rồi, cho đến lúc hết buổi đầu hôm, Ngài vẫn ngồi im lặng.
Bấy giờ có một
Tỳ-kheo
từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa y chắp tay hướng về Đức Phật thưa
rằng:
“Bạch Thế Tôn, đã
hết buổi đầu hôm, Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã lâu, mong
Đức Thế Tôn nói thuyết Tùng giải thoát.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn
im lặng không trả lời.
Thế rồi, cho đến
phần giữa đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng. Tỳ-kheo kia lại lần nữa, từ
chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Phật và thưa
rằng:
“Bạch Thế Tôn, buổi
đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng sắp hết; Phật và chúng Tỳ-kheo tập
trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết Tùng giải thoát.”
Đức Thế Tôn lại một
lần nữa không trả lời.
Thế rồi, cho đến
phần cuối đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng. Tỳ-kheo kia lại lần thứ ba từ
chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Thế Tôn mà thưa
rằng:
“Bạch Thế Tôn, buổi
đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng sắp
hết, trời gần về sáng, không bao lâu nữa, mặt trời sẽ mọc; Phật và chúng
Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong Đức Thế Tôn thuyết pháp Tùng
giải thoát.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn
bảo vị Tỳ-kheo kia rằng:
“Trong chúng này có
một thầy Tỳ-kheo làm đã việc bất tịnh.”
Lúc đó Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng đang ở trong chúng. Rồi Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên liền suy nghĩ thế này: “Vì Tỳ-kheo nào mà Đức Thế Tôn nói
trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh? Ta nên nhập định
có hình thức như thế,
nhân trong định có hình thức như thếá, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm
niệm đại chúng.”
Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên nhập định có hình thức như thế, nhân trong định có hình thức
như thế, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm niệm đại chúng.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền biết vị Tỳ-kheo mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói
trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh.
Rồi thì, Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên xuất định, đi đến trước vị Tỳ-kheo ấy, nắm tay kéo đi, mở
cửa lôi ra bên ngoài mà nói:
“Này người ngu si,
hãy đi xa đi, đừng sống ở đây,
không được trở lại hội họp với đại chúng Tỳ-kheo, từ nay trở đi ông không
phải là Tỳ-kheo nữa.”
Ngài đóng cửa, gài
chốt then lại, rồi trở về chỗ Đức Phật, cúi đầu sát lạy chân Phật, rồi
ngồi sang một bên mà thưa rằng:
“Vị Tỳ-kheo mà vì vị
ấy Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh;
con đã đuổi vị ấy đi rồi. Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm
cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng sắp hết, trời gần về sáng, không bao
lâu nữa, mặt trời sẽ mọc; Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá
lâu, mong Đức Thế Tôn thuyết pháp Tùng giải thoát.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Đại
Mục-kiền-liên, kẻ ngu si sẽ mắc đại tội nếu gây phiền nhiễu cho Đức Thế
Tôn và chúng Tỳ-kheo. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu Đức Như Lai ở giữa chúng
bất tịnh mà thuyết Tùng giải thoát thì đầu người kia sẽ vỡ thành bảy mảnh.
Do đó, này Đại Mục-kiền-liên, từ nay về sau các thầy hãy thuyết Tùng giải
thoát, Đức Như Lai không thuyết Tùng giải thoát nữa.
Vì sao như thế?
“Này Đại
Mục-kiền-liên, giống như đại hải, từ đáy lên trên, chu vi dần dần rộng
hơn, nghiêng chênh chếch lên dần mãi tạo thành bờ biển. Nước trong ấy luôn
luôn đầy, chưa từng chảy ra ngoài. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật
của Ta cũng giống như vậy, dần dần thực hành, dần dần học tập, dần dần
đoạn trừ và dần dần giáo hóa. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu trong chánh pháp
Ta dần dần thực hành, dần dần học, dần dần đoạn trừ và dần dần giáo hóa,
thì đó là pháp vị tằng hữu thứ nhất trong Chánh pháp luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như thủy triều trong đại hải chưa từng sai thời. Này
Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, những cấm
giới được thi thiết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; các
thiện nam tử ấy dù cho đến mạng chung cũng không phạm giới. Này Đại
Mục-kiền-liên, nếu trong Chánh pháp luật của Ta những cấm giới được thi
thiết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; các thiện nam tử ấy dù
cho đến mạng chung cũng không phạm giới; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ
hai trong Chánh pháp luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như nước trong đại hải rất sâu không đáy, rộng không
thấy bờ. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy,
các pháp rất sâu không đáy, rất rộng không thấy bờ. Này Đại Mục-kiền-liên,
nếu Chánh pháp luật của Ta rất sâu không có đáy, rất rộng không thấy bờ;
thì đó là pháp vị tằng hữu thứ ba trong Chánh pháp luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như nước trong đại hải cùng một vị mặn. Này Đại
Mục-kiền-liên, Chánh pháp của Ta cũng giống như vậy, chỉ có một vị là vị
vô dục, vị giác, vị tịch tĩnh và vị đạo. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu Chánh
pháp luật của Ta chỉ có một vị là vị vô dục, vị giác, vị tịch tĩnh và vị
đạo; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ tư trong Chánh pháp luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như đại hải có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí
báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó. Tên của các
trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc,
bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu.
Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, có rất
nhiều trân bảo, vô lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được
chứa đầy trong đó. Những pháp trân bảo đó là: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần,
bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, Thánh đạo tám chi. Này
Bà-la-la, nếu trong Chánh pháp luật của Ta cũng có rất nhiều trân bảo, vô
lượng đồ quí báu lạ mắt; đủ các loại đồ trân kỳ được chứa đầy trong đó.
Những pháp trân bảo đó là: Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm
căn, năm lực, bảy giác chi, Thánh đạo tám chi; thì đó là pháp vị tằng hữu
thứ năm trong Chánh pháp luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như đại hải là chỗ cư trú của các vị thần lớn. Những
vị thần đó tên là A-tu-la, Kiền-thấp-hòa, La-sát, cá kình, rùa, cá sấu,
Bà-lưu-nê, Đế-nghê, Đế-nghê-già-la, Đề-đế-nghê-già-la. Lại nữa, trong đại
hải, rất kỳ lạ, rất đặc biệt, có chúng sanh thân thể tới một trăm do-diên,
hai trăm do-diên, cho đến ba trăm do-diên, bảy trăm do-diên mà thân vẫn ở
trong trong đại hải. Này Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng
giống như vậy, có các thần to lớn, là Thánh chúng, đều cư trú trong đó.
Tên của các thần to lớn đó là: A-la-hán, Hướng A-la-hán, A-na-hàm, Hướng
A-na-hàm, Tư-đa-hàm, Hướng Tư-đa-hàm, Tu-đà-hoàn, Hướng Tu-đà-hoàn. Này
Đại Mục-kiền-liên, nếu trong Chánh pháp luật của Ta, có các thần to lớn,
là Thánh chúng, đều cư trú trong đó. Tên của các thần to lớn đó là:
A-la-hán, Hướng A-la-hán, A-na-hàm, Hướng A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Hướng
Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn, Hướng Tu-đà-hoàn; thì đó là pháp vị tằng hữu thứ
sáu trong Chánh pháp luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như đại hải thanh tịnh không dung chứa tử thi, nếu có
người mạng chung trong biển, thì qua một đêm, gió sẽ thổi tấp vào bờ. Này
Đại Mục-kiền-liên, Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, Thánh chúng
thanh tịnh không dung chứa tử thi. Nếu có người nào không tinh tấn, sanh
ra điều ác, phi phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, phi Sa-môn mà xưng là
Sa-môn; người ấy dù ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa;
Thánh chúng cũng lại cách người ấy rất xa. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu
trong Chánh pháp luật của Ta cũng giống như vậy, Thánh chúng thanh tịnh
không dung chứa tử thi. Nếu có người nào không tinh tấn, sanh ra điều ác,
phi phạm hạnh mà xưng là phạm hạng, phi Sa-môn mà xưng là Sa-môn; người ấy
dù ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa; Thánh chúng cũng
lại cách người ấy rất xa; đó là pháp vị tằng hữu thứ bảy trong Chánh pháp
luật của Ta.
“Lại nữa, này Đại
Mục-kiền-liên, giống như đại hải thuộc về châu Diêm-phù có năm sông lớn,
là Hằng-già, Diêu-vưu-na, Xa-lao-phù, A-di-la-ba-đề, Ma-xí. Tất cả đều
chảy vào đại hải. Và trong đại hải nước do rồng tuôn từ trời đổ xuống,
giọt nước lớn bằng cái bánh xe. Tất nhiên, nước ấy không thể khiến cho đại
hải có tăng có giảm. Này Đại Mục-kiền-liên, trong Chánh pháp luật của Ta
cũng lại như vậy. Tộc tánh tử thuộc dòng Sát-lợi, cạo bỏ râu tóc, khoác áo
cà xa, chí tín, lìa bỏ gia đình, xuất gia học đạo, bất động tâm giải thoát
được tự tác chứng, thành tựu và an trụ. Này Đại Mục-kiền-liên, bất động
tâm giải thoát trong Chánh pháp luật của Ta không tăng không giảm. Cũng
như vậy, đối với tộc tánh tử thuộc dòng Phạm chí, dòng cư sĩ, dòng thợ
thuyền, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình, xuất gia học đạo, bất động tâm giải thoát được tự tác
chứng thành tựu an trụ. Này Đại Mục-kiền-liên, bất động tâm giải thoát
trong Chánh pháp luật của Ta không tăng
không giảm. Này Đại Mục-kiền-liên, nếu trong Chánh pháp luật của Ta, tọâc
tánh tử thuộc gòng Sát-lợi, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà xa, chí tín, lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình xuất gia học đạo, bất động tâm giải
thoát, tự tác chứng, thành tựu an trụ. Cũng vậy đối với với tọâc tánh tử
thuộc dòng Phạm chí, cư sĩ, thợ thuyền, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, bất đọâng
tâm giải thoát được tự tác chứng thành tựu và an trụ. Này Đại
Mục-kiền-liên, bất đọâng tâm giải thoát trong Chánh pháp luật của Ta không
tăng không giảm; đó là pháp vị tằng hữu trong Chánh pháp luật của Ta.”
Đức Phật thuyết như
vậy. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên và các Tỳ-kheo, sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
--- o0o ---
Mục Lục Phẩm Thứ
Tư
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41
--- o0o ---
Mục Lục Tổng Quát Kinh Trung A Hàm
Phẩm 1|
Phẩm 2 |
Phẩm 3 |
Phẩm 4 |
Phẩm 5 |
Phẩm 6
Phẩm
7 |
Phẩm 8 |
Phẩm 9 |
Phẩm 10 |
Phẩm 11 |
Phẩm 12
Phẩm 13 |
Phẩm 14 |
Phẩm 15 |
Phẩm 16 |Phẩm
17 |
Phẩm 18
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003